Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.53 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN HUY CƯƠNG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Oanh

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luật văn Thạc sỹ Luật học
“Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác
trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Cao Thị Oanh.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


Tác giả luận văn

Phan Huy Cương


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TAND

Toà án nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ
HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ................................................................ 7
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự ..................................................................................................................... 7
1.2. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự....... 11
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự
Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự từ năm 1945
đến nay................................................................................................................................. 26

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬTTRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................................................... 32
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự .............................................................................................................. 32
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội ................................................................................................................ 36
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ...................................................... 58
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự ................................................................................................................................ 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự .................................................................................................................... 59
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………

74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Hình phạt không chỉ mang
lại những hiệu quả nhất định không những trong việc trừng trị người phạm tội mà còn
có vai trò to lớn trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới và đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp
phần đấu tranh phòng và chống tội phạm. Việc quyết định hình phạt sẽ thực sự phát
huy tác dụng, đúng như mong muốn của nhà làm luật một khi nó tuân thủ các nguyên
tắc quy định của BLHS, đồng thời phù hợp với thực tế điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.

Chính vì thế BLHS đã thiết lập một chế định mềm dẻo cho phép khi quyết định hình
phạt, Toà án có thể cho người bị kết án hưởng một hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một chế định quan trọng
trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tuy nhiên nó được quy định tương đối ít trong
BLHS (Điều 47). Trong thực tiễn áp dụng pháp luật việc quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS cũng còn gặp những vướng mắc nhất định, cần tháo gỡ, xem xét,
nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc quy định những biện
pháp này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước nói
chung và Luật hình sự Việt Nam nói riêng, từ quan điểm cho rằng việc truy cứu trách
nhiệm hình sự và xử phạt về hình sự mặc dù là rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp
chế, củng cố trật tự pháp luật song không phải là biện pháp duy nhất mà đòi hỏi “ngày
càng mở rộng các biện pháp tác động xã hội khác để đấu tranh phòng và chống tội
phạm” [17;tr.9]. Mặt khác, nó còn để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý tội
phạm và người phạm tội của Nhà nước ta, đó là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”,
“trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo”. Đến lần pháp điển hóa lần thứ nhất Luật hình
sự Việt Nam bằng việc thông qua BLHS năm 1985, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS đã được ghi nhận chính thức, nhưng nó vẫn được quy định chung cùng
với những tình tiết giảm nhẹ tại một điều của Bộ luật (Điều 38). Tương tự như vậy,

1


đến lần pháp điển thứ hai Luật hình sự bằng việc thông qua BLHS năm 1999, các quy
định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng đã được sửa đổi, bổ
sung và tiếp tục hoàn thiện, cụ thể nó đã được ghi nhận tại một điều luật riêng biệt
trong Phần chung (Điều 47). Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm
2017 đã tiếp tục quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS tại
Điều 54, tuy nhiên, lần pháp điển hóa thứ ba vừa qua vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
về mặt lập pháp đối với chế định này, cũng như thực tiễn áp dụng nó kể từ khi các Bộ
luật hình sự trước có hiệu lực thi hành.

Chẳng hạn, cả BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 vẫn chưa
đưa ra được định nghĩa pháp lý của khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy những quy
phạm của chế định này còn nhiều bất cập, một số quy định chưa chặt chẽ về nội dung
và chưa thống nhất, đặc biệt trong thực tiễn đời sống xã hội và thực tiễn pháp lý đang
tồn tại vấn đề là tại sao lại quy định chỉ được quyết định hình phạt trong khung hình
phạt nhẹ hơn liền kề, trong khi các chế định khác như miễn hình phạt, miễn trách
nhiệm hình sự còn mang lại hậu quả pháp lý có lợi hơn nhiều cho người phạm tội thì
trên thực tế, cơ sở để áp dụng cũng tương tự như cơ sở khi quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS. Điều đó cho thấy những bất hợp lý, không cân đối trong luật
hình sự thực định. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về
mặt khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS và vấn đề áp dụng trong thực tiễn, đồng thời
đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của chế định này, cũng như nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng những quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS không những có ý nghĩa lý luận-thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là
vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết
định lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS có liên quan mật
thiết và chặt chẽ đến chế định hình phạt và nhiều chế định khác trong luật hình sự. Ở

2


Việt Nam, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng mới chỉ được quy
định tại một điều luật riêng lẻ (Điều 47 BLHS năm 1999, Điều 54 Bộ luật Hình sự
năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017), điều đó chứng tỏ quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS vẫn chưa được các nhà lập pháp coi trọng đúng mức và nhận

thức được tầm quan trọng của chế định này cũng như nhu cầu cần quy định cụ thể và
đầy đủ hơn trong BLHS. Cũng giống như phương diện lập pháp, trên phương diện
nghiên cứu, lý luận chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng
vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức mặc dù đây là một chế định quan trọng,
có ý nghĩa lớn lao đối với quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm của Nhà nước,
thể hiện quan điểm nhân đạo, đường lối chính trị mang đậm nét nhân văn của Đảng và
Nhà nước ta. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
công phu và đầy đủ ở cấp độ một luận văn thạc sỹ hay một luận án tiến sĩ về đề tài
này. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS mới chỉ được nghiên cứu với
tư cách là đề tài của các khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật hoặc rải rác trên một số Tạp
chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hay được đề cập với tư cách là một vấn đề (khía
cạnh liên quan) của các chế định khác như hình phạt, quyết định hình phạt, các biện
pháp tha miễn, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, đáng chú ý, đó là
công trình nghiên cứu của TSKH, PGS Lê Cảm: 1) Về bản chất pháp lý của quy phạm
"Nguyên tắc quyết định hình phạt" tại Điều 37 BLHS 1985 (Một số vấn đề lý luậnthực tiễn & hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Toà án nhân dân - số 1, 2 năm 1989); 2)
Nhân thân người phạm tội: một số vấn đề lý luận cơ bản (Tạp chí Toà án nhân dân - số
10/2001); 3) Nhân thân người phạm tội: một số vấn đề lý luận cơ bản (đồng tác giả với
Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Toà án nhân dân - số 1/2003); 4) Quyết định hình phạt nhẹ
hơn khung hình phạt đối với một tội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (đồng tác giả
với Võ Khánh Vinh, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, 2 năm 1988). Ngoài ra, phải
kể đến các nghiên cứu của các tác giả khác như: 1) Định tội danh và quyết định hình
phạt (Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2004 của TS. Dương Tuyết Miên); 2) Định
tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, năm 2004 của TS Lê Văn Đệ); 3) Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự trong việc quyết định hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số

3


1/2004 của tác giả Trịnh Tiến Việt); 4) Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của

BLHS (Tạp chí Pháp lý, số 7/2000 của tác giả Phan Hữu Thức)... Tuy nhiên, tất cả
những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới dạng là các bài viết đăng trên
tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình, sách tham khảo
hay sách bình luận, hoặc mới chỉ xem xét vấn đề ở cấp độ một khóa luận tốt nghiệp cử
nhân luật. Có nghĩa là cho đến nay trong khoa học luật hình sự của Việt Nam chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập đến chế định này một cách tương đối có hệ thống, tương
đối đồng bộ và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học có gắn với việc nghiên cứu thực tiễn
xét xử của Toà án trên một địa phương nhất định. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn xung quanh chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng đòi hỏi
cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 hiện nay chưa có hiệu
lực pháp luật (hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018) nên chưa có thực tiễn áp dụng các
quy định trong hoạt động xét xử của toà án. Chính vì vậy, phạm vi xem xét của luận
văn căn cứ vào Bộ luật Hình sự hiện hành năm 1999, có đối chiếu, xem xét trong quá
trình phân tích với Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thực tiễn áp dụng quy định tại Điều 47 tại Toà án nhân dân thuộc thành phố Hà
Nội tức là ở hai cấp xét xử của Toà án nhân dân cấp quận, huyện thuộc Hà Nội và Toà
án nhân dân thành phố Hà Nội sẽ được xem xét, đánh giá trong luận văn theo giai đoạn
từ năm 2011 đến năm 2016.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên trong luận văn, tác giả tập trung vào giải quyết
những nhiệm vụ chính như sau: 1) Phân tích căn cứ quyết định hình phạt được ghi
nhận trong pháp luật hình sự thực định, một số quan điểm khác nhau về quyết định
hình phạt. 2) Phân tích các quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của BLHS, khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định
này để đưa ra quan điểm của mình. 3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng những
trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS theo các quy định của


4


BLHS năm 1999 hiện hành, BLHS năm 2015 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018 và thực tiễn áp dụng tại TAND thành phố Hà Nội. Qua đó phân tích một
số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng chế định này. 4) Luận chứng cho sự
cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
chế định này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một chế định hẹp và tương
đối phức tạp, nghiên cứu về quyết định hình phạt có nhiều nghiên cứu chung, đồng bộ
mà ít có nghiên cứu chuyên sâu về từng trường hợp cụ thể, nên việc hiểu trong lý luận
và vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Bởi vậy, phạm vi
nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh chế định
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS như: 1) Khái niệm quyết định hình
phạt, bản chất pháp lý, ý nghĩa, căn cứ quyết định hình phạt. 2) Khái niệm quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. 3) Các căn cứ pháp lý quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS. 4) Lý luận và thực tiễn áp dụng, những vướng mắc và
phương hướng giải quyết đối với quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS.
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của chế định quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS trên phương diện (khía cạnh) lập pháp và việc
áp dụng chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm
của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp ,
cũng như những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã

hội học pháp luật… trong các công trình của các nhà khoa học - luật gia ở trong và
ngoài nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong một số vụ án

5


hình sự mà thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá,
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận-thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái
niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS, nội dung và điều kiện áp dụng của những trường hợp quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của BLHS trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình
sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định
này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, ở một
chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ
đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến chế định quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS có gắn với thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội, do đó nó
còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học,
cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành
Tư pháp hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm ba
chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của pháp luật hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Một số khái niệm của các nhà khoa học
Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế, nguyên Chánh Toà hình sự Toà án nhân dân Tối
cao, thì: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là trường hợp Toà án có
thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã
quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn" [17,tr.9].
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất là tuyên một hình phạt thấp hơn so với
mức thấp nhất của khung hình phạt quy định, nhưng không được thấp hơn mức thấp
nhất của loại hình phạt đó. Thay thế một hình phạt khác nhẹ hơn là thay thế loại hình
phạt được quy định đối với tội đó bằng một hình phạt nhẹ hơn không được quy định
trong điều luật đó [13].
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã
quy định nghĩa là quyết định một hình phạt thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt ở chế
tài của khung hình phạt tương ứng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật hoặc một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung trong trường hợp chỉ
có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung nhẹ nhất của điều luật.
Quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là quyết định
thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật hoặc khoản của điều luật đối với
tội đang xét xử bằng một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn không được quy định
trong điều luật hoặc khoản của điều luật đó [11].
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định, tức là áp
dụng hình phạt đó với mức thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật
quy định đối với tội phạm bị xét xử. Chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ

hơn nghĩa là thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật về tội phạm bị xét
xử bằng một loại hình phạt khác nhẹ hơn không được quy định trong điều luật [12].

7


Những định nghĩa trên đây mới chỉ dừng lại ở việc giải thích theo nội dung điều
luật (Điều 38 khoản 3 BLHS 1985, Điều 47 BLHS 1999) mà chưa có sự phân biệt để
trả lời cho những thắc mắc đã nêu trên. Lý giải cặn kẽ vấn đề này sẽ có cơ sở để đưa ra
những tiêu chí, căn cứ giải quyết vấn đề khi nào thì quyết định hình phạt nhẹ hơn (và
phải cùng loại hình phạt), khi nào được chuyển sang một loại hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn. Ví dụ bị cáo Phạm Văn A và Phạm Thị B bị xét xử về tội "Cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" theo khoản 1 điều
165 BLHS năm 1999, Toà án đã tuyên phạt A 9 tháng tù, B 6 tháng tù và khẳng định
đây là áp dụng điều 47 BLHS 1999 để quyết định hình phạt dưới mức khởi điểm của
khung hình phạt. Vậy trường hợp này áp dụng điều luật và cho rằng đã quyết định hình
phạt dưới mức khởi điểm của khung hình phạt đã đúng chưa? Mức khởi điểm của
khung 1 điều 165 BLHS năm 1999 là như thế nào, hình phạt cải tạo không giam giữ
hay hình phạt tù, hoặc mức thấp nhất của mỗi loại hình phạt đều là mức khởi điểm của
khung... Cả Điều 38 khoản 3 BLHS năm 1985, Điều 47 BLHS năm 1999 cũng như các
định nghĩa nêu trên đều chưa làm rõ được vấn đề này, vì thế cần thiết phải nghiên cứu
kỹ lưỡng nhằm đưa ra định nghĩa đúng đắn, bao quát mọi trường hợp quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của BLHS.
Căn cứ quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999 cho thấy quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS là việc Toà án có thể đưa ra một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định (nhưng phải trong khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn của điều luật nếu điều luật có từ hai khung trở lên) hoặc chuyển sang
một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, trừ trường hợp đối với người phạm tội lần đầu
là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Hiện nay có
quan điểm cho rằng khi Toà án áp dụng một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của

khung hình phạt đối với riêng loại hình phạt đó là đã quyết định một hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS. Ví dụ khung có hai loại hình phạt là tù từ một năm đến năm năm
và cải tạo không giam giữ đến ba năm, nếu Toà án quyết định mức hình phạt sáu tháng
tù giam tức là bị cáo đã được vận dụng điều 47 BLHS năm 1999 để được hưởng quy
định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. Theo chúng tôi, quan điểm
trên chưa thuyết phục bởi vì điều 47 BLHS quy định: "thì Toà án có thể quyết định

8


một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung" tức là phải dưới tất cả các loại hình phạt
thấp nhất được quy định trong khung đó. Như ví dụ trên mức hình phạt sáu tháng tù
giam chưa phải là được áp dụng điều 47 BLHS 1999, vậy xếp nó vào loại nào? Có thể
quy định như hiện nay đã gây khó khăn cho việc hiểu và vận dụng điều luật trên thực
tế, còn gây tranh cãi và áp dụng khác nhau giữa các địa phương. Nếu điều luật nói rõ
là quyết định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung (tôi xin nhấn
mạnh là cùng loại) thì những khái niệm trên là đúng, còn nói chung một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung thì theo cách hiểu phổ thông nhất tức là phải bao gồm dưới
"trọn gói", dưới toàn bộ tất cả các loại hình phạt có trong khung đó. Tuy nhiên hiện
thời để có căn cứ pháp lý cho việc quyết định một mức hình phạt dưới khung, cùng
loại thì nên theo các khái niệm hiện nay. Một vấn đề là quy định như thế nào thì có lợi
cho bị cáo, đồng thời thể hiện sự minh bạch, rõ ràng của pháp luật, theo tôi việc quyết
định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung nên có quy định riêng cho
cụ thể hơn.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS mang đặc điểm của hoạt động
quyết định hình phạt nói chung và có một số đặc điểm riêng như:
- Chỉ có thể do một cơ quan tư pháp duy nhất thực hiện, đó là Toà án. Điều 102
Hiến pháp năm 2013 quy định: " Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp". Như vậy đây là quy định
xuất phát từ đạo luật gốc, Hiến pháp, có giá trị pháp lý cao nhất, không cơ quan nào có

thể làm thay Toà án trong hoạt động xét xử. Cụ thể hoá điều này, Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 2014 ngay tại Điều 2 đã nhắc lại quy định này và khẳng định: "Tòa án
nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật". Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự
luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Điều 30 BLHS
2015 quy định: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,

9


pháp nhân thương mại đó". Các cơ quan hành chính chỉ có thể ra quyết định xử lý vi
phạm hành chính, quyết định kỷ luật mà không bao giờ được áp dụng hình phạt với bất
cứ cá nhân nào. Tóm lại, Toà án là cơ quan duy nhất được Hiến pháp quy định chức
năng xét xử các vụ án hình sự và quyết định áp dụng hình phạt đối với một cá nhân bị
kết án.
- Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng là thể hiện nguyên tắc
nhân đạo trong pháp luật hình sự. Khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định nguyên
tắc xử lý là: "Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác
đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra; Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát,
giáo dục". Các quy định tại Điều 3 nêu trên đã được quy định cụ thể thành các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 BLHS. Tinh thần của khoản 1 Điều 3 cũng
được ghi nhận tại một phần của Điều 54 BLHS. Theo quy định của BLHS, nếu người
lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Hình

phạt nhẹ hơn hình phạt tù bao gồm các hình phạt như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ. Ngoài ra, việc Toà án cho người phạm tội được hưởng án treo cũng
được coi là nhẹ hơn hình phạt tù. Nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với
người phạm tội là cơ sở quy định các chế định, các quy định khác về quyết định hình
phạt như: căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50); quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS (Điều 54); án treo (Điều 65) [24].
- Hình phạt do Toà án quyết định đối với người bị kết án luôn luôn không nằm
trong khung hình phạt đối với hành vi phạm tội tương ứng, nó nằm ở khung hình phạt
nhẹ hơn. Theo quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999 thì nó nằm ở khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn.
- Phải tuân thủ những điều kiện nhất định theo quy định của BLHS.
- Phải được thể hiện bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên
áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS đối với người bị kết án.

10


Từ những phân tích trên có thể nêu khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS như sau: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là việc Toà
án áp dụng một mức hình phạt, theo cùng một loại hình phạt nhẹ hơn hoặc chuyển
sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn khung hình phạt đối với một tội phạm cụ thể
được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS mà bị cáo bị Toà án đưa ra xét xử.
1.2. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự
1.2.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự
Nguyên tắc của luật hình sự là một trong những nội dung hợp thành quan trọng
của luật hình sự. Để hiểu được các nguyên tắc của luật hình sự, cần có hiểu biết chung
về nguyên tắc của pháp luật. Nguyên tắc theo cách hiểu của triết học, đó là "những tư
tưởng xuất phát điểm, có tính chủ đạo, định hướng, là quy tắc cơ bản của hành động".

Pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những người không giống
nhau trong thực tế, vì vậy trong những phạm vi chung đó làm thế nào để đưa ra được
một quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan trọng và đầy trách nhiệm của
những cơ quan và những người áp dụng pháp luật. Quyết định hình phạt là một trong
những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật
hình sự. Giai đoạn này chiếm một vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình
sự. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ chỉ Toà án mới có quyền quyết định hình phạt,
như phân tích ở trên theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự. Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước giao cho Toà án, nhân danh Nhà
nước quyết định áp dụng với người phạm tội. Toà án tuyên bố áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội, thể hiện sự lên án của nhà nước đối với họ về việc thực hiện tội
phạm là sự trừng trị người phạm tội. Quyết định hình phạt còn là một hoạt động pháp
lý tố tụng hình sự, hay nói cách khác là một dạng hoạt động của việc áp dụng pháp luật
hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội
phạm theo một trật tự pháp lý nhất định. Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một
trong những vấn đề quan trọng của chế định quyết định hình phạt, bởi vì việc quyết
định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào

11


việc nhận thức và áp dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn xét xử. Đây là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Ý nghĩa lý luận của chúng thể hiện ở chỗ: việc làm
sáng tỏ các nguyên tắc đó góp phần vào việc nhận thức được bản chất, nội dung,
nguồn gốc, ý nghĩa của chế định quyết định hình phạt, phân biệt chúng với các căn cứ
quyết định hình phạt, đưa ra những phương án tối ưu của việc thể hiện chúng trong các
quy phạm của luật hình sự. Còn về mặt thực tiễn, các nguyên tắc đó là những tư tưởng
chỉ đạo, là kim chỉ nam cho hoạt động của Toà án khi chọn và quyết định loại và mức
hình phạt đối với từng bị cáo trong từng vụ án cụ thể. Các nguyên tắc quyết định hình
phạt là những tư tưởng xuất phát, tư tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình

sự và do giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động của Toà án khi áp dụng
các chế tài luật hình sự đối với người phạm tội.
Quyết định hình phạt cần dựa vào những nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc cá thể hoá
hình phạt; Nguyên tắc công bằng (công minh). Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS cần tuân thủ những nguyên tắc cụ thể nêu trên, cụ thể như sau:
Một là, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Trong các nhà nước bóc lột, pháp
luật nói chung và nhất là pháp luật hình sự luôn luôn là công cụ để đàn áp giai cấp. Vì
vậy, nói đến luật hình sự lúc đó là nói đến những hình phạt nặng nề, hà khắc. Pháp luật
không chỉ trừng trị hành vi mà còn trừng trị cả quan điểm, cả suy nghĩ, "những ý nghĩ
tội lỗi". Hình phạt không chỉ áp dụng đối với người có hành vi mà cả đối với gia đình
họ, thân tộc của họ (tru di tam tộc). Một hành vi phạm tội có thể bị xử nhiều lần và
chịu nhiều hình phạt khác nhau. Sự man rợ đó được thực hiện bằng sự hợp thức hoá
trong luật và cả ngoài luật. Nguyên tắc pháp chế có những nội dung sau: Thứ nhất:
những gì có thể là cơ sở của trách nhiệm hình sự, của việc áp dụng hình phạt hoặc
miễn hình phạt cũng như của việc áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự với tính
cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đều phải do pháp luật hình sự quy định.
Điều 2 BLHS quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới
phải chịu trách nhiệm hình sự". Điều 8 quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS...". Nguyên tắc này đã được đề xướng trong các học
thuyết pháp lý cổ điển trước đây với những nội dung rất rõ ràng "Không có tội phạm

12


nếu luật không quy định". Luật được coi là nguồn duy nhất quy định tội phạm. Chỉ có
luật mới có thể quy định tội phạm và hình phạt - nội dung này còn có thể được hiểu là
sự đòi hỏi phải điều chỉnh tối đa và đầy đủ trong luật hình sự. Thứ hai: nguyên tắc
pháp chế trong luật hình sự đòi hỏi ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm
trong những hành vi mà điều luật mô tả cần phải được làm rõ. Thứ ba: nguyên tắc

pháp chế trong luật hình sự là việc từ bỏ áp dụng pháp luật tương tự. Chỉ có luật mới
có thể quy định tội phạm và hình phạt - điều đó có nghĩa là không thể áp dụng tương
tự về tội phạm và tương tự về hình phạt như trước năm 1985 khi chưa có BLHS.
Nhưng trong luật hình sự Việt Nam chúng ta có thể thấy một điểm nổi bật đáng chú ý,
đó là: chỉ có BLHS mới quy định tội phạm và hình phạt. Điều 8 BLHS Việt Nam quy
định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS..."
Hai là, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Hiến pháp năm 2013, tại Điều 2
khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân". "Nhà nước bảo đảm và
không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân" - Điều 3. Nội dung chính của nguyên
tắc nhân đạo trong luật hình sự là: - Một là, đối với người phạm tội, việc áp dụng hình
phạt, chỉ cần thiết đến mức cần và đủ cho việc đạt được mục đích cải tạo, giáo dục,
phòng ngừa. - Hai là, hình phạt và các biện pháp khác của trách nhiệm hình sự không
nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp phẩm giá con người. Để thực hiện
nguyên tắc nhân đạo, BLHS Việt Nam quy định một loạt các chế định làm cơ sở pháp
lý cho sự vận dụng của các cơ quan truy tố và xét xử. Có thể liệt kê một số quy định và
chế định như sau: - Quy định áp dụng hiệu lực trở về trước đối với những điều luật quy
định xoá bỏ một tội phạm....; không áp dụng hiệu lực trở về trước đối với những điều
luật quy định một tội phạm mới... - Quy định một loạt các hình phạt nhẹ bên cạnh các
hình phạt như tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. - Quy định các tình tiết giảm nhẹ
và khả năng bổ sung của Toà án cũng như khả năng xử phạt dưới mức thấp nhất của

13


chế tài của Điều luật và khả năng chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn. - Các
chế định án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt...

Ba là, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt: Tại Điều 1 BLHS năm 1999 quy định:
"...Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội". Điều 2 khẳng định:
"Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự". Điều 6 khi quy định hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội ở ngoài
lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều xác định rõ các quy định đó
áp dụng đối với công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài. Điều 8 quy định: "Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện...". Như vậy, theo luật hình sự Việt Nam tội phạm
chỉ có thể là hành vi của cá nhân mà không thể của tập thể. Nguyên tắc đó có thể diễn
đạt như sau: "Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự bởi những gì do tự người
đó gây ra". Nội dung của nguyên tắc này có các yếu tố cơ bản là:
- Chủ thể của một hành vi phạm tội chỉ có thể là một thể nhân cụ thể, tức là một
cá nhân chứ không phải một tập thể hay một kiểu cộng đồng nào.
- Hình phạt, cũng như các hình thức trách nhiệm hình sự đều chỉ áp dụng đối với
cá nhân người đã gây ra hành vi phạm tội nhằm tác động trực tiếp vào ý thức của
người đó để đạt được mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa. Khi nói về
điều đó, lời nói đầu của BLHS khẳng định: "BLHS...thông qua hình phạt để răn đe,
giáo dục, cảm hoá, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện".
Bốn là, nguyên tắc công bằng: Trong luật hình sự, nguyên tắc công bằng phải
bao gồm tất cả các mức độ biểu hiện của luật hình sự. Điều đó có nghĩa là, sự tương
xứng giữa hành vi (mức độ và tính chất nguy hiểm) và trách nhiệm hình sự phải được
xác định trên ba mức độ: - Trên mức độ lập pháp hình sự, thông qua việc quy định tội
phạm (tội phạm hoá hoặc phi tội phạm hoá), nguyên tắc công bằng đòi hỏi pháp luật
hình sự phải phản ánh được đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân
trong đó có những quan điểm, quan niệm khác nhau về lẽ công bằng, về cách đánh giá
tội phạm và hình phạt trong dư luận. Đây là mức độ thuộc về thiết kế chính sách hình
sự và cơ sở nhận thức để xây dựng các chế định về tội phạm và hình phạt. Thực tế cho
thấy rằng trong nhận thức của các tầng lớp, chính giới, dân cư về cùng một loại hành

14



vi chưa phải đã đạt được sự thống nhất trong mọi lúc, mọi nơi. - Mức độ các chế tài
của điều luật: Một chế tài hình sự chỉ được coi là công bằng khi nó phù hợp với mức
độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Đồng thời, chế tài đó lại tương xứng trong mối
so sánh với các chế tài đối với các tội khác. Chẳng hạn chế tài đối với tội giết người và
tội hiếp dâm. Chế tài cũng chỉ được coi là công bằng khi nó có khả năng cho phép cơ
quan áp dụng nó có thể tính đến được các điều kiện phạm tội cụ thể trong thực tế. Mức độ của việc quyết định hình phạt: Một hình phạt chỉ được coi là công bằng khi nó
xác định được sự tương xứng giữa loại và mức hình phạt với mức độ nghiêm trọng của
hành vi, với nhân thân người phạm tội và với tất cả những tình tiết khách quan và chủ
quan liên quan đến trường hợp phạm tội này.
Một bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc công bằng trong
luật hình sự Việt Nam là việc quy định các chế tài lựa chọn và các chế tài xác định
tương đối; quy định khả năng quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã
quy định hoặc khả năng chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, các khả
năng miễn trách nhiệm hình sự...Đây là những căn cứ cho sự tuỳ nghi của Toà án. Sự
tuỳ nghi này là cần thiết để có được một bản án xác đáng, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Tuy nhiên yếu tố tuỳ nghi quá rộng thì sẽ dẫn đến làm lệch độ yếu tố cơ bản
của trách nhiệm hình sự là hành vi, và vì vậy các nguyên tắc khác mà trước hết là
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa bị vi phạm. Chính vì thế, cần bảo đảm sự công
bằng trên cơ sở pháp chế theo hướng tăng cường phân hoá trách nhiệm hình sự, phân
loại tội phạm, quy định rõ ràng và đầy đủ các cơ sở của việc áp dụng những yếu tố
thuộc về quá trình quyết định hình phạt.
1.2.2. Các căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Điều 45 BLHS năm 1999 quy định: khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào
các quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Trên cơ sở phân tích nội dung Điều 45 BLHS năm 1999 có thể rút ra
kết luận: khi quyết định hình phạt, Toà án phải tuân theo các căn cứ sau:
- Căn cứ vào các quy định của BLHS;

- Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;

15


- Cân nhắc nhân thân người phạm tội;
- Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Nội dung các căn cứ như sau:
Một là, căn cứ vào các quy định của BLHS, tức là căn cứ vào các quy định của
phần chung và phần các tội phạm (điều luật quy định tội phạm mà bị cáo đã phạm).
Khi quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào tất cả các quy định của phần chung,
không hoàn toàn có nghĩa là trong mọi trường hợp Toà án phải viện dẫn tất cả các quy
định nói trên của phần chung vào trong vụ án cụ thể. Toà án không thể và không cần phải
làm điều đó. Vì những quy định đó đã được giải thích, nhận thức và phản ánh trong ý thức
pháp luật của người Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, khi họ giải quyết vấn đề quyết
định hình phạt. Toà án chỉ phản ánh trong bản án những quy định của phần chung mà dựa
vào đó để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện và
nhân thân người phạm tội, đánh giá các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng có trong một vụ án
cụ thể nhằm chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo.
Hai là, khi quyết định hình phạt, ngoài việc căn cứ vào các quy định của phần
chung BLHS, Toà án còn phải căn cứ vào các chế tài của điều luật quy định đối với tội
phạm mà bị cáo đã thực hiện. Đối với mỗi loại tội phạm được chỉ ra ở phần quy định
của điều luật hoặc khoản của điều luật có một số loại hình phạt tương ứng được quy
định ở chế tài của điều luật hoặc khoản của điều luật đó. Do đó, khi quyết định hình
phạt, Toà án phải căn cứ vào loại và khung hình phạt được quy định đối với tội mà bị
cáo đã thực hiện. Khi quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào những chế tài cụ
thể được quy định đối với tội phạm cụ thể do bị cáo đã thực hiện để chọn một loại và
mức hình phạt hợp lý, công bằng và nhân đạo nhất. Như vậy, khi quyết định hình phạt,
Toà án cần phải căn cứ vào tất cả các quy định của BLHS ở dạng thống nhất, tổng thể
của chúng và phải cân nhắc, chỉ rõ trong bản án những quy định của BLHS có liên

quan trực tiếp đến việc quyết định một hình phạt cụ thể đối với một bị cáo cụ thể. Các
quy định của BLHS là căn cứ cơ bản nhất của việc quyết định hình phạt, đó cũng là
đòi hỏi quan trọng của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi quyết định hình phạt.
Ba là, khi quyết định hình phạt, Toà án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm

16


được thể hiện ở tổng thể của hai khái niệm "tính chất" và "mức độ" nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, trước hết được quyết
định bởi ý nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ xã hội do tội
phạm đó xâm hại - khách thể bị xâm hại. Bên cạnh khách thể bị xâm hại, tính chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm còn phụ thuộc vào các dấu hiệu khác về mặt khách
quan, về mặt chủ quan, các dấu hiệu đặc trưng cho chủ thể. Như vậy, tính chất nguy
hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan của một loại tội phạm nhất định, được xác
định bởi tổng thể các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm, trong đó quan trọng nhất là ý
nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của những quan hệ xã hội bị hành vi phạm
tội xâm hại, tức là khách thể của tội phạm. Những tội phạm giống nhau về tính chất
nguy hiểm cho xã hội có thể khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm và đó cũng là thuộc tính khách quan của tội phạm. Nếu tính chất
của tội phạm thể hiện ở dạng mức độ về chất, thì mức độ nguy hiểm của nó được thể
hiện ở dạng mức độ về lượng nhất định của cùng một chất - tính chất nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm. Điều đó có nghĩa là khái niệm "tính chất" và "mức độ" nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm không tách rời nhau, chúng tồn tại cùng nhau, bổ sung
cho nhau và xâm nhập vào nhau. Khi quyết định hình phạt, Toà án phải chỉ ra trong
bản án những tình tiết cụ thể chứng minh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm cụ thể mà Toà án dựa vào đó và cùng với các tình tiết khác để chọn loại
và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo.

Khi xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ thể đã
được thực hiện phải xuất phát từ tổng thể các tình tiết mà ở đó tội phạm cụ thể đã được
thực hiện. Chỉ khi bảo đảm được sự cân nhắc tổng thể các tình tiết đó và với việc dựa
vào các căn cứ khác (nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và các tình tiết
tăng nặng), Toà án mới có đầy đủ căn cứ để quyết định được một loại và mức hình
phạt đúng pháp luật, công bằng, hợp lý. Các tình tiết (dấu hiệu) thuộc mặt khách quan
ảnh hưởng rất lớn đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực
hiện và do đó ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt. Nghiên cứu pháp luật hình sự
nước ta cho thấy, trong một số trường hợp các tình tiết như thời gian, địa điểm, hoàn

17


cảnh, hậu quả, phương pháp, phương tiện thực hiện tội phạm được nhà làm luật quy
định là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Chẳng hạn, tình tiết "vùng
rừng núi, vùng biển, vùng hiểm yếu khác" (Điều 83 BLHS); "lòng đất, nội thuỷ, lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế về thềm lục địa của Việt Nam" (Điều 172 BLHS); "trong
chiến đấu, trong khu vực có chiến sự" (Điều 316 BLHS). Trong những trường hợp đó,
những tình tiết nói trên có vai trò quyết định trong việc định tội danh và ở một mức độ
nhất định nào đó cũng ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt. Trong một số trường
hợp khác, những tình tiết nói trên không được các nhà làm luật quy định là những dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Trong các trường hợp đó, chúng không có ý
nghĩa đối với việc định tội danh, nhưng có ý nghĩa rất lớn trong việc quyết định hình
phạt đối với bị cáo. Bởi vậy, trong mọi trường hợp, cần phải xác định và cân nhắc các
tình tiết đó để có căn cứ đầy đủ cho việc quyết định hình phạt đối với bị cáo. Hậu quả
do tội phạm gây ra ảnh hưởng lớn đến việc quyết định hình phạt.
Trong lý luận về luật hình sự, pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử các hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được chia làm hai loại: các hậu quả được quy định
với tính cách là một yếu tố của cấu thành tội phạm và các hậu quả không được quy
định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Trong những trường hợp việc gây ra

hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, thì chúng không
được coi là dấu hiệu tăng nặng. Nhưng điều đó không có nghĩa mức độ nghiêm trọng
của hậu quả đã xảy ra, trong trường hợp nó được coi là dấu hiệu định tội, không được
tính đến khi quyết định hình phạt. Khi quyết định hình phạt cần phải lưu ý, trong
những điều kiện khác giống nhau, hậu quả gây ra càng nghiêm trọng, thì mức độ hình
phạt được quyết định càng phải nghiêm khắc. Ví dụ: trong những điều kiện khác giống
nhau, đối với người tham ô 10 triệu đồng cần phải quyết định hình phạt ít nghiêm khắc
hơn người tham ô 50 triệu đồng, mặc dù trong hai trường hợp đó hành vi phạm tội của
họ đều được định tội danh theo khoản 1 Điều 278 BLHS. Các hậu quả không được luật
quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc quyết định hình phạt. Hậu quả do tội phạm gây ra bao gồm cả những thiệt hại về
vật chất lẫn những thiệt hại về các mặt khác. Mức độ nghiêm trọng của hậu quả do tội
phạm gây ra ảnh hưởng đến mức độ nghiêm khắc của hình phạt được quyết định. Các

18


tình tiết như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương pháp, phương tiện thực hiện tội
phạm, trong những trường hợp không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm, có ý nghĩa quan trọng đối với việc cá thể hoá hình phạt. Khi cân nhắc
các tình tiết đó để quyết định hình phạt, Toà án cần lưu ý rằng không phải trong mọi
trường hợp các tình tiết đó đều có ý nghĩa, mức độ giống nhau đối với việc lựa chọn
loại và mức hình phạt mà còn tuỳ thuộc vào từng vụ án cụ thể, vào các điều kiện cụ thể
khác. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội, có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt. Trước hết,
các hình thức, các loại và mức độ của lỗi có ý nghĩa rất lớn đối với việc xác định tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện và việc quyết định
hình phạt.
Phân tích các quy định của BLHS nước ta cho thấy trong những trường hợp gây
ra hậu quả giống nhau, thông thường, các tội phạm được thực hiện do cố ý được nhà

làm luật đánh giá có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn các tội phạm được thực
hiện do vô ý và quy định hình phạt nghiêm khắc hơn (xem Điều 93 và 99 BLHS). Nhà
làm luật không quy định cụ thể mối liên hệ giữa các hình thức lỗi với mức độ hình
phạt được quyết định, nhưng về mặt lý luận cũng như thực tiễn xét xử cho thấy, trong
những điều kiện khác giống nhau, tội phạm được thực hiện do cố ý nguy hiểm hơn tội
phạm được thực hiện do vô ý, do vậy, hình phạt được quyết định với trường hợp thứ
nhất thường nghiêm khắc hơn trường hợp thứ hai. Để quyết định một hình phạt công
bằng, hợp lý, phù hợp với lỗi của người phạm tội, ngoài việc xác định đúng hình thức
lỗi, việc xác định rõ từng loại lỗi trong mỗi hình thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong
việc quyết định mức độ hình phạt. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong các điều kiện khác
giống nhau, thì tội phạm được thực hiện do cố ý trực tiếp nguy hiểm hơn tội phạm
được thực hiện do cố ý gián tiếp, và tội phạm được thực hiện do vô ý vì tự tin, nguy
hiểm hơn tội phạm được thực hiện do vô ý vì cẩu thả và điều đó được Toà án cân nhắc
khi quyết định hình phạt. Ngoài việc cân nhắc hình thức và loại lỗi, còn phải xác định
và cân nhắc mức độ lỗi của bị cáo trong những trường hợp phạm tội cụ thể. Bởi vì,
trong cùng một loại lỗi, mức độ thể hiện của nó cũng khác nhau, do đó, cũng ảnh
hưởng khác nhau đến việc quyết định hình phạt. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của

19


hành vi phạm tội có ảnh hưởng lớn đến mức độ lỗi của người phạm tội. Điều đó cũng
có nghĩa là giữa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực
hiện và mức độ lỗi có tồn tại mối quan hệ trực tiếp và mối quan hệ đó được thể hiện ở
chỗ hành vi phạm tội đã thực hiện càng nguy hiểm, thì mức độ lỗi của chủ thể càng
lớn, và do đó mức hình phạt được quyết định càng phải nghiêm khắc.
Tóm lại, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một trong
những căn cứ quan trọng của việc quyết định hình phạt. Có nhiều loại tình tiết, dấu
hiệu ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực
hiện. Bởi vậy, Toà án phải cân nhắc tổng thể các tình tiết, dấu hiệu đó mới bảo đảm

cho việc quyết định một hình phạt công bằng, hợp lý đối với bị cáo. Để có căn cứ đầy
đủ cho việc quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng, hợp lý phù hợp với tội
phạm đã thực hiện, tạo điều kiện cho việc đạt được các mục đích của hình phạt, theo
luật, ngoài việc cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã
thực hiện, Toà án còn phải cân nhắc nhân thân người phạm tội. Đây là một trong
những biểu hiện nhân đạo, công bằng và cá thể hoá hình phạt được thể hiện rõ trong
luật hình sự nước ta, được thực tiễn xét xử khẳng định và ghi nhận. Việc áp dụng đúng
quy định này có ý nghĩa cải tạo, giáo dục và phòng ngừa rất lớn. Ở dạng khái quát
nhất, có thể hiểu nhân thân đó là một khái niệm nhiều mặt, bao gồm những đặc điểm,
đặc tính khác nhau thể hiện bản chất xã hội, thể hiện tính cá biệt và tính không lặp lại
của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự coi là tội phạm.
Những đặc điểm, đặc tính đó mang tính chất chính trị - xã hội, tâm lý, đạo đức, sinh lý.
Luật quy định, khi quyết định hình phạt, Toà án phải cân nhắc nhân thân người phạm
tội, tức là cân nhắc những đặc điểm, đặc tính nói trên, làm cơ sở cho việc xác định và
đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của người đó. Những đặc điểm, đặc tính hoặc
là đã được chỉ rõ trong luật (ở Điều 46 và 48 của BLHS) hoặc là ở dạng luật cho phép
Toà án cân nhắc trong trường hợp những đặc điểm, đặc tính ấy không được chỉ ra
trong luật, nhưng chúng có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt và mức độ ảnh
hưởng của mỗi đặc điểm, đặc tính ấy tuỳ thuộc vào việc nó được biểu hiện cụ thể như
thế nào trong từng vụ án cụ thể. Những đặc điểm, đặc tính của nhân thân người phạm
tội được Toà án nghiên cứu, cân nhắc, đánh giá dưới hai khía cạnh: khía cạnh pháp

20


luật hình sự và khía cạnh tội phạm học. Việc nghiên cứu, cân nhắc, đánh giá nhân thân
ở khía cạnh pháp luật hình sự là nhằm làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa trực tiếp
đối với việc quyết định hình phạt. Đó là những tình tiết như: tái phạm, tái phạm nguy
hiểm, phạm tội nhiều lần, có án tích hay không có án tích, động cơ, mục đích của tội
phạm, phạm tội vì người khác đe dọa, cưỡng bức hoặc chi phối về mặt vật chất, công tác

hay các mặt khác, người phạm tội là phụ nữ có thai, là người già hoặc người có bệnh bị
hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, mgười phạm
tội tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách
nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm... Nghĩa là xác định, đánh giá, cân nhắc những đặc
điểm, đặc tính thuộc nhân thân người phạm tội nhằm làm giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự được quy định ở Điều 46 và 48 của BLHS năm 1999.
Bốn là, việc nghiên cứu, cân nhắc, đánh giá nhân thân người phạm tội dưới khía
cạnh tội phạm học được tiến hành nhằm mục đích làm sáng tỏ các nguyên nhân, các
điều kiện phạm tội, các điều kiện hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống, cư xử, trình
độ văn hoá, các mối quan hệ nói lên mặt tốt, mặt xấu của người phạm tội. Những đặc
điểm, đặc tính đó ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt. Cụ thể, những đặc điểm,
đặc tính đó là: sự cư xử trong cuộc sống, quan hệ với các thành viên trong gia đình,
trong xã hội, với đồng chí trong công tác, trong lao động, tinh thần, thái độ đối với
công việc chung, đối với việc bảo vệ tài sản chung, thái độ chấp hành kỷ luật, uy tín
trong tập thể, lối sống, đạo đức, tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, thương binh, có
người trong gia đình là liệt sĩ... Khi cân nhắc các đặc điểm, đặc tính đó, Toà án phải
ghi rõ trong bản án và nói rõ chúng có ảnh hưởng như thế nào đối với việc quyết định
hình phạt. Khi nghiên cứu, cân nhắc và đánh giá các đặc điểm, đặc tính của nhân thân
người phạm tội với tính cách là một trong những căn cứ của việc quyết định hình phạt,
một mặt, không nên trừu tượng hoá và tách rời chúng khỏi tội phạm do người đó thực
hiện, mà mặt khác, cũng không chỉ xuất phát từ tội phạm đã thực hiện. Điều đó nói lên
mối quan hệ biện chứng giữa cái khách quan - tội phạm đã thực hiện và cái chủ quan các đặc điểm, đặc tính thuộc nhân thân người phạm tội. Cho nên, khi quyết định hình
phạt, Toà án phải cân nhắc cả tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
đã thực hiện, lẫn nhân thân người phạm tội. Nhưng khi cân nhắc các căn cứ, đòi hỏi

21


×