Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Câu hỏi ôn tập tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.89 KB, 27 trang )

Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 1: Phân tích và làm rõ trong giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội vẫn là con đường duy nhất đúng đắn?
Câu 2: Vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ?
Câu 3: Quan điểm của HCM về xây dựng bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ công chức ?
Ý nghĩa đối với cải cách nền hành chính hiện nay ?
Câu 4: Nội dung và ý nghĩa quan điểm của HCM về bản chất dân chủ, bản chất giai cấp
công nhân của nhà nước Việt Nam?
Câu 5: Tư tưởng HCM về cán bộ và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay?

T r a n g 1 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 1: Phân tích và làm rõ trong giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội vẫn là con đường duy nhất đúng đắn?
Trước đây, Việt Nam vốn là một nước thuộc địa nữa phong kiến, yêu cầu độc lập dân tộc
và dân chủ quyện chặt với nhau và trở thành đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, biểu hiện rõ nét là
hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống xâm lược nhưng không thành. Trong quá trình
tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa MácLênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế tại
Việt Nam. Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa
xã hội”.
Đảng ta lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và là kim chỉ
nam cho mọi hành động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng
Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn từ khi Đảng ta ra đời - năm 1930. Đây là một quan
điểm kiên định, thống nhất xuyên suốt cả quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta.
Trở thành nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và ngày càng được hoàn
thiện qua quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu lí tưởng của dân


tộc Việt Nam, là con đường mà nhân dân ta đã lựa chọn.
Đây là sự lựa chọn đúng đắn của đảng ta và dân tộc ta. Sự lựa chọn này xuất phát từ
những cơ sở sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI là:
“một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt
Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự, tức là các quyền dân tộc cơ bản phải
được đảm bảo; dân tộc đó phải có quyền tự quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại.
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc. Mỗi công dân có quyền được hưởng
tự do, độc lập. Đó là quyền bất khả xâm phạm. Đồng thời, mỗi công dân cũng phải có trách
nhiệm và nghĩa vụ xây dựng và bảo về quyền độc lập thiêng liêng của mình.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình. Chỉ có hòa bình thật sự mới có độc lập hoàn
toàn. Đất nước và con người không thể có độc lập thực sự khi đất nước còn có sự xâm lược
hoặc lệ thuộc vào nước khác.
Độc lập dân tộc phải đi đến tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đất nước độc lập mà dân
không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập đó cũng chẳng có ý nghĩa gì. Bởi vậy, khi đất
nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhà nước quan tâm
đến đời sống thiết thực của nhân dân, yêu cầu chính phủ cách mạng phải làm cho dân có ăn, có
mặc, có chỗ ở, được học hành.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân.
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước phát huy

quyền làm chủ của nhân dân lao động để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Con người được giải
phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều
kiện để phát triển hết khả năng của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý. Các dân tộc đều bình đẳng, tôn trọng
và giúp đỡ lẫn nhau. Hòa bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội sau khi được nhận
thức để đạt tới trong quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, mục
tiêu của chù nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
Về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ cùa mình chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về kinh
tế: Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học
và kỹ thuật tiên tiến, được tạo lập trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng ở thời
kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Từ nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội thì tất yếu
phải thực hiện công nghiệp hóa.
Về văn hóa: Phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội, thậm chí cần
đi trước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp. Bởi vậy, cán bộ phải có văn hóa làm gốc,
công nhân và nông dân phải biết văn hóa.
Về quan hệ xã hội: Xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Hồ
Chí Minh căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần cỏ những con người xã hội
chủ nghĩa”. Thực hiện công bằng xã hội là tạo ra động lực cho chủ nghĩa xã hội. Và, để tạo
động lực cho chủ nghĩa xã hội, còn cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố về chính
trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc:

Chủ nghĩa xã hội với những ưu việt nội tại trên tất cả các lĩnh vực tạo ra cơ sở bảo đảm
chắc chắn và bền vững nhất cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc. Những cơ sở đó là: Chủ
nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ nguyên nhân kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sinh ra. Tạo ra cơ sở cơ bản này, chủ
nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng con người, phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước phát triển
chưa từng có cho dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội là thực hiện cách mạng về kinh tế, văn hóa,
khoa học và kỹ thuật. Kết quả của cuộc cách mạng này là tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cao, văn
hóa phát triển của chủ nghĩa xã hội. Kết quả này là một cơ sở - một nhân tố cơ bản để thực hiện
củng cố, giữ vững độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, bản chất của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo Người, đây là chiếc chìa khóa vạn năng để nhân dân Việt Nam
xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa với sức mạnh kỳ diệu của nhân dân là chủ và biết
làm chủ xã hội. Sức mạnh kỳ diệu này là cơ sở để nhân dân Việt Nam củng cố, giữ vững độc lập
dân tộc, biết cách tự bảo vệ và phát triển.
+ Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng
dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ tất yếu,
phải được thực hiện trước hết. Cách mạng dân tộc dân chủ ở một nước thuộc địa giải quyết hai
mâu thuẫn cơ bản, nhằm đi tới hai mục tiêu chiến lược. Ở giai đoạn cách mạng này, theo Hồ Chí
Minh biểu hiện hai mâu thuẫn cơ bản nổi lên là mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể quốc dân Việt
Nam với bọn đế quốc và tay sai. Để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu trên, Hồ Chí Minh chủ
trương đoàn kết toàn dân tộc nhằm “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”;
T r a n g 3 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

“Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”. Như vậy, ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng

(1930), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết.
Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết trong cách mạng dân tộc dân chủ, nó
cũng là khởi điểm của con đường cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, độc lập dân tộc không phải là
mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam, mà thực hiện độc lập dân tộc còn là quá trình tạo
tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội - cụ thể là:
Trước hết, về chính trị: Xác lập và phát triển các thành tố của hệ thống chính trị do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất và thực hiện đoàn kết toàn
dân trong Mặt trận; giành chính quyền và xây dựng một nhà nước cách mạng thật sự của dân,
do dân và vì dân. Có tiền đề chính trị này, khi cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn cách
mạng xã hội chủ nghĩa như là sự phát triển tự nhiên, tất yếu của giai đoạn trước, không bắt đầu
bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Hai là, về kinh tế: Bước đầu hình thành đường lối kinh tế, từng bước xây dựng các cơ sở
kinh tế có tính chất xã hội chủ nghĩa. Mục đích xây dựng phát triển kinh tế là từng bước cải
thiện đời sống nhân dân, bồi bổ các lực lượng cách mạng. Những yếu tố kinh tế này khi đi vào
cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiếp nối và phát triển toàn diện trong điều kiện mới.
Ba là, về văn hóa - xã hội: Ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ, Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản do Người sáng lập đã đưa ra đường lối xây dựng nền vãn hóa mới, nền văn hóa
cách mạng, và giải quyết những vấn đề xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đường
lối xây dựng và phát triển văn hóa - xã hội này được tiếp nối và phát triển trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc.
Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời đại mới, các nước đấu tranh giành độc lập dân
tộc thắng lợi có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là con đường cách mạng triệt để
nhất, hợp với xu thế thời đại. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng
giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới;
cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành
được thắng lợi hoàn toàn”.
Chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất có thể giải phóng triệt để dân tộc khỏi thân phận
nô lệ, bất công xã hội, bất bình đẳng giai cấp, đói nghèo và ngu dốt, giải phóng triệt để con

người, đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
- Trong giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn còn là con
đường duy nhất đúng đắn:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi
mới của Việt Nam.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi và có những bước phát triển mới, song
vẫn bộc lộ nhiều mâu thuẫn và khủng hoảng. Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày một sâu sắc.
An sinh xã hội nhìn chung không được đảm bảo.
Chủ nghĩa xã hội với những ưu việt nội tại trên tất cả các lĩnh vực tạo ra cơ sở bảo đảm
chắc chắn và bền vững nhất cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa
bỏ nguyên nhân kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sinh ra. Trên cơ sở đó, chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải
phóng con người, phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước phát triển chưa từng có cho dân tộc,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Bài học đầu tiên sau gần 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định
là “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho
độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ
chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau” .
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt dân tộc
Việt Nam đi lên trong sự nghiệp đồi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong quá
trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” .

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải nắm vững bối cảnh
mới của thế giới có nhiều yếu tố tác động tới quá trình thực hiện mục tiêu này. về kinh tế - chính
trị, cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới diễn ra với nhịp độ gia tốc đưa nhân loại tới
nền văn minh mới - nền văn minh tin học với hai biểu hiện tiêu biểu là sự ra đời nền kinh tế tri
thức và xã hội hóa thông tin. Bởi vậy, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế thế giới là tất yếu, kinh
tế thị trường mang tính toàn cầu.
Chiến tranh lạnh kết thúc nhưng chiến tranh dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và nạn khủng bố
diễn ra ở nhiều nơi. Đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn ra phức tạp và gay gắt. Nguy cơ
chiến tranh cục bộ vẫn còn. Chủ nghĩa đế quốc ra sức thực hiện “diễn biến hòa bình”. Về văn
hóa - xã hội, thông tin trên mạng Internet bùng nổ, bên cạnh mặt tích cực, cũng có nhiều tiêu
cực xâm nhập vào các quốc gia. Các nước đứng trước cuộc “xâm lăng văn hóa” từ các nước đế
quốc, v.v.. Trong bối cảnh như vậy, kiên định đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Trong đó, về độc lập dân tộc phải được chú ý toàn diện từ độc lập về
lãnh thổ; chủ quyền an ninh quốc gia, đến độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo
đức xã hội. Về chủ nghĩa xã hội, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay:
Một là, muốn xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, trước hết phải phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh của nguồn
nội lực; đồng thời phải biết tranh thủ các nguồn lực bên ngoài (ngoại lực), tận dụng thời cơ,
điều kiện quốc tế thuận lợi, làm gia tăng sức mạnh dân tộc. Tức là phát huy sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
Hai là, xác định rõ bước đi và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của đất nước, trên nguyên tắc đặt lợi ích đất nước, lợi ích dân tộc lên trên hết. Độc
lập dân tộc không có nghĩa là tự cô lập mình, mà phải tích cực hội nhập quốc tế, làm tăng sức
mạnh của đất nước và làm giàu bản sắc dân tộc...
Ba là, độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội, phải được thể hiện trong
suốt quá trình đổi mới, trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới. Đây là con đường

duy nhất đúng đắn cả trên bình diện lý luận và thực tiễn, phù hợp thời đại. Đồng thời tiếp tục
làm rõ mục tiêu, đặc trưng và động lực của chủ nghĩa xã hội trong đổi mới.
Để thực hiện những mục tiêu trên, cần phải bảo đảm những mục tiêu sau:
Phải củng cố, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Đảng phải đưa ra được đường lối đúng, thường xuyên hoàn chỉnh đường lối của mình,
phải xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, đi liền với lãnh đạo xây dựng nhà
nước cách mạng thật sự của dân, do dân và vì dân để tổ chức quản lý toàn dân tộc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
T r a n g 5 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức vững chắc làm nền tảng xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực chất của quan điểm này là xây dựng cho được lực lượng cách mạng lớn nhất, rộng
nhất, mạnh nhất cho suốt quá trình thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Liên minh công - nông - trí thức là gốc, là nền tảng của cách mạng Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm này của Người có quá trình hình thành và phát triển: Khi lãnh
đạo đấu tranh giành độc lập dân tộc, Người khẳng định, liên minh đoàn kết công - nông là gốc
của cách mạng. Khi thực hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người lại chỉ rõ, có liên minh công
- nông còn phải đoàn kết với lao động trí óc để tạo ra nền tảng của khối đoàn kết toàn dân tộc.
Thường xuyên gắn bó cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
Là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam phải biết tranh thủ sức
mạnh của cách mạng thế giới, biết tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của các
lực lượng cách mạng trên thế giới làm tăng sức mạnh của mình để vượt qua khó khăn, chiến
thắng kẻ thù, đưa cách mạng đến thành công. Hồ Chí Minh căn dặn: ba điều kiện bảo đảm cho
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội như trên, “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và

đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Ngày nay, Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định đường lối cách mạng: Độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Chỉ có đi theo con đường này chúng ta mới có nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân, mới đảm bảo được độc lập dân tộc thực sự, giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc,
khai thác được tiềm năng, thế mạnh của đất nước để hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả.


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 2: Vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ?
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam. Chính truyền thống
ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của dân tộc trước bao hiểm họa của kẻ thù. Trong thời đại Hồ
Chí Minh, tinh thần đại đoàn kết đã trở thành một thứ vũ khí cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm xây dựng và phát triển sức mạnh đoàn kết. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về tinh thần đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay vẫn còn là một vấn đề có ý nghĩa
thời sự đặc biệt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI là:
“một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt
Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Trong đó, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai
trò, nội dung, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy
đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân
tộc, dân chủ và CNXH.
- Quan niệm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết:
Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ bản quyết định cho mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Là một tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình của cách
mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành

sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp.
Đó là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết
không đơn thuần là phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng yêu nước, cách mạng mà cao hơn
đó là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng. Hồ Chí Minh tuyên bố trước toàn dân
tộc trong buổi lễ ra mắt của Đảng (3-3-1951): Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam đại thể
gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”
Do đó, đại đoàn kết phải là điểm xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối,
chủ trương của Đảng.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay:
Các nhân tố tác động đến khối đại đoàn kết:
+ Tình hình thế giới:
Bước vào thời kỳ đổi mới, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp khó lường: hòa
binhfm hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục
bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt ở nhiều nơi. Những vấn đề toàn cầu như an
ninh tài chính, năng lượng, lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... Tiếp tcuj có
những diễn biến phức tạp, không một quốc gia riêng rẽ nào có thể tự giải quyết. Khu vực châu
Á-Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn
định.
+ Tình hình trong nước:
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN, xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và đang hội nhập quốc tế, sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tếm phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so
với các nước trong khu vực, Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Xã
T r a n g 7 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh


hội có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Thế và lực của đất nước ta
mạnh lên nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết
hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững. Phấn đấu đến năm 2020, về cơ
bản, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thử thách, nguy cơ hay những khó khăn
lớn trên con đường phát triển. Nạm tham nhũng, tệ quan liêu cung như những uy thoái về tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc
thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương, chiinhs sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và
làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện
âm mưu "diến biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Mặt khác, các
thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề "nhân
quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòn làm li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ta thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh công -nông -trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay:
Quán triệt tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc,
Đảng ta luôn coi đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu, có
ý nghĩa quyết định đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
+ Mục tiêu đại đoàn kết:
Hiện nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết trong tình hình mới. Qua hơn một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, nhiều chủ
trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết được mở rộng
hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị đất
nước. Các hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã hội
được phát huy, bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội.
Có thể khẳng định, chính sách đại đoàn kết của Đảng đã thực sự là một bộ phận của

đường lối đổi mới và góp phần to lớn vào những thành quả của đất nước.
+ Quan điểm chỉ đạo đại đoàn kết:
Một là, khối đại đoàn kết dân tộc trên liên minh công-nông-trí thức được mở rộng hơn là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
Hai là, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; phải củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu XHCN.
Ba là, sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, và vì dân, cho nên mọi chủ trương
chính sách của Đảng ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện.Do đó, cần phải phát
triển nguồn lực con người, đào tạo đội ngũ cán bộ tốt, có phẩm chất, đủ năng lực đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH đất nước, khơi dậy và phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, coi dân chủ là mục
tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức và quyền làm chủ cho nhân
dân.
Bốn là, phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn
xã hội, nhất là tệ tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; phải biết lắng
nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân; phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân
dân, làm cho lòng dân được yên.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đoàn kết quốc tế độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới. Việt Nam


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ phong trào cách mạng, các xu hướng tiến bộ của thời đại vì
mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Nguyên tắc đại đoàn kết:
Thứ nhất, đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích
giữa các thành viên trong xã hội.
Thứ hai, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đoàn kết

dân tộc.
Thứ ba, phải biết tin dân, lắn nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn
vướng mắc của dân; làm tốt công tác dân vận.
Thứ tư, đoàn kết quốc tế phải trên cơ sở tôn trong độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau; hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.
+ Biện pháp đại đoàn kết:
Xây dựng những chính sách đúng đắn thiết thực nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân
tộc.
Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo
khối đại đoàn kết dân tộc.
Phát huy mạnh mẽ vai trò chính quyền trong việc thực hiện chính sách đâị đoàn kết dân
tộc.
Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng; nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự
động thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.
Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hiện nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đại đoàn kết trong tình hình mới.
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm
ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh
cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ
chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí
thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh
phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt
có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.

Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng
nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn
trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân
bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình.

T r a n g 9 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 3: Quan điểm của HCM về xây dựng bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ công
chức ? Ý nghĩa đối với cải cách nền hành chính hiện nay ?
Ở bất kỳ lĩnh vực nào, chế độ nào nhân tố con người hết sức quan trọng, đóng vai trò
quyết định để đạt mục tiêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” đã
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mỗi công việc-công việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”.
Do vậy, “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và
kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị, vừa có tinh thần trách nhiệm, tận tụy công
tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ” là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các
ngành đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp cách mạng của mình, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến những
lĩnh vực này, khái quát thành những vấn đề tư tưởng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có giá trị
thời sự lâu bền.
Ngày nay, khái niệm cán bộ dùng để chỉ những người được biên chế vào làm việc trong
bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước và sĩ quan trong lực lượng vũ
trang. Ngoài ra, cán bộ được coi là những người có chức vụ, vai trò nồng cốt trong một cơ quan,
tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức và liên quan đến vị trí lãnh

đạo chỉ huy, quản lý điều hành, góp phần quyết định xu hướng phát triển của cơ quan, tổ chức.
Theo Người thì thực chất cán bộ là đầy tớ của nhân dân.
- Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước:
Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu, lựa chọn ra một
kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi cho số đông người
và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một nhà nước công-nông-binh thể hiện trong Chánh
cương văn tắt của Đảng từ khi thành lập 1930, trải qua thực tế các cao trào cách mạng Việt
Nam, về sau, HCM đã chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước dân chủ cộng hòa, một
nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân, do ,dân, vì dân. Trong bài báo Dân
vận (1949), HCM khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc là công việc của nhân dân. Chính quyền từ xã đến trung ương đều do dân
cử ra... Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
- Quan điểm HCM về xây dựng đội ngũ cán bộ:
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết, Chủ tịch HCM thấy rõ vị
trí, vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Bất cứ chính sách, công tác gì, nếu có cán bộ tốt
thì thành công, tức có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức lỗ vốn".
Theo HCM, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, đây là nhiệm vụ rất vẻ
vang nhưng cũng rất nặng nề, là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp. Để hoàn thành
nhiệm vụ đó, đòi hỏi Đảng phải xây dựng một đội gũ cán bộ có đủ đức, tài, trong đó, đức là
quan trọng hàng đầu. Người chỉ rõ, đạo đức là cái gốc, nền tảng của cách mạng. "Cũng như
sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân".
Đạo đức của người cán bộ cách mạng được thể hiện ở chỗ: luôn đặt lợi ích ủa Đảng, của
dân tộc lên trên hết, trước hết, phải biết giải quyết đúng đắn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của
giai cấp, của dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ phải có đức nhưng cũng phải có tài. Tài của



Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

người cán bộ thể hiện ở năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, trong đó đặc biệt là năng
lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và chính phủ.
Cùng với đức và tài, người cán bộ còn phải có phong cách quần chúng, thường xuyên
liên hệ mật thiết với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến, tông trọng quyền làm chủ của nhân dân,
khéo tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, Người yêu cầu cán bộ càng phải: "giữ chặt mối liên hệ với dân
chúng và luốn lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà
Đảng thắng lợi..., xa cách dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng
lửng ơ giữa trời, nhất định thất bại".
Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn
cách mạng, Chủ tịch HCM yêu cầu Đảng phải làm tốt công tác cán bộ:
Một là, phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ.
Hai là, phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Đây là công việc hệ trọng và rất khó. Đánh
giá đúng cán bộ là xác định chính xác ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ kém, ai mạnh ở chỗ nào, khả
năng hoàn thành nhiệm vụ đến đâu, quan hệ với quần chúng ra sao... Trên cơ sở đó mà bố trí, sử
dụng, đề bạt đúng cán bộ.
Ba là, phải khéo dùng cán bộ. Khéo dùng cán bộ thể hiện ở chỗ xếp người đúng việc, vì
việc mà xếp người. Người căn dặn: "Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to,
nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dụng được". Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết hợp
các thế hệ cán bộ một cách đúng đắn. Người dạy, trong đội ngũ cấn bộ của Đảng có cán bộ già,
có cán bộ trẻ. Cán bộ già là vốn quý của Đảng, họ có kinh nghiệm về mặt lãnh đạo, được rèn
luyệ, được thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh... Còn cán bộ trẻ tuy chưa có một số ưu điểm
như cán bộ già, nhưng họ lại hăng hái, nhạy cảm với cái mới, chịu khó học tập, cho nên tiến bộ
rất nhanh.
Bốn là phải có gan cất nhắc cán bộ. Có gan tức là phải mạnh dạn. Sở dĩ nói như vậy vì
chúng ta thường hay "rụt rè" hoặc "quá khắt khe" trong việc đề bạt cán bộ. Có gan không có

nghĩa là nóng vội, làm ẩu, làm liều, càng không vì danh lợi của mình mà cất nhắc cán bộ. HCM
yêu cầu: "Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, vì tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm
hăng hái. Như thế công việc nhất định chạy".
Năm là, phải yêu thương, chăm sóc cán bộ. HCM chỉ rõ không phải vài ba tháng hoặc
vài ba năm là đào tạo được cán bộ tốt, mà cần phải công tác, đấu tranh, huân luyện lâu năm mới
có được. Hơn nữa, trong đấu tranh, có rất nhiều thử thách, nguy cơ dẫn đến mất cán bộ. Vì vậy,
Đảng phải yêu thương cán bộ, phải vun đắp chí khí của họ, để đi đến chỗ "bại không nản, thắng
cũng không kiêu".
Tư tưởng HCM về công tác cán bộ là một trong những viên ngọc quý, có ý nghĩa lý luận
và thực tiến sâu sắc. Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đáp ứng yêu câu sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, đòi hỏi các cấp ủy Đảng cần quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của HCM:
"phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung của chúng ta".
- Ý nghĩa của công tác cải cách hành chính:
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước nói chung và từng địa phương nói riêng,
cải cách hành chính được coi là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được những mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cải cách hành chính được triển khai trên nhiều nội dung: cải cách thể chế, cải cách bộ
máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách hành
chính công và hiện đại hóa nền hành chính, trong đó, cải cách thủ tuch hành chính, thực hiện
giải quyết các thủ tuch hành chính theo cơ chế một cửa là một khâu quan trọng và được đặt ra
ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình cải cách. Cải cách là nhằm đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả,
minh bạch, công bằng trong giải quyết công việc hành chính; loại bỏ những rườm rà, chồng
T r a n g 11 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

chéo, dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho nhân dân.
Thủ tục hành chính được hiểu là trình tự, cách thức thực hiện và yêu cầu điều kiện hồ sơ
do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quy định để giải quyết từng công việc cụ thể

liên quan đến các cá nhân, tổ chức. Thủ tục hành chính có vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống nhân dân. Thủ
tục hành chính không chỉ liên quan đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cáp chính
quyền, mà còn đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với nhà nước.
Việc công khai minh bạch các thủ tục hành chính tạo cơ sở cho quá trình thực hiện và
tăng cường khả năng giám sát thực thi công vụ của nhân dân, các tổ chức, cá nhân, thực hiện
quyền lợi, nghĩa vụ của mình và đồng thời các cơ quan hành chính nhà nước cũng thực hiện
chức năng quản lý nhà nước.
Việc thực hiện mô hình một cửa để tập trung đầu mối giải quyết thủ tục hành chính từ
các phòng, ban huyên môn về một đầu mối tại ủy ban nhân dân các cấp thông qua "bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả" nhằm tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan, đảm bảo tính
thông suốt và giải quyết nhanh thủ tục hành chính cho nhân dân.
Lợi ích, ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện cơ chế 'một cửa, một cửa liên thông", đặc biệt
đó là sự triển khai xây dựng, đưa vào hoạt động của bộ phận một cửa các cấp là: hiệu quả của
việc giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế này đã làm cho nền hành chính trở nên dân
chủ, minh bạch, có tính chuyên nghiệp hơn; mang lại sự thuận tiện cho người dân. Trên thực tế,
có nhiều loại hồ sơ hành chính có liên quan đến thẩm quyền giải quyết của nhiều cấp, nhiều cơ
quan, phải qua nhiều đầu mối mới có kết quả cuối cùng. Cơ chế một cửa liên thông đặt ra yêu
cầu các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp trong quy trình xử lý hồ sơ, không để tổ
chức, cá nhân công dân mang hồ sơ đi từ cơ quan này tới cơ quan khác. Người dân có nhu cầu
chỉ phải nộp hồ sơ và nhận lại kết quả tại một đầu mối.
Những cải cách hành chính này đã giúp cơ quan hành chính nhà nước phục vụ ngày càng
tốt hơn những nhu cầu của nhân dân.
Trong tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước, cùng với việc điều chỉnh cơ cấu bộ
máy hành chính nhà nước, cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính vấn đề xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước có một vị trí hết sức quan trọng. Xây
dựng, phát triển đội ngũ công chức hành chính nhà nước có năng lực, phẩm chất đạo đức đáp
ứng được những yêu cầu của thực tiễn, của những cải cách về tổ chức bộ máy hành chính là
một nhiệm vụ, một bộ phận không thể tách rời của công cuộc cải cách hành chính trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.



Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 4: Nội dung và ý nghĩa quan điểm của HCM về bản chất dân chủ, bản chất giai
cấp công nhân của nhà nước Việt Nam?
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân là một hệ thống các quan
điểm lý luận về con đường hình thành nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, về bản hất, tính chất,
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
của nhà nước đó. Vấn đề này có nội dung và ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện bản chất dân
chủ, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước Việt Nam.
- Khái niệm:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm
vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục
đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
- Cơ sở hình thành nhà nước của dân, do dân, vì dân:
+ Cơ sở lý luận;
Bắt guồn từ truyền thống yêu nước của dân tộc, bao gồm cả truyền thống tổ chức, xây
dựng nhà nước, pháp luật ...
Một nguồn gốc lý luận quan trọng hình thành tư tưởng HCM về nhà nước kiểu mới ở
nước ta là các giá trị, tinh hoa văn hóa nhân laoij cả phương Đông và phương Tây trong lĩnh
vực nhà nước và luật pháp. HCM đã kế thừa có chọn lọc các quan điểm lý luận của Nho giáo
về trị nước, lý luận của các nhà Khai sáng Pháp, các nhà lập pháp Mĩ về nhà nước và pháp luật,
đặc biệt là quan niệm về dân chủ, dân quyền, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân...
Nguồn gốc lý luận qan trọng, quyết định nhất sự hình thành tư tưởng HCM về nhà nước
là học thuyết Mác-Lê nin về nhà nước vô sản nói chung, nhà nước chuyên chính vô sản, nhà
nước XHCN nói riêng. Đến chủ nghĩa Mác-Lê nin, HCM đã tìm thấy con đường cách mạng
Việt Nam, phương thức đúng đắn để giải quyết vấn đề chính quyền nhà nước, hiểu biết thấu đáo
bản chất nhà nước và các thức tổ chức nhà nước. Trên cơ sở đó, HCM đã dần dần hình thành
các quan điểm lý luận riêng về một kiểu nhà nước mới phù hợp với thực tiễn Việt Nam- nhà

nước dân chủ nhân dân. Tử tưởng HCM về nhà nước kiểu mới có quá trình phát triển và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử.
Từ luận điểm: vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền, còn
vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai? phục vụ quyền lợi cho ai?
- Nội dung, bản chất của nhà nước Việt Nam theo tư tưởng HCM:
+ Bản chất dân chủ của nhà nước ta:
Qua nghiên cứu lịch sử của dân tộc và các kiểu Nhà nước trong lịch sử như: Nhà nước
thực dân phong kiến; Nhà nước dân chủ tư sản; Nhà nước Xô viết… từ đó hình thành trong tư
tưởng HCM về Nhà nước. Người nhận ra rằng: Nhà nước nào cũng có chuyên chính nhưng vấn
đề quan trọng là chuyên chính với ai và dân chủ với ai? HCM đã nghiên cứu chủ nghĩa MácLênin về vấn đề Nhà nước, bản chất của Nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ
nghĩa dân chủ thuộc về nhân dân.
Tư tưởng HCM về bản chất dân chủ của nhà nước Việt Nam là quyền làm chủ của nhân
dân, quyền lực thuộc về nhân dân.Quan niệm dân chủ của Người là dân là chủ, dân làm chủ.
Dân làm chủ nước nhà, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Sau khi nước ta dành độc lập HCM đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ”. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung
ương đều do dân bầu ra thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu và phiếu kín. Quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhân dân có thực quyền bầu ra Nhà nước, bầu ra chính quyền
các cấp. Mọi cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà mọi quyền lực Nhà nước có đều được
do nhân dân ủy quyền cho. Những người thực hiện quyền lực Nhà nước phải là đầy tớ và công
bộc của nhân dân. Trong nhà nước của dân thì người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có
T r a n g 13 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Bản chất dân chủ của nhà nước Việt Nam còn thể hiện ở điểm: Nhà nước do dân. Đó là
Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình. Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp
đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu hoạt động. Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng,

gúp đỡ. Nhưng khi Chính phủ nào, cơ quan nào không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng
của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó. Do đó HCM từng nói: "Tất cả các cơ quan Nhà
nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân”, “Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thí dân chúng phải đập đổ
chính phủ ấy đi, và gây nên chính phủ khác”.
Hồ Chí Minh khẳng định chân lý đó:
“Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
“Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”.
Trong mọi vấn đề của cách mạng, nếu có dân là có tất cả, ngược lại không có dân thì
thất bại trong tầm tay.
“Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Nhà nước do dân, dân làm chủ nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất
biện chứng của cả quyền và nghĩa vụ làm chủ; nó thể hiện bản chất dân chủ triệt để của nhà
nước kiểu mới.
Tư tưởng HCM về bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam còn ở nội dung “Nhà
nước vì dân”. Theo tư tưởng của Người chỉ có một Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức,
xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là Nhà nước phục
vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thật sự trong sạch, cần
kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ cao đến thấp đều là người đầy tớ, công bộc của
nhân dân. Vì vậy Bác dạy: “Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm; Việc gí hại dến dân, ta phải
hết sức tránh”. Tuy nhiên Bác không chỉ thiên vị về vai trò công bộc của người cán bộ hay dân
chủ quá mức của nhân dân mà người cán bộ nhà nước vừa là người phục vụ lại vừa là người
hướng dẫn, lãnh đạo của nhân dân. Người nói: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không
đủ lực, nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai chỉ đường”.
Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rất rõ: “Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm

phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỹ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
+ Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta:
Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin về nhà nước, HCM nhận thức rất rõ bản chất
giai cấp của nhà nước nói chung. Theo Người, bất kỳ một nhà nước nào cũng mang bản chất
của một giai cấp nhất định, “tính chất của nhà nước là bản chất gia cấp của chính quyền”; mỗi
nhà nước đều gắn với một chủ thể giai cấp, bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định; không thể
có nhà nước đứng ngoài gia cấp, nhà nước phi giai cấp.
Theo tư tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân, vì dân về bản chất là nhà nước mang
bản chất giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ
nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Mặt khác, sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với Nhà nước quyết định bản chất giai cấp công nhân của
Nhà nước ta, vì nó chế định mục đích hoạt động, chức năng tổ chức, cơ chế vận hành của Nhà
nước trên lập trường giải phóng nhân dân lao động, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong tư tưởng HCM, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước kiểu mới được thể hiện
trên các mặt chủ yếu sau đây:
Nhà nước ta được tổ chức, hoạt động theo các nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa MácLê nin về nhà nước CCVS, nhà nước XHCN nói chung. Nền tảng tư tưởng nhà nước là học
thuyết của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Xa rời nguyên lý này , nhà nước sẽ biến chất, trở thành nhà
nước của giai cấp khác.
Nhà nước luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Ở nước ta, Đảng Cộng sản
Việt Nam là người lãnh đạo nhà nước trong tất cả các giai đoạn cách mạng.
Nhà nước ta được tổ chức, hoạt động và vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủmột nguyên tắc tổ chức đặc thù của giai cấp công nhân: tập trung trên nền tảng dân chủ và dân
chủ dưới sự chỉ đạo tập trung; dân chủ càng mở rộng, tập trung càng cao độ.
Cơ sở xã hội của nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết toàn dân, mà
nòng cốt là liên minh công-nông-trí thức.

Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng
trong tổ hức, hoạt động có sự phân công rành mạch về chức năng, nhiệm vụ giữa quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật, mà pháp luật đại biểu cho ý chí,
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng lao động.
Với các biểu hiện như vậy, ở nhà nước ta, bản chất giai cấp công nhân bao giờ cũng
thống nhất chặt chẽ với tính nhân dân và tính dân tộc. Đây là một quan niệm hết sức đặc sắc,
độc đáo của HCM. Sự thống nhất này dựa trên các căn cứ khách quan mà quan trọng nhất là sự
thống nhất lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của nhâ dân lao động và lợi ích của dân tộc:
Độc lập cho dân tộc; khát vọng dân chủ của toàn thể dân tộc; cuộc sống no đủ, sung sướng,
hạnh phúc của tất cả mọi người dân Việt Nam.

T r a n g 15 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 5: Tư tưởng HCM về cán bộ và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay?
Sinh thời HCM đánh giá rất cao vai trò của người cán bộ. Theo Người, vấn đề cán bộ là
một vấn đề trọng yếu, rất cần kíp. Vấn đề cán bộ quyết định mọi công việc. Người nói rằng:
“Cán bộ quyết định mọi việc… công việc thành công hay thất bại một phần lớn là do nơi tư
tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của người cán bộ đó”. Trong công cuộc đổi mới hiện
nay, học tập, nghiên cứu, vận dụng hiệu quả tư tưởng HCM về công tác cán bộ có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
- Tư tưởng HCM về vị trí, vai trò của người cán bộ:
Theo quan niệm của Bác, Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. "Gốc" là từ đó sinh ra. Cây
thì phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Gốc có vững thì cây mới bền. Công việc cách mạng
phải có cán bộ và cán bộ phải tốt. Người khẳng định: "Muôn việc thành công hoặc thất bài, đều
do cán bộ tốt hoặc kém".
Cán bộ được hiểu là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy

được thì động cơ dù tốt, dù chạy thì toàn bộ máy cũng tê liệt. Đời sống chính trị, kinh tế, xã hội
được coi như là một "cỗ máy". Trong "cỗ máy" đó có ba bộ phận: một là đường lối, chính sách
của Đảng và chính phủ, hai là quần chúng nhân dân, những người thi hành chính sách đó; ba là
cán bộ. Vị trí người cán bộ là chiếc cầu nối giữa Đảng, chính phủ với nhân dân. Người cán bộ
trở thành cầu nối thì phải có đủ phẩm chất đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, phương pháp và phong
cách. Có vậy mới giải thích cho dân chúng hiểu rõ đường lối chính sách; góp phần giáo dục,
động viên, tập hợp quần chúng tham gia cách mạng.
HCM còn khẳng định vị trí của cán bộ bên cạnh cách tổ chức công việc và công tác kiểm
tra sau khi đã có chính sách đúng. Một trong ba khâu kém thì chính sách cũng không thi hành
được.
Ở một cách nhìn khác, Người cho rằng: "Cán bộ quyết định mọi việc. Các đồng chí đều là
cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thành hay là bại một phần lớn
là do nơi tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí".
- Tư tưởng HCM về tài, đức của người cán bộ:
+ Vai trò của đạo đức cách mạng:
HCM đặc biệt quan tâm đến đạo đức cách mạng. Người là hiện thân của đâọ đức cách
mạng, nêu gương cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đạo đức được HCM xem xét toàn diện gồm: đạo
đức công dân, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, chủ chốt. Đạo đức được nhận diện từ môi
trường gia đình, công sở, xã hội; trong các mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đạo đức
HCM có giá trị dân tộc và nhân loại, có ý nghĩa lịch sư, hiện tại và tương lai.
Theo Người, đạo đức là cái cái gốc, là nền tảng của con người cách mạng. Đạo đức là sức
mạnh của con người. "Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải có sức mạnh. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang".
Theo HCM, có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Có đạo
đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần, chất phác, khiêm tốn
"lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa.
+ Yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ:

- Trung với nước, hiếu với dân.
“Trung” và “Hiếu” là những khái niệm đạo đức Nho giáo, chứa đựng một nội dung hạn
hẹp “trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũ nội dung mới, có ý nghĩa khoa học, cách mạng và
nhân văn là “trung với nước, hiếu với dân”. Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Người gạt bỏ điều cốt lõi nhất trong đạo đức Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ
phong kiến và ông vua phong kiến. Cái mà Nho giáo tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên
án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không chấp nhận lòng trung thành của nhân dân bị áp bức với kẻ
áp bức mình. Hồ Chí Minh đã đảo lại thế đứng cho quan niệm đạo đức cũ. Người viết: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân
đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho
chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân
theo để lợi cho nước cho dân. Nhân dân từ thân phận nô lệ, không có quyền tự do, dân chủ trở
thành người chủ, sáng tạo ra lịch sử. Dưới chế độ phong kiến, quan là phụ mẫu của dân, dưới
chế độ mới, dân là chủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của dân. Làm cán bộ, làm lãnh đạo là làm
đầy tớ của dân.
“Trung với nước, hiếu với dân” là mối quan hệ với đất nước với dân tộc, thể hiện trách
nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và sự phát triển của đất nước, là phẩm chất đạo đức
chủ chốt nhất. Nội dung trung với nước, hiếu với dân là phải quyết tâm, suốt đời, hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết,
trước hết. Phải trọng dân, tin dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân,
thương dân, hòa mình với quần chúng nhân dân thành một khối; nắm vững dân tình, dân tâm,
dân ý; quan tâm dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ, dân vận; làm cho dân tin, dân phục, dân
yêu.
“Trung với nước, hiếu với dân” không phải là một khẩu hiệu, không phải quyết tâm ở hội

trường mà phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo theo tinh thần “nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đó mới thật sự là đạo đức
mới, đạo đức cách mạng.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ “với tự mình”.
Cần là siêng năng, chăm chỉ cố gắng dẻo dai. cần có nghĩa hẹp là từng người, nghĩa rộng
là mọi người, từ gia đình đến làng, nước. Cần liên quan đến kế hoạch công việc, nghĩa là phải
tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng, cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả
đời.
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần và kiệm phải đi đôi
với nhau như hai chân của con người. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài
thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng
bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng.
Liêm là trong sạch, không tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham
ăn ngon, tham sống yên là bất liêm. Người cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút,
dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình đều là trái vói chữ liêm. Chữ liêm phải đi
đôi với chữ kiệm. Có kiệm mới liêm được.
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng
đắn, tức là tà.
Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, hoa, quả mới là hoàn
toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, một
lẽ tự nhiên như bốn mùa của trời, bốn phương của đất. Nó là thước đo chất người của mỗi
người, vì “thiếu một đức thì không thành người”, cần, kiệm liêm, chính đặc biệt cần thiết đối
với cán bộ, đảng viên vì họ là những người có quyền, nếu thiếu lương tâm là có dịp đục khoét,
mưu lợi cho mình. Trên cái nền “làm người”, cán bộ, đảng viên là những người có trình độ cao,
có trách nhiệm lớn. Cán bộ, đảng viên mà suy thoái đạo đức thì ảnh hưởng đến thanh danh của
T r a n g 17 | 27



Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đảng, đến nhiệm vụ cách mạng. Đảng viên sai lầm sẽ đưa quần chúng đến sai lầm. Hồ Chí
Minh viết: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì
quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút,
có dịp “dĩ công vi tư”. Theo Hồ Chí Minh, mặt ứái của quyền lực dễ làm cán bộ, đảng viên tha
hóa: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng
Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” .
Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc: “Một dân
tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc
văn minh tiến bộ”.
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là cái cần để
làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân
loại.
Chí công vô tư là khi làm bất cứ việc gì đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc,
vì đồng bào.
Thực hành chí công vô tư gắn liền với chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa
cá nhân là “chỉ lo mình béo mặc thiên hạ gầy”; là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình
trước hết; là chỉ biết “mọi người vì mình” mà không lo “mình vì mọi người”.
Chủ nghĩa cá nhân là một thứ gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống
dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm như tham ô, lãng phí,
quan liêu, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, v.v.. Nó phá từ trong phá ra, là bạn
đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống lạc hậu, nguy hiểm hơn kẻ thù bên
ngoài. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thế tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân”.
Chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy hại cho Đảng và cả dân tộc: “Một dân tộc, một đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa

vào chủ nghĩa cá nhân”.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải chống chủ nghĩa cá
nhân và cảc loại kẻ địch khác. Tuy nhiên cần phân biệt sự khác nhau giữa chủ nghĩa cá nhân và
lợi ích chính đáng của cá nhân. Neu những lợi ích cá nhân không trái với lợi ích của tập thể thì
không phải là xấu. Theo Hồ Chí Minh: đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày
xéo lên lợi ích cá nhân”. Và chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện
để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình.
- Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa.
Kết hợp nghiên cứu lý luận với những trải nghiệm thực tế, Hồ Chí Minh cho rằng, trên
đời này chỉ có hai loại người: áp bức và bị áp bức, người ác và người thiện và hai thứ việc: việc
chính và việc tà. Nhũng người làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Người
từng nói: lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi. Tôi yêu nhất
điều thiện và ghét nhất điều ác.
Thương yêu, quý trọng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là tình thương yêu con người
dành cho con người đang sống thực trên đời này, bị áp bức, đói nghèo, bệnh tật. Đó là tình yêu
thương như nhân loại đã ngợi ca: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí
Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó
có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một
thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
Tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh là một biểu hiện sáng ngời của việc thấm


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo Người, hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau cho
có tình có nghĩa. Đó là một tình thương yêu không chỉ trong phạm vi dân tộc mà cả phạm vi
nhân loại.
- Tinh thần quốc tế trong sáng.
Tinh thần quốc tế là một phẩm chất đạo đức bẳt nguồn từ bản chất của giai cấp công

nhân và ché độ xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước nhiệt thành, một chiến
sĩ quốc tế vĩ đại. Người không chỉ giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung mà còn là
hiện thân của tinh thần quốc tế, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
Hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng, quan tâm đến các
dân tộc Người đặt sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam trong quỹ đạo của cách mạng thế
giói; coi thắng lợi của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi chung của nhân dân tiến bộ thế giới,
thắng lợi của bạn cũng là thắng lợi của mình.
Hồ Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng, phân biệt chủng
tộc; đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế giới. Người gắn mục tiêu đấu
tranh của nhân dân Việt Nam với mục tiêu chung của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
+ Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”1. Không vượt qua được chính mình, không chiến thắng được giặc
trong lòng thì không thể có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Tư tưởng cộng sản với tư
tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ
dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có
được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”.
- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Nêu gương đạo đức, nói thì phải làm, nói đi đôi với làm. Đạo làm gương là một nét đẹp
của văn hóa phương Đông. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, lý luận phải gắn với thực tiễn nhưng
điều quan trọng nhất về mặt đạo đức là lấy hiệu quả làm thước đo. Người chỉ rõ: trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách đạo đức.
Làm gương ở nhiều môi trường và cấp độ khác nhau. Nhân dân ta thường nói “đảng viên
đi trước, làng nước theo sau”. Trong mọi biểu hiện làm gương thì người đứng đầu, cán bộ chủ
chốt giữ một vai trò rất quan trọng. Muốn hướng dẫn cấp dưới và nhân dân thì mình phải làm

mực thước cho người ta bắt chước.
- Xây đi đôi với chống.
Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức khoa học, đảng viên và cán bộ cũng là người.
Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, “không phải người người đều tốt, việc
việc đều hay”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội
mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một
số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa”. Nhiều khi có những đảng viên
“phớt qua phép luật, trốn tránh và làm trái phép luật, về điểm này, những người ngoài Đảng cẩn
thận hơn. Vì đảng viên thường xem phép luật, chính quyền, v.v. là việc trong nhà. Vì vậy, mà có
đôi đảng viên như những con lợn, (xin lỗi tiếng đó), họ rúc vào vườn rau của Nhà nước, chén
một bữa no say, hoặc họ hi sinh lợi ích của nước nhà, để lên mặt mình là khảng khái”.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng, chúng ta thường xuyên phải chống lại ba kẻ địch: bọn
đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; loại địch
T r a n g 19 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

thứ ba là chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng
phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết
không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Quan trọng nhất là đánh thắng lòng tà là kẻ thù
trong mình.
Chống và xây đi liền với nhau. Lấy gương người tốt việc tốt hàng ngày giáo dục lẫn nhau
là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng
con người mới, cuộc sống mới.
Trong mối quan hệ giữa chống và xây, cần nhận thức chống cũng nhằm xây, đi liền với
xây nhưng xây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài.
- Yêu cầu của Hồ Chí Minh về năng lực của người cán bộ
Trên nền tảng đạo đức là gốc, người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo và tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Thực chất đó là năng lực tổ

chức và động viên quần chủng thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ. Muốn động viên,
tổ chức và giáo dục được nhân dân, chiều sâu và gốc rễ của vấn đề là phải nhận thức thật sự
khoa học và cách mạng hai chữ “cán bộ” và “lãnh đạo” là gì? Hồ Chí Minh giải thích: “Làm cán
bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng
thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đòi mới thuộc được” 1. “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và
phải làm cho tốt”2. Người viết: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung
ương đến khu, đến tình, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người
đày tớ trung thành của nhân dân”.
Như vậy, năng lực lãnh đạo của người cán bộ, xét đến cùng, là năng lực phục vụ nhân
dân, đem lại lợi ích vật chất và tinh thần tốt nhất cho nhân dân. Muốn như vậy thì người cán bộ
phải có năng lực học dân chúng, hỏi dân chúng, hiểu dân chúng. Bởi vì “Không học hỏi dân thì
không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”. Theo Hồ Chí
Minh, “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
Trên nền tảng phẩm chất đạo đức, trí tuệ, trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, năng
lực của cán bộ thể hiện ở bản lĩnh và phương pháp, phong cách lãnh đạo được biểu hiện cụ thể
ở thực hành. Năng lực lãnh đạo thể hiện ở lãnh đạo đúng.
Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? Hồ Chí Minh giải thích: cố nhiên không phải ngồi trong
phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh; không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Theo Hồ
Chí Minh, lãnh đạo đúng có nghĩa là:
“1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so
sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của
sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chứng giúp sức thì
không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp
mới được”.
Hồ Chí Minh đem lại cho ta nhận thức mới mẻ, khoa học về năng lực lãnh đạo. Người
phê bình thói lãnh đạo quan liêu: “Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại
mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”.

Toàn bộ di sản Hồ Chí Minh cho thấy, điều căn cốt về năng lực của người cán bộ không
nằm ở lý luận mà nằm ở thực tiễn; phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Việc gì
cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. Tin vào dân chúng. Đưa
mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là
không họp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ
chức của ta”. Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý
kiến của quần chủng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng.


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách của người cán bộ
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về phong cách của người cán bộ
Phong cách của người cán bộ, người cách mạng có quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường
lối và phương pháp cách mạng. Tư tưởng, đường lối soi sáng hoạt động của người cán bộ, có ý
nghĩa quyết định nhất. Nhưng phải có phương pháp đúng đắn và khoa học để đưa đường lối vào
cuộc sống. Kết quả thực hiện đường lối phụ thuộc vào hoạt động cụ thể với trình độ, bản lĩnh,
khí chất và phong cách từng người.
Phong cách của người cán bộ quan hệ chặt chẽ với đạo đức. Chúng ta thường nói đến các
phẩm chất đạo đức như trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, v.v..
Đó là những phẩm chất đạo đức chung của con người Việt Nam trong thời đại mới. Nhưng nó
lại được thể hiện một cách cụ thể qua phong cách khác nhau của từng người.
Phong cách của cán bộ là một chính thể bắt đầu từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến hoạt
động thực tiễn (phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử), và cuối cùng là
phong cách trong sinh hoạt đời thường.
+ Người cán bộ tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách Hồ Chí Minh
Rèn luyện phong cách tư duy
Tu dưỡng theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh là mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước,
không theo đuôi. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ của minh, làm chủ bản thân và công việc

của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước nhân dân. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ xấu
xa, lạc hậu, lỗi thời; những cái cũ đã đúng một thời nhưng nay không phù họp. Tìm tòi cái mới
phù họp với quy luật khách quan, trả lời được những câu hỏi của thực tiễn đặt ra. Cái mới đó
không hoàn toàn phủ định những giá trị của cái cũ, vượt lên cái cũ, bổ sung thêm những giá trị
mới. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh về đổi mới, sáng tạo: “Không phải cái gì
cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà
không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát
triển thêm... cái gì mới mà hay thì ta phải làm”.
Tư duy phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, địa phương, ngành mình, phù họp với những
điều kiện lịch sử cụ thể. Phải mở rộng tư duy, nghiên cứu mọi tư tưởng, học thuyết. Sinh thời,
Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu nhiều tư tưởng, học thuyết để có sự so sánh, đối chiếu, sàng lọc,
tìm ra cái đúng, cái hay, phù họp với dân tộc và thời đại. Cách tư duy đó đem lại nội dung khoa
học và cách mạng trong quá trình hình thành tư tưởng. Hiện nay, cán bộ, đảng viên phải chú
trọng hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng học tập nâng cao trình độ văn hóa, làm giàu trí
tuệ của mình bằng những kiến thức phong phú và sâu rộng. Một đường lối, chính sách đúng chỉ
có thể có được khi xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng
được khát vọng của lòng dân và phù họp với xu thế của thời đại.
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo đồng nghĩa với một bản lĩnh vững vàng, một tinh thần
dũng cảm dám nghĩ đến những “nghịch lý táo bạo” trên cơ sở nhân cách và tài năng, tự quyết
định một cách độc lập thái độ, hành động, quan điểm của mình không vì áp lực bên ngoài mà
thay đổi chính kiến với tinh thần dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân, Tổ quốc và
Đảng. Tư duy đó tạo cho mỗi cán bộ có bản sắc riêng, chính kiến riêng, xa lạ với những gì xơ
cứng, giáo điều hoặc theo kiểu “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi”, “theo gió bẻ
buồm”, “đập đi, hò đứng”, không có khí khái.
Rèn luyện phong cách làm việc
Tác phong quần chúng.
Quần chúng-được hiểu là số đông. Vì vậy, có nhiều cách tiếp cận về quần chúng. So với
cán bộ, công chức, những người ăn lương nhà nước thì nhân dân là quần chúng. Trong mối
quan hệ với cấp trên thì cấp dưới là quần chúng. Trong mối quan hệ với cán bộ lãnh đạo, quản
T r a n g 21 | 27



Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

lý thì cán bộ, đảng viên thường là quần chúng. So với đảng viên thì những người chưa được
đứng vào hàng ngũ của Đảng là quần chúng.
Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh xuất phát từ những giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông đã tổng kết:
“chở thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật thuyền mới biết dân như nước”. Quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin khẳng định, nhân dân là người làm nên thắng lợi của lịch sử. Dưới ánh sáng
chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Hồ Chí Minh là người
sớm đánh giá cao vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân. Theo Người, trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dễ
mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong. Dân chúng đồng lòng việc gì
cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Hồ Chí Minh tổng kết:
“Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát
mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chủng biết
giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Theo Hồ Chí Minh, “nhưng đối với dân ta, đừng có làm gì
trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”. Người khẳng định: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý
nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh
hành động tất cả vì dân. Người từng nói và thực hiện suốt đời một ham muốn tột bậc là làm cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành. Còn Người sẵn sàng làm công bộc, làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung
thành của nhân dân, làm một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận, bao giờ
đồng bào cho lui thì rất vui lòng lui.
Cán bộ, đảng viên tu dưỡng rèn luyện theo phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh là
phải theo đúng đường lối nhân dân với các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, phải đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên trên hết. Điều này thể hiện ở chồ
việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy cũng hết sức làm; việc gì hại cho dân dù nhỏ mẩy cũng phải

tránh. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu suốt lời dạy của Bác: Chúng ta tranh được tự do, độc lập
rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Thứ hai, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Hồ Chí Minh là lãnh tụ rất gần gũi, sâu sát nhân
dân. Theo một thống kê chưa đầy đủ, trong 10 năm (1955-1965), Hồ Chí Minh đã có khoảng
700 cuộc đi về các địa phương, xuống với bộ đội, công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp
nhân dân miền ngược cũng như miền xuôi. Học Hồ Chí Minh là cán bộ, đảng viên phải chịu
khó đi về cơ sở để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Xuống cơ sở không phải theo kiểu “nhiệt
liệt chào mừng đồng chí về thăm, làm việc” mà phải nắm tình hình, đưa ra được các giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho địa phương, cho các ngành. Phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của
nhân dân, của những người “không quan trọng”, cả những ý kiến “nghịch”.
Thứ ba, việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. vấn đề gốc rễ ở
đây là cán bộ, đảng viên phải hiểu “đối ai mà làm? Đối ai phụ trách?”. Hồ Chí Minh nêu vấn đề:
“Nếu chúng ta hỏi cán bộ: “Việc đó làm cho ai? Đối với ai phụ trách?”, chắc số đông cán bộ sẽ
trả lời: “Làm cho Chính phủ hoặc Đảng, phụ trách trước cấp trên”. Câu trả lời đó chỉ đúng một
nửa. Nếu chúng ta lại hỏi: “Chính phủ và Đảng vì ai mà làm việc đó? Và phụ trách với ai?” thì e
nhiều cán bộ không trả lời được.
Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi
ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”1.
Trên cơ sở nhận thức đó, mỗi cán bộ khi gặp công việc phải biết tìm đủ cách giải thích
cho dân hiểu, cả những việc trực tiếp có lợi cho dân. Cán bộ không được làm theo cách hạ lệnh,
cưỡng bức, vì như vậy dân không hiểu, dân oán. Theo Hồ Chí Minh, dân đã hiểu thì việc gì khó
khăn mấy họ cũng làm được, hi sinh mấy họ cũng không sợ.


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ tư, có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân
phê bình mình. Mỗi cán bộ phải hiểu rằng con người không phải thánh thần, có thiện có ác
trong lòng. Đã làm việc thì không tránh khỏi khuyết điểm. Chỉ những kẻ ăn không ngồi rồi thì

mới không có khuyết điểm mà thôi. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, chỉ sợ có khuyết điểm
không dám tự phê bình. Dân độ lượng, vị tha và chúng ta làm việc vì dân. Vì vậy có khuyết
điểm thì phải thật thà tự phê bình trước dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Đó là một
trong những cách tốt nhất để làm cho dân tin.
Thứ năm, sẵn sàng học hỏi nhân dân. Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu
thấu. Mỗi người phải hiểu rằng sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh
đạo đủng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm
của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình. Nhân dân là những người trí
tuệ, thông minh, tài giỏi. Dân chủng nhiều tai, nhiều mắt, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Làm
theo cách quần chúng là việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng. Mỗi một khẩu hiệu, mỗi một
công tác, mỗi một chính sách phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe
theo nguyện vọng của dân chúng. Không học hỏi dân chúng thì không lãnh đạo được dân
chúng. Có biết làm học trò dân mới làm được thầy học của dân. Mệnh lệnh hành chính đơn
thuần sẽ tạo thành bức tường tách Đảng, Chính phủ với nhân dân.
Thứ sáu, chống bệnh quan liêu. Tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách quần chúng Hồ Chí
Minh, ở một góc tiếp cận khác chính là phải “tò trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”.
Thực hiện phong cách quần chúng đồng thời chống cách quan liêu với các biểu hiện xa nhân
dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không
thương yêu nhân dân. Quan liêu là gốc rễ, cội nguồn đẻ ra tham ô, lãng phí. Làm theo cách quan
liêu là hỏng việc, là thất bại.
Tác phong tập thể - dân chủ.
Điều có ý nghĩa lớn nhất từ thắng lợi của cách mạng do Đảng lãnh đạo là đưa nhân dân
từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ. Nước ta là nước dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Dân
làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trường, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ
cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng. Đó chính là điểm xuất phát của việc rèn
luyện, tu dưỡng theo phong cách dân chủ Hồ Chí Minh.
Phong cách dân chủ có nội dung dân chủ trong Đảng và dân chủ với nhân dân.
Về thực hành dân chủ trong Đảng, mỗi cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt, đứng đầu cần thực hiện những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể. Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí

Minh, mỗi cán bộ đảng viên phải nhận thức đúng đắn rằng một người dù tài giỏi đến mấy cũng
không thể nhìn khắp được sự vật, biết hết mọi việc. “Khôn bầy hơn khôn độc”. Vì vậy phải chú
ý phát huy trí tuệ của tập thể, gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể. Có
dân chủ, bàn bạc tập thể mới cùng thông suốt, nhất trí, mới cùng quyết tâm thực hiện, tránh
được “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thứ hai, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Người lãnh đạo phải khuyên cán bộ,
đảng viên mạnh bạo, cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, phê bình. Đó là cách tốt nhất để người lãnh
đạo biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình và tỏ ra thật thà dân chủ trong Đảng. Người lãnh
đạo phải hiểu rằng, trong sinh hoạt mà cán bộ không nói năng, không đề xuất ý kiến, không phê
bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì
nói, mà vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng
âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra
oán ghét, chán nản. Để không xảy ra tình trạng này, người lãnh đạo không được chuyên quyền,
độc đoán, áp đặt chủ quan, mà phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý
kiến của mình.
T r a n g 23 | 27


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ ba, nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và tuyệt đối tuân
thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở nhận thức dân chủ là giá trị lớn
nhất, là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn, người cán bộ, đảng viên phải làm
cho nhân dân có năng lực làm chủ, biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm. Dân là chủ là nói đến địa vị, vị thế của người dân trong một nước dân
chủ. Dân làm chủ là nói đến năng lực, bổn phận làm chủ của người dân. Một điều quan trọng là
phải coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và
tính tích cực của công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước, giám
sát, phê bình Chính phủ, phê bình lãnh đạo, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.

Tác phong khoa học.
Mỗi cán bộ phải ý thức được rằng ở những mức độ khác nhau, người Việt Nam đều bị
chi phối bởi tư duy tiểu nông, tác phong làm việc thiếu khoa học. Noi theo tấm gương Hồ Chí
Minh, chủng ta phải khắc phục thói quen tự do, tùy tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu kế hoạch,
thiếu điều tra nghiên cứu, chậm chạp, lề mề. Đồng thời phải xây dựng một tác phong khoa học
trong công tác, trong lãnh đạo.
Làm việc cần phải đi sâu, đi sát, điều tra nghiên cứu, nắm người, nắm việc, nắm tình
hình cụ thể. Phải nắm thông tin và xử lý thông tin một cách khoa học. Nếu sử dụng bộ máy
những người giúp việc thì phải khách quan, tỉnh táo. Phải có cách kiểm ữa các báo cáo, nắm
chắc vấn đề, tuyệt đối không để lọt những báo cáo dối trá, “phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu
vơ bao vây”. Trên cơ sở kết quả điều tra, nghiên cứu chính xác, phải nắm chắc và hiểu thấu vấn
đề đi đến kết luận và quyết định vấn đề cho đúng.
Làm việc phải có mục đích rõ ràng; chương trình, kế hoạch đặt ra phải sát họp theo
phương châm: “Kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi”. Nêu ra mục đích, đặt kế
hoạch không phải cho kêu, cho oai mà để thực hiện. Một kế hoạch nhỏ thực hiện tốt còn hơn kế
hoạch lớn mà không thực hiện được.
Theo tinh thần lời dạy của Lênin, “lãnh đạo mà không kiểm tra, có nghĩa là không lãnh
đạo”, cán bộ lãnh đạo phải kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới, kiểm ữa việc thực hiện các kế
hoạch đề ra. Việc kiểm tra có ý nghĩa lớn, giúp người lãnh đạo biết những nghị quyết, chính
sách thực hành đến đâu, có khó khăn, trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không.
Kiểm tra là một cách để bổ sung, hoàn thiện chủ trương, nghị quyết cho đúng đắn hơn.
Theo lời dạy và tấm gương Hồ Chí Minh, tác phong khoa học đòi hỏi lãnh đạo phải cụ
thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm và có điển hình. Người cán bộ, nhất là
lãnh đạo phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, cần phải lãnh đạo toàn
diện và cụ thể; phải cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời, làm đến nơi, đến chốn. Phải loại bỏ căn
bệnh “hữu danh vô thực”, không từ cái gốc, cái chính, làm qua loa, đại khái, “đầu voi đuôi
chuột”, làm ít xuýt ra nhiều, để làm một cái báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ thì rỗng tuếch.
Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm. Theo lời dạy của Hồ Chí Minh, mồi cán bộ
phải ý thức sâu sắc rằng sau mỗi công việc cần phải rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm lãnh đạo, tổ
chức; kinh nghiệm cá nhân, từng địa phương, ngành. Kinh nghiệm thành công và thất bại.

Những kinh nghiệm đó phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả các bộ, các địa phương để học
những kinh nghiệm hay và tránh những kinh nghiệm dở.
+ Rèn luyện phong cách diễn đạt
Diễn đạt thể hiện ở nói và viết. Hồ Chí Minh nói và viết cho nhiều đối tượng, ngoài nước
và trong nước bằng nhiều ngôn ngữ. Người kết hợp được cái dân gian với cái bác học, cái cổ
điển và cái hiện đại, phương Đông và phương Tây. Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh có sức lôi
cuốn lớn đối với tất cả mọi tầng lớp nhân dân. Hiện nay, cán bộ, đảng viên cần phải học tập và
làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về cách diễn đạt trên những khía cạnh chủ yếu sau.
Phải xác định rõ chủ đề, đối tượng, mục đích của việc nói và viết, từ đó tìm ra cách nói,


Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

cách viết phù hợp với đối tượng, rõ chủ đề và đạt mục đích đề ra. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng,
phải nắm được nội dung, tức là viết, nói cái gì? Phải nắm được đối tượng, tức là viết, nói cho
ai? Phải nắm vững mục đích, tức là nói, viết để làm gì? Phải nắm được phương pháp, tức là nói,
viết như thế nào?
Viết và nói phải chân thực, không nên nói ẩu, không được bịa ra. Chưa điều tra, chưa
nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết. Điều gì biết thì nói biết, không biết thì nói không
biết. Viết và nói đúng sự thật tức là nói cả những sai lầm khuyết điểm. Công khai thừa nhận và
sửa chữa sai lầm khuyết điểm càng làm cho uy tín của người lãnh đạo tăng lên và củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng.
Viết, nói ngắn gọn không có nghĩa là cụt, mà phải có đầu, có đuôi, có nội dung, thiết
thực, thấm thìa, chắc chắn. Ngắn gọn nhưng phải cô đọng, hàm súc, mồi câu, mỗi chữ có mục
đích, có ý nghĩa. Một cách viết và nói phải đạt được tối đa về ý tối thiểu về lời, những vấn đề
phức tạp cần được chuyển tải bằng những lời lẽ ngắn gọn, rõ ràng. Viết và nói ngắn gọn đi liền
với chống thói ba hoa, viết nói vừa dài vừa rỗng. Tuy nhiên không nên máy móc. Chống thói
rỗng tuếch, đã rỗng lại dài nhưng như thế không có nghĩa cứ ngắn mới tốt. Dài ngắn còn tùy
thuộc vào nội dung, thời gian, đối tượng. Điều quan trọng là phải làm rõ được vấn đề, đi thẳng
vào vấn đề, những điều mà quần chúng đang quan tâm.

Diễn đạt phải trong sáng, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm. Tuyên truyền quần chúng là
phải học cách nói của quần chúng theo tinh thần câu tục ngữ “học ăn, học nói, học gói, học
mở”. Học cách nói của quần chúng là phải tùy đối tượng mà dùng chữ, dùng lời cho hợp, để
người nghe, người đọc có thể hiểu được, được quần chúng chấp nhận. Muốn vậy, phải tránh lạm
dụng chữ nước ngoài và tránh bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ.
+ Rèn luyện phong cách ứng xử
Hồ Chí Minh có cách ứng xử ở tầm nghệ thuật, gần như hoàn thiện. Phong cách ứng xử
tuy thể hiện bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, phong thái, phong độ, nhưng nó chính là bắt nguồn
từ nhân cách, từ cuộc đời của chủ thể đối với đối tượng và của chủ thể đối với bản thân mình
trong quan hệ với đối tượng. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh rất độc đáo, chứa đựng cả giá trị
của dân tộc, Đông phương và Tây phương, được nhiều nhà khoa học đánh giá, ca ngợi đó là
kiểu ứng xử văn hóa, có lý, có tình, hài hòa, nhuần nhị. Hồ Chí Minh am tường năm cái biết
trong ứng xử của người phương Đông: Tri kỷ (biết mình), tri bỉ (biết người), tri thời (biết thời
thế), tri túc (biết chừng mực), tri biến (biết biến đổi - dĩ bất biến ứng vạn biến).
Hiện nay, tu dưỡng theo phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải
chú ý ứng xử với các đối tượng khác nhau, trước hết và quan trọng nhất là với các tầng lớp nhân
dân. Đối với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em, Hồ Chí Minh có cách ứng xử rất tự nhiên,
bình dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ động, linh hoạt, vừa ân cần tế nhị. Một điều rất cần thiết với
cán bộ chủng ta hiện nay là phải chân thực, luôn luôn xem mình là người bình thường. Đó chính
là thái độ nhân văn, thương yêu, quý trọng, quý mến con người.
Học Hồ Chí Minh trong cách ứng xử với nhân dân là phải có thái độ ân cần, niềm nở,
vừa thân ái vừa nhiệt tình, thể hiện tấm lòng độ lượng, khoan dung nâng con người lên, chứ
không phải hạ thấp, vùi dập con người. Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, tuyệt
đối không được dùng sức mạnh của quyền lực trong ứng xử với quần chúng nhân dân. “Thánh
nhân cao hơn thiên hạ vì biết đứng sau thiên hạ” là vì vậy. Nó làm cho Người càng được quần
chúng tín nhiệm bởi vì đó là phong cách vừa hiểm có vừa rất đáng tin. Bài học lớn của Hồ Chí
Minh là mặc dù đứng ở đỉnh cao của quyền lực 24 năm trời, nhưng chưa bao giờ Người ứng xử
với nhân dân, với cấp dưới, với những người phục vụ như một người có quyền. Ngược lại,
Người ứng xử như một người bạn, một người lính phục vụ Tổ quốc, một người công bộc phục
vụ nhân dân.

Trong ứng xử cần có thái độ khiêm nhường, khiêm nhường thật sự. Đó là một phẩm chất
T r a n g 25 | 27


×