Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

ĐẶC điểm địa CHẤT và KHOÁNG sản đá QUÍ của NGUỒN NGUYÊN SINH và THỨ SINH đá QUÍ BAN QUÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.41 KB, 11 trang )

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN ĐÁ QUÍ CỦA
NGUỒN NGUYÊN SINH (THÀNH TẠO ĐÁ GỐC) VÀ NGUỒN THỨ
SINH (TẦNG TÍCH TỤ) ĐÁ QUÍ - NỬA QUÍ
Trong phạm vi đới Sông Hồng hiện đã biết được 2 mỏ và 5 điểm
quặng, khoáng hóa đá quí - nửa quí như sau:
1) - Mỏ rubi (saphir, spinel, granat)* ở Tân Hương.
2) - Điểm quặng corindon (spinel, topaz) thuộc đới nội tiếp xúc của
sienit thạch anh với đá phiến kết tinh ở Đá Chồng.
3) - Điểm khoáng hóa spinel, saphir (granat) trong đá hoa Bảo Yên.
4) - Các điểm khoáng hóa titan - clinohumit (granat, spinel, sfen) trong
đá hoa Núi Sõng.
5) - Các điểm khoáng hóa granat.
6) - Mỏ đá mặt trăng (granat) Bảo Hà.
Và một số vành phân tán trọng sa corindon, granat ở Bảo Yên, Trấn
Yên; vành phân tán trọng sa spinel ở Đoan Hùng và nhiều nơi khác thuộc
phạm vi phức hệ Sông Hồng.
1. Đặc điểm thành tạo gốc (nguồn nguyên sinh) đá quí
Trong số các điểm mỏ và điểm khoáng hóa nêu trên có thể xếp vào 2
kiểu thành tạo gốc như sau:
*

Các đá quí - nửa quí trong ngoặc có ý nghĩa thứ yếu.

a. Liên quan với các xâm nhập monzonit - sienit - granat felspat kiềm
Paleogen và phát triển đới skarn, plagioclasit khử silic (1), (2), (3) và (4).


b. Liên quan với các thân pegmatit phân đới giàu granat, mutcovit,
felspat tinh thể lớn (5), (6). Các biểu hiện của granat hồng, đỏ tươi
(almandin) có thể liên quan với 2 kiểu thành tạo nêu trên, cũng như các thành
tạo biến chất khu vực - tướng amfibolit của các đá phiến và plagiogơnai giàu


biotit, silimanit, granat tinh thể lớn (1 - 1,5cm).
1.1. Các biểu hiện đá quí gốc trong đới biến chất trao đổi kiềm plagioclasit
Tại tiếp xúc của xâm nhập granit felspat kiềm, granosienit - sienit biotit
thạch anh granat (Creta - Paleogen) với đá phiến kết tinh, amfibolit và
metacarbonat (đá hoa dolomit) của phức hệ Sông Hồng dọc đứt gãy phương
TB (QL70) đã phát hiện đá quí.
Điển hình cho các khoáng hóa trên là mỏ rubi (saphir, spinel. granat)
Tân Hương cách thị xã Yên Bãi 19 km về phía Tây, có tọa độ:
210 49’ 30” (12 - 13) vĩ độ bắc.
1040 54’ 29” (88 - 89) kinh độ đông.
Tờ bản đồ 5952 - I (Phủ Yên Bình), tỉ lệ 1: 50.000, thuộc xã Tân
Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, nằm gần sát QL 70 đi Lào Cai. Vùng
mỏ do dân phát hiện và khai thác thủ công (hố, giếng có chống sâu 3 - 8m) từ
tháng 3 năm 1994 dọc theo các hõm suối nhỏ và sườn đồi thấp từ km 12 đến
km 19 chiếm diện tích hàng chục ha. Tháng 12 năm 1994 chính quyền địa
phương đã quản lí, đình chỉ việc dân đào đãi trái phép vùng mỏ này.
Cấu trúc vùng mỏ tương đối đơn giản. Dọc theo QL 70 phương TB lộ
ra 2 hệ tầng trần tích biến chất Núi Voi và Ngòi Chi. Các đất đá đều bị phong


hóa mạnh, dễ vụn nát đôi nơi gặp đá phiến và plagiogơnai biotit - silimanit granat, quaczit felspat - manhetit và amfibolit dạng vỉa, phiến hóa định hướng
tương đối rõ. Về phía cánh nâng của đứt gãy lộ ra 3 thể xâm nhập nhỏ gồm
granosienit - sienit biotit thạch anh với diện tích các thể 0,1 - 0,5km2. Những
đặc điểm của các thể trên không khác biệt với các đá sáng màu và cao kiềm
thuộc tổ hợp xâm nhập gabroit - monzonit - sienit lộ ra ở các vùng Lục Yên
và Ba Bể (Hoàng Trĩ). Ở đây ít gặp các thể gabroit và monzonit do chưa được
nghiên cứu rộng hơn. Tại các tiếp xúc phía đông của các thể xâm nhập á kiềm
này đã gây biến chất trao đổi kiềm với các trầm tích nguồn gốc sét giàu
nhôm, vôi sét và đá lục thuộc phần trên của hệ tầng Núi Voi (PR1-2nv) để tạo
nên các đới plagioclasit và đá biến chất trao đổi kiềm gồm plagioclas

(oligoclas) - granat - silimanit - andalusit - disten - muscovit - corindon và
các khoáng vật thứ sinh tremolit, xerixit, clorit, epidot.
Qui mô của các đới biến chất trao đổi thường rộng từ 2 - 5m và kéo dài
10 - 50m. Một phần đá này bị phủ lấp dưới các trầm tích sluvi - deluvi - Đệ
Tứ dọc theo 2 nhánh suối cạn Tân Hương. Sự khác biệt chủ yếu giữa các đá
biến chất trao đổi vừa nêu với đá granosienit, sienit và đá phiến kết tinh gơnai
của phức hệ Sông Hồng là:
Bảng 1
Đá trầm tích
Đặc điểm

Đá biến chất trao đổi

Đá magma

biến chất (tướng
amfibolit)

Độ hạt các

Rất lớn - không đều (5 -

Trung bình - nhỏ

Trung bình, ban

khoáng vật

30)


(2 - 4)

biến tinh (1 - 5)


kết tinh
(mm)
Thành
phần tổ
hợp các
khoáng vật

Giàu: Gar + Sil ± Pl ±

Ksp + Pl + Bi ± Q

Bi + Pl + Gar ±

Mus ± Dis ± And + Cor

± Gar

Sil + Q

cộng sinh
Đặc trưng
của granat
Biotit

Nâu đậm, nứt nẻ mạnh,

nhiều bao thể khoáng vật
tạp kém trong suốt.
Nâu - nâu nhạt

Hồng nhạt, trong
suốt, ít nứt
Nâu lục nhạt, vàng
nhạt

Hạt đẳng thước, tha hình,

Hạt tự hình

Plagioclas song tinh đa hợp cNg = 10

Ologoclaz -

- 120 (Ologoclaz)

Hồng, hạt lớn
không đều, nứt
thưa
Nâu đỏ

Andezin

Đáng lưu ý là sự có mặt rất hạn chế các lớp mỏng metacarbonat trong
vùng Tân Hương. Tại đây chỉ dùng các tảng lăn nhỏ đá hoa bị đập vỡ mạnh,
cỡ hạt kết tinh trung bình (1 - 3mm), chủ yếu là dolomit - calcit (99%) và ít
mutcovit và scapolit, Scapolit và muscovit là những tinh thể (vảy nhỏ) đôi

khi nằm đan xen trong calcit, lấp đầy các kẽ nứt cùng với carbonat và clorit.
Có lẽ đây là môi trường thuận lợi cho quá trình biến chất trao đổi kiềm và vôi
tiến triển dọc theo rìa khối granosienit phía TN Tân Hương.
Về phía ĐB đứt gãy QL70 là trầm tích biến chất thuộc hệ tầng Ngòi
Chi ít được khảo sát và chưa gặp khoáng hóa corindon.


1.2. Biểu hiện đá quí trong granosienit và sienit biotit thạch anh ở
Đá Chồng
Dọc theo QL70 đoạn km 9 gần đỉnh đèo lộ ra một thể xâm nhập
granosienit - sienit biotit thạch anh granat hạt vừa - nhỏ. Chúng xuyên cắt qua
các đá phiến mica granat của hệ tầng Núi Voi. Kết quả 1 mẫu giã đãi (8 kg)
đá granosienit và đãi rửa mẫu phong hóa đã gặp corindon (0,1 - 0,5 x 1mm),
saphir, spinel, topaz (1 - 30 hạt).
Hiện tại trong một số mẫu cục đã gặp được các khoáng vật granat,
corindon, spinel. Còn trong tích tụ sườn tích - tàn tích trên đới này, dân địa
phương đã “bắt sống” (đào và chọn nhặt) được nhiều viên rubi, corindon,
granat, spinel ít bị bào tròn. Đáng lưu ý là đã gặp được những viên corindon
khá lớn (5 x 10 x 3 cm3), trong đó phát hiện 2 thế hệ thành tạo: 1) - Rubi chất
lượng tốt - trung bình khá, trong suốt với màu đỏ tươi, đỏ hồng ở bên trong
và 2) - Spinel, corindon (dân địa phương gọi là ‘sa kết’) màu vàng nâu, vàng
nâu hồng, đục nứt nẻ ở bên ngoài. Tỷ lệ giữa 2 phần: rubi/ corindon là 1/10 1/20.
*

Các chữ viết tắt: And - andalusit; Bi - biotit; Cal - calcit; Cor -

corindon; Dis - disten; Dol - dolomit; Ep - epidot; Gar - granat; Ksp - felspat
kali; Ma - manhetit; Mus - muscovit; Pl - glagioclas; Q - thạch anh; Rb - rubi;
Sca - scapolit; Sh - saphir; Sil - silimanit; Sp - spinel.
Chính vì vậy nhân dân địa phương đã cưa bỏ phần ngoài (sa kết) để thu

hồi lại rubi ở phần trong của corindon. Những đặc điểm trên có lẽ do sự thay
đổi môi trường và chế độ kết tinh của spinel, corindon, rubi trong quá trình
tiến triển của hoạt động biến chất trao đổi kiềm/ skarn.


1.3. Titan - clinohumit, spinel, saphir, granat, trong đá hoa Nũi
Sõng (Đền Hùng) và Làng Ma (Bảo Yên)
Những khảo sát hạn chế ở đoạn Phố Ràng - Bảo Hà đã không ghi nhận
được sự có mặt của magma xâm nhập liên quan. Tuy nhiên bên cạnh tập đá
hoa mỏng trên đường Phố Ràng - Bảo Hà đã gặp hàng loạt các thân pegmatit
granat phân đới ở gần đèo Làng Bông và Bái Thượng có thể xếp vào pha đá
mạch của xâm nhập monzonit - sienit Paleogen (?).
Ở Núi Sõng các đới pegmatit có granat, biotit kéo dài phát triển khá
dày theo phương TB với bề dày 5 - 15m và thường kéo dài 30 - 100m. Chúng
xuyên cắt qua các đá phiến biotit, gơnai amfibol và đá vôi hoa hóa, calcifir.
Trên vùng còn có mặt của số lượng phụ amfibolit. Do biến chất trao đổi đã
xuất hiện đới mica/ vermiculit (Trần Ngọc Quân, 1991). Các đá hoa calcifir ở
Núi Sõng ngoài calcit là chính còn có mặt clinohumit (titan - clinohumit) và
sfen. Ở Làng Ma trong đá hoa có nhiều hạt nhỏ spinel màu phớt tím và granat
màu hồng nhạt, olivin màu vàng chanh và tremolit, actinonit…
1.4. Granat trong các đá phiến kết tinh, plagiogơnai có biotit,
silimanit và amfibolit
Những điểm khoáng hóa có granat trong các đá trên có mặt phổ biến
nhiều nơi trong phần thấp của phức hệ Sông Hồng nhưng tập trung trong sa
khoáng và có độ bảo tồn tương đối tốt thì gặp nhiều hơn ở vùng Bảo Yên. Tại
đây granat thường có màu đỏ, hồng tươi, ít lẫn nguyên tố tạp có độ trong suốt
cao và ít nứt nẻ.
Granat có thành phần ứng với almandin, độ chứa sắt F = 68 - 78%,
trong đá gơnai pyroxen. Granat bị thay thế bởi tập hợp simplekit hoblen -



plagioclas hoặc pyroxen - plagioclas. Nhìn chung giá trị trang sức của granat
tương đối thấp.
1.5. Đá mặt trăng (moonstone) trong pegmatit granat phân đới
Đã phát hiện được 2 điểm quặng/ mỏ đá mặt trăng trong pegmatit ở gần
đèo Làng Bông. Đá mặt trăng là loại felspat kali (izomicroclin) có kích thước
rất lớn (5 - 20cm). Chúng không màu hoặc trắng sữa, trắng đục có ánh xà cừ,
gần trong suốt đến nửa trong suốt, độ nứt nẻ không đều, vết vỡ không bằng
phẳng. Izomicroclin là một biến thể của microclin có đặc trưng quang học:
Ng = 1,535 - 1,539; Np = 1,528 - 1,529; Ng - Np = 0,007 - 0,010; 2V(+) =
800, hiếm có vi pertit và song tinh mạng lưới. Theo vi khe nứt có vết bám của
vật chất sét, mờ nhạt với vết xước nhỏ tạo cho đá có sắc loáng, ánh xà cừ.
Các vi khe nứt tương đối nông. Đôi nơi vi khe nứt sâu lấp đầy xerixit. Trong
izomicroclin đôi khi có mặt một vài vi bao thể thạch anh, plagioclas
(oligoclas) đường kính 0,08 - 0,2mm. Các mảnh tinh thể cỡ 1 x 2 x 2,5 cm3
đã được mài thí nghiệm đều đạt giá trị trang sức cỡ 20 - 25 cts.
Điểm quặng đá mặt trăng được thu hồi ở đới tàn tích và đới phong hóa
không đều tại chỗ dày 3 - 6m. Triển vọng ở dưới sâu chưa được xem xét đánh
giá. Có nhiều khả năng tạo mỏ vì đới pegmatit khá dày, các tấm felspat kali
to và đồng nhất, nứt nẻ không đều.
2. Đặc điểm thành tạo tích tụ đá quí
Được qui vào kiểu tích tụ thứ sinh của đá quí gồm có các tích tụ aluvi ở
lòng suối và đàm lầy (do đập chắn nước và vùng ngập nước của thủy điện
Thác Bà) và dạng eluvi - deluvi của lớp vỏ phong hóa dày.


2.1. Các tích tụ aluvi - proluvi
Các suối nhỏ (cấp 3, 4) trong vùng kế thừa các đứt gãy phương TB và ít
hơn là các đoạn suối phương ĐB đã tạo nên mạng thung lũng hẹp tích tụ
aluvi - proluvi theo tuyến tương đối rõ rệt (mỏ Tân Hương). Mặt khác là một

đới nâng tương đối điều hòa trong Mesozoi nhưng hụt mạnh trong Neogen
đối với phần ĐN đới Sông Hồng và nâng cao hơn ở phần TB nên ở khu vực
mỏ Tân Hương nhìn chung các tích tụ trong Kainozoi muộn kém phát triển,
đặc biệt là proluvi ở chân các đồi núi thấp.
Mỏ Tân Hương đã bị dân đào bới khai thác đá quí, trên một phần diện
tích tích tụ aluvi - proluvi và một số diện hẹp hơn đào ngay trên sườn tích và
tàn tích. Tại một số hố và giếng đào của dân khai thác đá quí ở Bãi Lầy và Hồ
Cá có thể gặp mặt cắt của tầng tích tụ aluvi - proluvi tạo nên các bãi bồi và
thềm bậc I có bề ngang từ 10 - 50m và chiều dài 500 - 700m gồm:
 Lớp 1 (0,0 - 0,4m): Đất sét xám lẫn mùn thực vật, lớp đất trồng,
không chứa hoặc có ít corindon (spinel).
 Lớp 2 (0,4 - 3,0m): Cát bột, sét lẫn ít cát hạt không đều và cát
cuội sạn và sét, tỉ lệ sét chiếm 40 - 50%, còn lại là cát cuội sỏi. Mảnh cuội
sạn chủ yếu là thạch anh, ít hơn là amfibolit, đá granosienit, đá biến đổi và
các tinh thể rubi, saphir, corindon, spinel, turmalin, granat. Độ mài tròn kém.
Phần lớn các tích tụ trên bị ngập do đắp đập hố chứa nước. Hàm lượng đá quí
được dự tính khoảng 5%, các khoáng vật đi kèm như rubi (corindon), sponel,
granat.
 Lớp 3 (2,0 - 5,0m): Sét dẻo lẫn ít cát vàng, xám, không chứa hoặc
chứa rất ít đá quí.


2.2. Tích tụ deluvi
Phân bố ở phần sườn đồi thấp, gần sát mép nước các hồ hoặc đầm lầy,
gồm từ 1 đến 2 lớp:
 Lớp 1 (0,0 - 0,5m): Đất trồng màu xám, đỏ nâu, gồm chủ yếu là
sét đỏ lẫn mùn thực vật, rễ cây, chiếm 74 - 90%, cát và các mảnh dăm thạch
anh chiếm 10 - 20%.
 Lớp 2 (0,5 - 2m - 6m): Phần chuyển tiếp, đới vỡ vụn hoặc phong
hóa dở dang của đá gốc có sét, mảnh vụn đá gốc phong hóa, đá cuội sạn

thạch anh felspat, các đá biến đổi giàu khoáng vật felspat kaolinit hóa, granat,
spinel, corindon (rubi, saphir). Lớp này dân địa phương đã đãi hoặc ‘bắt
sống’ đá quí, thường gặp các hạt lớn (2 - 15mm).
2.3. Tích tụ eluvi
Nhìn chung các đồi thấp được cấu tạo từ các trầm tích biến chất cổ nên
đới phong hóa phát triển dày. Trên mặt hoặc đỉnh vòm các đồi còn tàn tích đá
gốc phong hóa, latelit hóa ngoài mặt. Có nơi lớp đất trồng và sét xám nâu
giống lớp 1 trong kiểu deluvi nhưng có nhiều mảnh thạch anh sắc cạnh và
mảnh đá hơn. Đá lớp này có một dải, lớp mỏng (vót nhọn) giàu các mảnh
thạch anh to, sắc cạnh. Thỉnh thoảng còn ít đá quí dân chỉ đào “bắt sống” và
không đãi.
Lớp dưới là phần phong hóa sâu của đá gốc gần tương tự như lớp 2 của
kiểu nguồn gốc deluvi.
Nhìn chung lớp vỏ phong hóa của vùng có bề dày 2 - 3m, có dưới 5 7m. Đối với các vùng có pegmatit và đá phiến thạch anh - felspat - mica


thường dày hơn. Riêng granosienit và sienit biotit thạch anh granat có vỏ
phong hóa không ổn định. Các vùng lộ đá xâm nhập thường có vỏ phong hóa
mỏng đi nhanh chóng.
Như vậy các đối tượng được nhân dân địa phương khai thác đá quí ở
thung lũng suối và sườn đồi thấp và trong đới phong hóa tại chỗ và deluvi ở
thôn Loan Thượng, Bãi Lầy, ven hồ Tân Trung, Hồ Cá và gần đập Làng Đẩy.
Dọc trên trục đường QL70 ở km 14, 19, 27, 29 cũng như những biểu hiện đá
quí mà dân địa phương đáng khai thác với mức độ khác nhau. Dân địa
phương đào đãi bằng phương pháp đãi thủ công bằng sảo hoặc sàng, một số
đào đất deluvi để chọn gọi là “bắt sống”, một số đào đãi qua thùng đãi bán cơ
khí. Ngoài ra ở lòng hồ cá, đập nước dân nạo vét sỏi bùn ở đáy đập bằng bè
mảng và gầu (giống đãi vàng ở các sông).
3. Đặc điểm khoáng sản đá quí
3.1. Corindon/ rubi

Đáng lưu ý là có những viên rubi chất lượng cao với kích thước lớn,
khá trong suốt (giá bán từ 380 triệu đến hơn 1000 triệu đồng/ viên). Corindon
có viên nặng đến hàng kg và có cấu tạo giả phân lớp, cát khai, độ bào tròn
kém - không bào tròn và có viên được bao bọc trong spinel hoặc corindon
đục được gọi là “sa kết”.
3.2. Sponel
Chúng có màu đỏ, hồng, dạng tinh thể khá đặc trưng với kích thước rất
khác nhau. Cá biệt có tinh đám spinel thu được ở Bãi Lầy đến 60kg nhưng
chất lượng xấu. So với corindon thì spinel ít rạn nứt hơn, độ trong suốt tốt.


3.3. Granat
Có màu đỏ hồng, đỏ đậm, kích thước rất không đều (2 - 5mm) trong đá
gốc lớn đến 1 - 2cm. Mặt ngoài phong hóa có lẫn ít oxit sắt. Chất lượng đá
quí của granat tương đối thấp.
Theo Ngô Văn Nghiêm (1995) thì corindon, spinel, granat Tân Hương
nhìn chung thường có kích thước lớn hơn cùng loại ở Lục Yên. Về số lượng
tỷ lệ thu hồi spinel, corindon (kể cả rubi) và granat là 5,5 : 3,5 : 1 trong đó
rubi chất lượng cao chỉ chiếm tỷ lệ 3 - 5%, còn lại là nửa trong đến đục.



×