Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.5 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƯƠNG THỊ NGỌC THƯƠNG

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Dương Thị Ngọc Thương


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký hiệu viết tắt
Danh mục bảng
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
...........................................................................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.......................................................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................1
Dương Thị Ngọc Thương..................................................................................1
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BLHS:
BLTTHS:
NCTN:
TNHS:
TAND:
VKSND:


Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Người chưa thành niên
Trách nhiệm hình sự
Toà án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
...........................................................................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.......................................................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................1
Dương Thị Ngọc Thương..................................................................................1


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Ở nước ta trong những năm qua, hệ thống pháp luật và việc thực thi
pháp luật đã có những tác động rõ rệt đối với đời sống của toàn xã hội.
Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn
đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà
nước. Hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các quyền và lợi ích cơ

bản của con người, của công dân, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, cùng với các ngành luật khác, pháp luật hình sự là một
trong những công cụ hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong việc
điều chỉnh quan hệ xã hội khi phát sinh hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật
hình sự có vai trò bảo vệ các quan hệ xã hội được các luật khác thiết lập,
đồng thời thực hiện vai trò bảo vệ thông qua việc trừng phạt nghiêm minh
các hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay, nền kinh tế nước ta phát triển theo kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ như: ứng phó có kết quả trước những diễn
biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước; cơ bản giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, tốc độ phát triển đạt được mức khá cao, GDP trên đầu người
năm 2012 đã vượt mức 1.300 USD. Đời sống của nhân dân tiếp tục được cải
thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường; độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta ngày
càng được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, nước ta vẫn còn

1


gặp nhiều khó khăn và thách thức to lớn như tiêu cực của quá trình toàn cầu
hóa kinh tế đã tác động, ảnh hưởng nhất định đến đời sống kinh tế - văn hóa xã hội của nước ta. Nguy cơ phá vỡ các nền văn hóa truyền thống của dân tộc,
nhất là các truyền thống văn hóa nhân văn như: lối sống, đạo đức, nghệ thuật,
… bởi quá trình toàn cầu hóa đã tạo điều kiện cho các dòng văn hóa thác loạn,
lối sống không tốt của các nước tràn ngập vào ồ ạt, bất khả kháng không thể
chặn nổi. Trong đó, thanh niên và NCTN là đối tượng dễ bị tác động nhất.
Đối với mỗi quốc gia thanh niên bao giờ cũng giữ một vai trò hết sức to

lớn, họ là sức sống hiện tại và tương lai của dân tộc. Thanh niên luôn là lực
lượng chiến lược mà mỗi quốc gia, dân tộc quan tâm đầu tư, phát triển. Sinh
thời, Bác Hồ đã dạy “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là
do các thanh niên” và tương lai đất nước “Việt Nam có được vẻ vang sánh
vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần rất
lớn ở công học tập của các cháu”.
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã xác
định mục tiêu chung “Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu
lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; có đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì
cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri
thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành
những công dân tốt của đất nước…”.
Trong phạm vi cả nước thực tế vấn đề NCTN phạm tội đã gióng lên
những hồi chuông cảnh tỉnh đáng báo động. Cụ thể, theo số liệu thống kê của
Bộ Công an trong năm 2010, toàn quốc có 13.572 đối tượng phạm tội là thanh
thiếu niên, tăng nhiều lần so với những năm trước về số lượng phạm tội và cả

2


các vụ trọng án. Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự xã hội thì tình hình tội phạm do NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi thực hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 60%;
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm
khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do NCTN và trẻ em thực hiện.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn của đất nước, là trung tâm
kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa của khu vực phía Nam, với dân số trên 8

triệu người, hàng năm thu hút số lượng lớn người lao động, học sinh, sinh
viên từ những tỉnh thành khác đổ về thành phố để tìm kiếm việc làm và học
tập. Do đó, đã tạo ra một áp lực lớn cho thành phố về mật độ dân cư, đời sống
vật chất, tinh thần của người dân và nhất là tình hình an ninh trật tự diễn biến
ngày càng phức tạp. Số lượng NCTN phạm tội có chiều hướng gia tăng trong
những năm gần đây, theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, từ năm
2007 đến năm 2011 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra khởi tố và
xử lý 1.680 vụ phạm tội các loại, với 3.779 bị can. Trong đó, cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định khởi tố 184 vụ
án do NCTN thực hiện, chiếm 10,9% trong tổng số vụ án. Số bị can là NCTN
có 310 người, chiếm 8,2% trong tổng số bị can. Về tính chất, mức độ phạm
tội của NCTN ngày càng nghiêm trọng hơn, thủ đoạn hoạt động tinh vi, xảo
quyệt hơn, đa dạng, sử dụng nhiều loại phương tiện công cụ nguy hiểm, gây
ra hậu quả rất nghiêm trọng.
Từ các vấn đề trên, Tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “TNHS của
NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Qua đó, nghiên cứu
một cách toàn diện về TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt
Nam, đồng thời kiến nghị những giải pháp khắc phục nhằm hướng tới một hệ
thống pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện hơn, nhân văn hơn.

3


2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu khoa học
trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu đến đề tài này, hoặc nghiên cứu ở trong
tương quan là một phần, một mục trong các sách giáo trình, sách chuyên
khảo, bình luận khoa học hoặc đề cập chung khi các nhà làm luật nghiên
cứu về TNHS.

Về sách bình luận khoa học, sách chuyên khảo, sách giáo trình có các
nghiên cứu: “Chương XVIII – Những đặc thù về TNHS đối với NCTN phạm
tội” trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, năm 2007, TS. Trịnh Quốc Toản, TS. Hoàng Văn Hùng;
“Chương XVI – TNHS đối với NCTN phạm tội”, trong sách giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Tập thể Tác giả do GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên).
Đối với các công trình dưới dạng bài viết được đăng trên các tạp chí
khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình như: bài viết “Tư pháp hình sự
đối với NCTN; Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm
học và so sánh luật học (Phấn thứ I, những khía cạnh pháp lý hình sự)” của
GS.TSKH Lê Văn Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 20-10/2004; ThS. Nguyễn Thanh Trúc có bài viết “Biện pháp miễn
chấp hành có điều kiện thời hạn còn lại của hình phạt tù đối với NCTN phạm
tội” trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20 (136) tháng 12/2008.
Một số đề tài luận văn thạc sĩ cũng đã khai thác nghiên cứu các khía
cạnh của vấn đề về khoa học Luật hình sự hoặc Tội phạm học như: đề tài
“TNHS của NCTN phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn
Dũng, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003; đề tài “Bảo đảm quyền con
người của NCTN phạm tội bằng các quy định về hình phạt trong Luật hình
sự Việt Nam” của Lê Vũ Huy, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2011.

4


Các công trình nghiên cứu nói trên đã đóng góp không nhỏ vào hệ
thống khoa học pháp lý đối với NCTN nói chung cũng như khoa học pháp lý
hình sự về NCTN nói riêng. Các nghiên cứu đó hoặc tiếp cận dưới góc độ
khoa học pháp lý chung, hoặc khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự
hoặc Tội phạm học. Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào đề cập có hệ

thống, toàn diện và đồng bộ về TNHS của NCTN phạm tội và được gắn trên
phạm vi một địa bàn lớn của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh, xét ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ Luật. Do đó, với vai trò vừa là một cán bộ Đoàn, vừa là
Hội thẩm nhân dân được thường xuyên tham gia vào các phiên tòa để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của NCTN phạm tội, Tác giả lựa chọn đề tài này nghiên
cứu. Trong quá trình nghiên cứu, Tác giả cũng đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
được nhiều tri thức từ các công trình nghiên cứu trước đó trong việc hoàn
thiện nghiên cứu khoa học của mình.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về
TNHS của NCTN phạm tội theo BLHS Việt Nam hiện hành, trên cơ sở phân
tích, đánh giá số liệu tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2007 đến
năm 2011. Xác định những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về TNHS
của NCTN phạm tội, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần
hoàn thiện chế định này trong BLHS Việt Nam hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về TNHS của NCTN phạm
tội trong Luật hình sự Việt Nam. Trong đó tập trung nghiên cứu khái quát
về TNHS, TNHS của NCTN, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về TNHS của NCTN và thực tiễn xét xử NCTN phạm tội tại địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh
5


Thứ hai, nghiên cứu TNHS của NCTN phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam hiện hành. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý, quy định hình phạt và
các biện pháp tư pháp áp dụng với NCTN phạm tội.
Thứ ba, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật hình

sự Việt Nam và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu TNHS của NCTN phạm
tội, luận văn có một số giới hạn về phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, về địa bàn nghiên cứu Tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thông qua thực tiễn xét xử trong vòng 5
năm từ năm 2007 đến năm 2011.
Thứ hai, về số liệu thống kê dựa theo số liệu của VKSND thành phố
Hồ Chí Minh. Tác giả giới hạn số liệu thống kê về tình hình các vụ án do
NCTN thực hiện được đưa ra xét xử trên 24 Quận Huyện của thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 5 năm (2007 – 2011). Số liệu được Tác giả thu thập từ
VKSND thành phố Hồ Chí Minh.
4. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài
là Phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác Lê Nin và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật,
các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề thanh niên,
giáo dục thanh niên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu đặc thù, phổ
biến của khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật hình sự nói riêng như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, lịch sử, nghiên cứu số
liệu,... nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6


5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ GIÁ TRỊ ỨNG DỤNG CỦA ĐỀ TÀI
Từ thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh việc nghiên
cứu đã góp phần hoàn thiện các quy định của Luật hình sự Việt Nam và là cơ

sở cho việc nhận thức một cách đúng đắn nhất về TNHS của NCTN phạm tội.
Đề tài làm rõ TNHS của NCTN phạm tội nhằm nâng cao tính khả thi,
hiệu quả của pháp luật hình sự Việt Nam; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NCTN phạm tội.
Đề tài cũng có giá trị là công trình khoa học tham khảo cho các sinh viên,
học viên trong ngành Luật học, chuyên ngành Luật hình sự, Tội phạm học.
6. CƠ CẤU LUẬN VĂN
Cơ cấu Luận văn được quyết định bởi mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu nên ngoài Lời cám ơn; Danh mục ký hiệu viết tắt; Lời mở đầu;
Danh mục tài liệu tham khảo; Mục lục luận văn được kết cấu thành 3 chương
nội dung như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về TNHS của NCTN phạm tội trong
Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: TNHS của NCTN phạm tội theo BLHS Việt Nam hiện hành
và thực tiễn truy tố, xét xử NCTN phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh thời gian qua.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về TNHS của
NCTN phạm tội.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1.1 Trách nhiệm pháp lý
Trong đời sống xã hội, chính trị và pháp lý “trách nhiệm” được hiểu
theo hai nghĩa tương đồng, thống nhất như sau:

Một là, theo từ điển tiếng Việt “trách nhiệm” có nghĩa là điều phải
làm, phải gánh vác hoặc phải nhận về phía mình.
Hai là, “trách nhiệm” là hậu quả bất lợi do hành vi của một người gây
ra, vi phạm bổn phận, nghĩa vụ và người đó phải gánh chịu trước người khác,
trước Nhà nước.
Trách nhiệm pháp lý được đặt ra tùy theo tính chất vi phạm của hành vi
đó đối với từng nhóm quan hệ xã hội khác nhau được pháp luật bảo vệ, bao
gồm các nội dung như: trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm dân sự, TNHS v.v… Dưới góc độ khoa học pháp lý “Trách nhiệm
pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi của một chủ thể vi phạm pháp luật phải
gánh chịu và được thể hiện bằng một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước được pháp luật quy định” [65, tr.41]
1.1.2 Trách nhiệm hình sự và các đặc điểm cơ bản của trách
nhiệm hình sự
Thuật ngữ “TNHS” không được ghi nhận dưới dạng định nghĩa nhưng
tinh thần của chế định TNHS lại được ghi nhận trực tiếp tại Điều 2, Điều 8 và
Điều 16 BLHS và gián tiếp như là sự liên kết xuyên suốt các quy định của phần
chung và phần các tội phạm trong BLHS hiện hành. Theo quy định của pháp luật
8


hình sự, một người chỉ có thể phải chịu TNHS khi có đầy đủ cơ sở và những
điều kiện bao gồm cả chủ quan và khách quan. Cơ sở của TNHS được hiểu là
căn cứ buộc một người vi phạm pháp luật hình sự phải chịu TNHS. Việc nghiên
cứu chính xác và nhận thức đúng đắn cơ sở của TNHS sẽ góp phần triển khai tốt
chính sách hình sự và các nguyên tắc của Luật hình sự Việt Nam.
Với pháp luật Việt Nam việc áp dụng chính xác TNHS đối với người
phạm tội có ý nghĩa và mục đích rất quan trọng mang tính chất xã hội “…
nhằm từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới thủ tiêu tình trạng phạm tội và
những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm…” [42, tr 12]

TNHS còn bao gồm những đặc điểm riêng như sau:
Một là, TNHS là một phần của trách nhiệm pháp lý, nó mang tính
nghiêm khắc so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý khác.
Hai là, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật hình sự. Vì vậy, khi có hành vi thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội,
gây tổn hại đến các quan hệ xã hội được BLHS quy định là tội phạm thì có
nghĩa là phát sinh TNHS.
Ba là, TNHS chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật
hình sự giữa hai bên Nhà nước và người phạm tội. TNHS mang tính chất
công, Nhà nước là cơ quan duy nhất mới có quyền buộc người phạm tội
phải chịu TNHS nhằm mục đích trừng trị, trừng phạt các hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội.
Bốn là, TNHS mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng đối với bản
thân người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà trong BLHS quy
định là tội phạm.
Từ những phân tích trên, dưới góc độ khoa học luật hình sự “TNHS
được hiểu là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi
của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc

9


nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định đối với
người phạm tội” [ 65, tr 46]
1.1.3 Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cở sở của TNHS được hiểu là yếu tố nền tảng, những căn cứ chung dựa
vào đó, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới có thể áp dụng TNHS đối
với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, cơ sở của TNHS là những vấn
đề lý luận nhằm lý giải cho vấn đề là tại sao một người thực hiện hành vi
phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm đã thực hiện của mình. Việc tìm hiểu

về cơ sở của TNHS sẽ giúp chúng ta đi vào phân tích hai vấn đề cơ sở triết
học và cơ sở pháp lý của TNHS đối với NCTN phạm tội.
a. Về cơ sở triết học
Các nhà làm luật nước ta buộc người thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật phải chịu TNHS về hành vi tội phạm mà họ đã thực hiện, thông qua việc
phân tích về cơ sở triết học của TNHS đối với người phạm tội. Qua đó, giải
quyết mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm “Cơ sở của mọi trách nhiệm kể
cả trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý trong đó có TNHS là sự tự do
của con người. Con người phải chịu trách nhiệm khi có tự do” [33, tr 90]
Trách nhiệm chỉ được đặt ra khi con người có tự do và ngược lại tự do là
cơ sở của trách nhiệm. Hành vi của con người không phải là sự phản ánh trực
diện đối với hoàn cảnh mà nó là sự phản ứng thông qua sự suy xét của lý trí và
sự quyết định của ý chí. Chính vì thế, khi đặt trong cùng một hoàn cảnh, chịu sự
tác động như nhau của những điều kiện bên ngoài nhưng mỗi người khác nhau
lại có cách xử sự khác nhau. Trong trường hợp họ lại chọn cách xử sự xâm hại
đến khách thể được luật hình sự bảo vệ thì họ phải chịu TNHS về chính hành vi
phạm tội của mình. Vì vậy, cơ sở để quy kết TNHS đối với người phạm tội chính
là do họ đã thể hiện sự tự do trong việc lựa chọn cách hành xử trái với quy định
pháp luật, trong khi họ vẫn có thể lựa chọn những cách hành xử khác phù hợp
với lợi ích của bản thân và lợi ích của cộng đồng, xã hội.
10


b. Về cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý của TNHS là những căn cứ có tính chất bắt buộc
chung do luật hình sự quy định các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải
dựa vào đó mới có thể đặt vấn đề TNHS đối với người đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội.
Theo tinh thần của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: “Những gì
có thể là cơ sở của TNHS đối với việc áp dụng hình phạt cũng như việc áp

dụng hình thức TNHS với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi tội phạm
đều phải do pháp luật hình sự quy định” [58, tr 235]
Cở sở pháp lý của TNHS được quy định cụ thể tại Điều 2 của BLHS
hiện hành “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải
chịu TNHS”. Như vậy, cơ sở để truy cứu TNHS đối với một người chính là
hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm.
Ngoài BLHS không có văn bản pháp luật nào khác quy định về tội phạm. Một
người chỉ có thể phải chịu TNHS về hành vi của mình nếu hành vi đó được
BLHS quy định là tội phạm. Việc kết luận hành vi nào là tội phạm, cấu thành
tội gì, chịu hình phạt như thế nào thì cần phải xác định hành vi đó đã thoả
mãn những dấu hiệu cấu thành tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố:
khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Nếu một hành vi đã thoả
mãn hết dấu hiệu của cấu thành tội phạm tức là người đó đã thực hiện hành vi
phạm tội cụ thể được quy định trong BLHS hiện hành. Vì vậy, cấu thành tội
phạm là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ của TNHS.
1.2 NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên
a. Khái niệm người chưa thành niên
NCTN là những đối tượng dễ bị tổn thương nên luôn được Nhà nước,

11


cộng đồng xã hội quan tâm và bảo vệ. Nghiên cứu khái niệm NCTN chính là
nghiên cứu về phạm vi các đối tượng được xem là NCTN.
Dưới góc độ tâm sinh lý NCTN là những người đang trong giai đoạn
đầu của quá trình phát triển. Từ khi được sinh ra đến trưởng thành con người
cần phải trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau từ sự phát triển toàn diện
về thể chất cũng như tinh thần. Ở giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên, cùng

với sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, đời sống tâm sinh lý của NCTN cũng
bắt đầu có những biến đổi sâu sắc. NCTN chịu sự tác động chủ yếu của môi
trường sống và họ chịu sự chi phối có tính chất quyết định bởi nền giáo dục
của gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì vậy, có thể kết luận dưới góc độ
tâm sinh lý, NCTN là người chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần.
Dưới góc độ pháp luật Việt Nam theo hệ thống một số văn bản pháp
luật quy định về khái niệm NCTN cụ thể tại Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005
“Người từ đủ từ 18 tuổi trở lên là người thành niên…”, Điều 161 Bộ luật Lao
động năm 2012 “Người lao đồng chưa thành niên là người lao động dưới 18
tuổi”, Điều 68 BLHS hiện hành “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi…”.
Việc xác định NCTN theo pháp luật Việt Nam có sự đồng nhất với các
Công ước của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, khái niệm NCTN trong pháp luật
Việt Nam không đồng nhất với khái niệm trẻ em như các Công ước của Liên
hợp quốc. Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 Điều 1
quy định“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”, quy định này không
trái với các Công ước của Liên hợp quốc vì tại Công ước về quyền Trẻ em.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam khái niệm NCTN và trẻ em là hai khái
niệm khác biệt, NCTN là người chưa đủ 18 tuổi, còn trẻ em là người chưa đủ
16 tuổi. Như vậy, thông qua các quy định trong các Công ước của Liên hợp
quốc và các văn bản pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể kết luận: “NCTN là
người chưa đủ 18 tuổi”.

12


b. Đặc điểm của người chưa thành niên
Lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi người được hình thành, phát
triển từ tuổi thơ và định hình rõ nét khi bước vào lứa tuổi chưa thành niên.
Độ tuổi chưa thành niên hàm chứa trong nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi
nhận, vừa loại bỏ, vừa định dạng, vừa biến động trong nhận thức, tâm lý,

tình cảm, suy nghĩ của con người, từ đó trở thành khuôn mẫu nhân cách
của chính người đó sau này. Đặc trưng cơ bản của NCTN từ những thay đổi
thường xuyên, liên tục của các mặt như: thể chất, tình cảm, tâm lý, nhận
thức và hành vi, cụ thể:
Thứ nhất, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn có những sự thay đổi
mạnh mẽ nhất về thể chất. Sự trưởng thành nhanh chóng gần như đột biến ấy
không chỉ gây ra sự ngạc nhiên cho những người xung quanh mà còn cho
chính bản thân của họ.
Thứ hai, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mặt thể chất, đời sống tâm
lý của NCTN cũng có những biến đổi sâu sắc. Họ có tâm lý muốn khẳng định
mình và muốn được người khác thừa nhận về khả năng của mình, những biến
động đó chịu sự tác động có tính chất quyết định bởi nền giáo dục của gia
đình, nhà trường và môi trường xã hội xung quanh.
Thứ ba, từ sự thay đổi về thể chất và tâm lý, NCTN còn có những biến
đổi mạnh mẽ trong hành vi. Họ sẵn sàng và dễ dàng hành động mà không cần
có sự cân nhắc, tính toán thiệt hơn, thường nhất thời, nông nỗi và ngẫu hứng
nên dễ bị lôi kéo vào những hành vi xấu mà bản thân không nhận biết được.
Chính vì thế, NCTN là đối tượng rất dễ bị lôi kéo vào những tệ nạn xã hội.
c. Cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Xác định tuổi chịu TNHS là dấu hiệu bắt buộc khi xác định chủ thể của
tội phạm. Việc xác định chính xác tuổi của người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội có vai trò quan trọng đối với việc xác định một người có phải chịu

13


TNHS hay không. Ngoài ra, việc xác định chính xác độ tuổi còn nhằm giúp
cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng chính sách, chủ trương,
nguyên tắc và đường lối xử lý hình sự đối với những người phạm tội ở các
nhóm tuổi khác nhau.

Vấn đề xác định tuổi theo quy định của luật hình sự là tính tuổi tròn,
tuổi đủ, nghĩa là phải đủ ngày, đủ tháng. Ví dụ: NCTN là người chưa đủ 18
tuổi, như vậy 17 tuổi, 11 tháng 29 ngày vẫn được xem là người chưa đủ 18
tuổi vẫn là NCTN.
Việc tính tuổi của NCTN sẽ căn cứ trên những giấy tờ có ghi nhận ngày
sinh mà trước hết chính là giấy khai sinh của họ. Tuy nhiên, trên thực tế có
những trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm sinh của bị can, bị
cáo vì những lý do như: bị can, bị cáo không có giấy khai sinh, không có giấy
tờ tùy thân,… Điều này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc xác định tuổi của bị can, bị cáo. Chính vì thế, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động,
thương binh và xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT –
VKSTC – TANDTC – BCA – BTP – BLĐTBXH ngày 12/7/2011 về hướng
dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là
NCTN, theo đó tuổi chịu TNHS sẽ được tính dựa vào Điều 6 của Thông tư
liên tịch với những quy định rất cụ thể về xác định tuổi của bị can, bị cáo:
- Trong trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác
định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị
can, bị cáo.
- Trong Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không
xác định được ngày tháng nào trong quý đó thì phải lấy tháng cuối cùng và
ngày cuối cùng của tháng đó trong quý làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
- Trong trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối

14


năm, nhưng không xác định được ngày tháng thì phải lấy ngày 30 tháng 6
(Nửa đầu năm) hoặc ngày 31 tháng 12 (nửa cuối năm) làm ngày sinh của
bị can, bị cáo;

- Trong trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác
định được ngày tháng sinh thì phải lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày
sinh của bị can, bị cáo.
- Trong trường hợp không xác định được năm sinh của bị can, bị cáo là
NCTN thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.
- Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được chính xác NCTN
sinh vào ngày, tháng, năm nào thì phải suy đoán theo hướng tuổi thấp nhất
cho họ, đây là suy đoán có lợi.
1.2.2 Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
phạm tội
TNHS của NCTN phạm tội chính là trách nhiệm của người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của
họ ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ bằng BLHS, bản
thân họ phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong BLHS
do Toà án áp dụng theo trình tự, thủ tục tố tụng nhất định. Dựa trên nền tảng
đặc điểm của TNHS Tác giả tập trung phân tích các đặc điểm của TNHS do
NCTN phạm tội.
Thứ nhất, TNHS của NCTN phạm tội là một phần của TNHS và nó
mang các đặc điểm giống TNHS đã phân tích trên.
Thứ hai, TNHS là trách nhiệm cá nhân của NCTN trước Nhà nước và
cá nhân thực hiện thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là NCTN khi
họ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của mình và phải chịu sự trừng phạt
của Nhà nước. Căn cứ vào quy định về độ tuổi chịu TNHS, NCTN phạm tội
trong pháp luật hình sự Việt Nam chỉ bao gồm những người từ đủ 14 tuổi

15


nhưng chưa đủ 18 tuổi. Tại Điều 12 BLHS quy định người đủ từ 16 tuổi trở
lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm mà họ thực hiện, trong trường hợp

người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Bên
cạnh đó, Điều 68 của BLHS cũng quy định giới hạn ở ngưỡng trên để xem xét
theo hệ thống áp dụng tư pháp“NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
phải chịu TNHS theo những quy định của chương này, đồng thời theo những
quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với những quy định của
chương này”. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa NCTN phạm tội
“NCTN phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS là tội phạm”.
Thứ ba, cơ sở của pháp lý của TNHS của NCTN phạm tội được quy
định trong BLHS Việt Nam cụ thể được quy định tại chương X của BLHS
hiện hành và các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nội dung liên quan
đến NCTN phạm tội.
Thứ tư, NCTN thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của
họ trái với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. NCTN có quyền tự do
lựa chọn cách xử sự của mình cho phù hợp với lợi ích của bản thân mình và
lợi ích chung của xã hội. Tuy nhiên, họ lại chọn cách xử sự xâm hại đến
khách thể được luật hình sự bảo vệ thì trong trường hợp này họ phải chịu
TNHS về chính hành vi phạm tội của mình gây ra.
Thứ năm, TNHS của NCTN mang tính chất công, chỉ có Nhà nước
mới có quyền buộc NCTN phạm tội phải chịu TNHS trước Nhà nước, bản
án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Toà án là cơ sở pháp lý quan trọng
nhất để xác nhận NCTN thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật
hình sự quy định là bị cáo chính thức bị coi là “tội phạm” và“có tội”. Theo
nguyên tắc hiến định quy định tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9

16


BLTTHS năm 2003 quy định “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án

kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”, quy định này phù hợp với quy
định tại khoản 1 Điều 11 của Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền năm
1948 “Mỗi bị cáo dù đã buộc tội có quyền được coi là vô tội cho đến khi
được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên toà xét xử công
khai với mọi đảm bảo biện hộ cần thiết”.
Thứ sáu, TNHS của NCTN phạm tội về mức độ có giảm nhẹ hơn so
với TNHS của người đã thành niên phạm tội. Ở cùng một loại tội phạm được
quy định trong BLHS thì NCTN có thể không bị xem phạm tội. Căn cứ vào
quy định tại Điều 12 BLHS quy định thì người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải
chịu TNHS về mọi tội phạm và người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi
chỉ chịu TNHS về loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.
Thứ bảy, NCTN phạm tội bị toà án áp dụng theo trình tự, thủ tục tố
tụng nhất định được quy định trong BLTTHS, họ phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi được quy định trong bộ luật hình sự. Họ bị pháp luật hình sự
Việt Nam trừng trị thì có nghĩa là phải chịu sự tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
tự do nhất định; nhưng đồng thời cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ từ
phía Nhà nước đối với các quyền và lợi ích của con người theo đúng các
quy định của pháp luật.
Từ các phân tích như trên, theo Tác giả khái niệm TNHS của NCTN
phạm tội như sau “TNHS của NCTN phạm tội là trách nhiệm của người từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, họ
phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong BLHS do Toà
án áp dụng theo trình tự, thủ tục tố tụng nhất định”.
NCTN phạm tội là một dạng đặc biệt của người thành niên thực hiện
hành vi phạm tội nói chung, khi NCTN thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

17



hội được quy định trong luật hình sự là tội phạm thì họ phải gánh chịu TNHS
trước Nhà nước. Tính chất đặc thù TNHS của NCTN phạm tội thể hiện ở tính
chất, mức độ có giảm nhẹ hơn so với TNHS của người thành niên phạm tội,
xét về hình thức TNHS của NCTN phạm tội thì căn cứ vào phần quy định
chung của BLHS thì hình thức TNHS của NCTN phạm tội còn được áp dụng
ở một chương riêng biệt, độc lập đó là chương X của BLHS hiện hành. Việc
này xuất phát từ tính đặc biệt của chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Nội dung này cũng xuất phát từ chính sách nhân đạo Nhà nước và phù
hợp với những quy định tại các Điều ước, các Công ước quốc tế.
1.3 SƠ LƯỢC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.3.1 Giai đoạn từ khi sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên năm 1985
Cách mạnh tháng 8 năm 1945 thành công đã mở ra một thời kỳ mới của
dân tộc Việt Nam, ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Từ năm 1945 đến năm
1959, nước ta vẫn sử dụng các văn bản pháp luật được ban hành trong chế độ
thuộc địa trước năm 1945. Trong Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ
tịch chính phủ lâm thời Việt Nam tại Điều 1 quy định: “Cho đến khi ban hành
những bộ pháp luật duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện
hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những
luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này”.
Cùng với việc duy trì pháp luật của chế độ cũ như một giải pháp cấp
thiết, chính quyền cách mạng đã khẩn trương xây dựng pháp luật của chế độ
mới nhằm đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của cuộc kháng chiến cứu nước.
Nguồn luật hình sự chủ yếu là các Sắc lệnh với số lượng tương đối lớn trên
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, văn hoá xã hội. Giai đoạn 1945-1959
có sự xuất hiện và phát triển của hệ thống án lệ mới.
18



Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được giải phóng,
Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp 1959. Từ đó không được sử dụng các văn
bản pháp luật ban hành dưới chế độ cũ. Vào ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp có
Thông tư số 19-VHH/HS thông báo đến các Toà án yêu cầu “không nên áp
dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến nữa”. Nếu trong giai đoạn trước, Sắc
lệnh là hình thức văn bản pháp luật hình sự phổ biến thì giai đoạn 1959 1985, các Pháp lệnh và Sắc luật lại giữ vai trò quan trọng hơn trong việc điều
chỉnh quan hệ pháp luật hình sự.
Trong giai đoạn này chưa có bất cứ văn bản nào quy định về chính sách
hình sự đối với NCTN phạm tội, các văn bản pháp luật chỉ quy định về TNHS
của một loại tội phạm cụ thể như: tội tống tiền, ăn cướp, bắt cóc, ám sát, bắt
giam người trái phép, nhũng nhiễu dân chúng hoặc lưu hành giấy bạc giả, hối
lộ và biển thủ tiền công quỹ, phá huỷ công sản v..v. Khái niệm NCTN chưa
được đề cập trong bất cứ văn bản nào trong giai đoạn này. Trong các văn bản
pháp luật trong giai đoạn này nhằm chỉ đối tượng NCTN Nhà nước ta sử dụng
từ trẻ em và thanh thiếu niên. Trong pháp lệnh số: 160-LCT ngày 14/11/1979
về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì quy định độ tuổi trẻ em gồm các
em từ mới sinh đến 15 tuổi (Điều 1). Nội dung của pháp lệnh là “Mọi trẻ em
đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, không phân biệt gái, trai, dân tộc,
tôn giáo, thành phần xã hội của các em và địa vị xã hội của cha mẹ hoặc của
người nuôi dưỡng” (Điều 3) chính sách pháp luật dành cho trẻ “Cha mẹ phải
chịu trách nhiệm dân sự về những hành vi của con mình ở tuổi trẻ em đã gây
thiệt hại cho người khác và những người lôi kéo, tổ chức, xúi giục trẻ em
phạm pháp thì tuỳ mực độ nhẹ, nặng sẽ bị xử lý bằng biện pháp hành chính
hoặc bị truy tố và phạt về hình sự.” (Điều 26). Còn tại Thông tư của thủ
tướng chỉnh phủ số 8-TTg/VG ngày 13/7/1964 về việc thành lập trường giáo
dục thanh thiếu niên hư, chủ trương của thông tư này có nghĩa là nhằm giáo

19



dục thiếu niên nhi đồng, kém kỷ luật, lêu lổng, phạm trộm cắp, phạm pháp
luật nhiều lần, thông tư cũng xác định nguyên nhân là do những thiếu sót
trong việc giáo dục của gia đình và nhà trường, do ảnh hưởng của những thói
hư tật xấu còn sót lại của xã hội cũ, do ảnh hưởng của những phần tử xấu. Từ
việc xác định nguyên nhân trẻ hư hỏng thấy được chính sách hình sự của Nhà
nước ta trong giai đoạn này thừa nhận sự thiếu sót của gia đình, nhà trường và
xã hội cũ. Việc đưa các em vào trường giáo dục cũng căn cứ vào lứa tuổi và
mức độ phạm pháp của các em, tổ chức thành 2 loại trường: loại trường cho
các em từ 9 đến 13 tuổi và loại trường cho các em từ trên 13 đến 17 tuổi. Nhà
nước sử dụng chính sách khoan hồng trong việc không áp dụng hình phạt tù
đối với trẻ hư hỏng mà đưa các em vào các trường giáo dục.
1.3.2 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
Năm 1985, BLHS Việt Nam đầu tiên và cũng là Bộ luật đầu tiên của
chúng ta được ban hành. Trong khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985 đã
được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. BLHS
năm 1985 ra đời có vị trí rất quan trọng, nó trở thành công cụ sắc bén của Nhà
nước chuyên chính vô sản để bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Bộ luật bao gồm 12 chương với 280 Điều luật. Về chính sách hình sự
đối với NCTN phạm tội, BLHS năm 1985 dành riêng một Chương VII “Những quy định đối với NCTN phạm tội” với 11 điều từ Điều 57 đến Điều 67,
thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta đối với NCTN. Cụ thể tại
Điều 59 BLHS năm 1985 quy định: “Việc xử lý hành vi phạm tội của NCTN
chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và
trở thành công dân có ích cho xã hội…”. Điều này đã thể hiện việc truy cứu
TNHS đối với NCTN không phải nhằm để trừng phạt họ mà chủ yếu là cải tạo,

20



giúp đỡ họ nhận ra những sai lầm, từ đó sửa chữa hoàn thiện bản thân để trở
thành người có ích cho xã hội. Đồng thời, bộ luật cũng quy định “Không xử
phạt tù chung thân hoặc tử hình NCTN phạm tội. Khi phạt tù có thời hạn Tòa
án cho NCTN phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đã thành niên” (khoản 4, Điều 59, BLHS năm 1985). BLHS năm 1985
thể hiện tinh thần chủ động trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm; đồng thời thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước xử lý người phạm
tội không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người
có ích cho xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa và lòng tin vào
khả năng cải tạo con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngoài BLHS năm 1985 thì còn có nhiều văn bản khác do Chính phủ
ban hành như: Nghị định số 141/HĐBT ngày 13/11/1986 của Hội đồng Bộ
trưởng về chế độ buộc phải chịu thử thách của NCTN phạm tội. Nghị định
này xác định độ tuổi của NCTN là “từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi” (Điều 1);
Chỉ thị số 135/ CT ngày 14/5/1989 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng về tăng
cường công tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới; Nghị định số
149/HĐBT ngày 05/5/1992 của hội đồng bộ trưởng ban hành về chế độ tạm
giữ, tạm giam; Nghị định số 60/CP ngày 16/9/1993 của Chính phủ ban hành
quy chế trại giam; Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm ngày
31/7/1998, chương trình quốc gia phòng chống ma tuý giai đoạn 1998 – 2000
và 2001 – 2005, v..v
Trước yêu cầu của tình hình mới trong công tác đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm, BLHS năm 1999 ra đời trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý,
tích cực của BLHS năm 1985 qua bốn lần sửa đổi, bổ sung và các văn bản
pháp luật trên. So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi
cơ bản mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình
sự Việt Nam. BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 với việc bổ

21



×