Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.8 KB, 23 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN HUY CƯƠNG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành
tại Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học:

Phản biện 1: .........................................................

Phản biện 2: .........................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi ..... giờ ......., ngày ....... tháng ...... năm 2017.


Có thể tìm hiểu luận văn
Tại Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người
phạm tội. Hình phạt không chỉ mang lại những hiệu quả nhất định
không những trong việc trừng trị người phạm tội mà còn có vai trò to
lớn trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có
ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới và đồng thời giáo
dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh phòng và
chống tội phạm. Việc quyết định hình phạt sẽ thực sự phát huy tác
dụng, đúng như mong muốn của nhà làm luật một khi nó tuân thủ
các nguyên tắc quy định của BLHS, đồng thời phù hợp với thực tế
điều kiện, hoàn cảnh phạm tội. Chính vì thế BLHS đã thiết lập một
chế định mềm dẻo cho phép khi quyết định hình phạt, Toà án có thể
cho người bị kết án hưởng một hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một chế
định quan trọng trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tuy nhiên nó được
quy định tương đối ít trong BLHS (Điều 47). Chế định này còn nhiều
bất cập, một số quy định chưa chặt chẽ về nội dung và chưa thống
nhất, đặc biệt trong thực tiễn đời sống xã hội và thực tiễn pháp lý
đang tồn tại vấn đề là tại sao lại quy định chỉ được quyết định hình
phạt trong khung hình phạt nhẹ hơn liền kề, trong khi các chế định
khác như miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự còn mang lại hậu
quả pháp lý có lợi hơn nhiều cho người phạm tội thì trên thực tế, cơ
1



sở để áp dụng cũng tương tự như cơ sở khi quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS. Điều đó cho thấy những bất hợp lý, không
cân đối trong luật hình sự thực định. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS và vấn đề áp dụng trong thực tiễn, đồng thời
đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của chế định này,
cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định về
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS không những có ý
nghĩa lý luận-thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang
tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc chúng tôi
quyết định lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề
tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS có
liên quan mật thiết và chặt chẽ đến chế định hình phạt và nhiều chế
định khác trong luật hình sự. Ở Việt Nam, quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS cũng mới chỉ được quy định tại một điều
luật riêng lẻ (Điều 47 BLHS năm 1999, Điều 54 Bộ luật Hình sự
năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017), điều đó chứng tỏ quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS vẫn chưa được các nhà
lập pháp coi trọng đúng mức và nhận thức được tầm quan trọng của
chế định này cũng như nhu cầu cần quy định cụ thể và đầy đủ hơn
trong BLHS. Cũng giống như phương diện lập pháp, trên phương
2



diện nghiên cứu, lý luận chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS cũng vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức
mặc dù đây là một chế định quan trọng, có ý nghĩa lớn lao đối với
quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm của Nhà nước, thể hiện
quan điểm nhân đạo, đường lối chính trị mang đậm nét nhân văn của
Đảng và Nhà nước ta. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS được nghiên cứu rải rác trên một số Tạp chí khoa học pháp lý
chuyên ngành, hay được đề cập với tư cách là một vấn đề (khía cạnh
liên quan) của các chế định khác như hình phạt, quyết định hình
phạt, các biện pháp tha miễn, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh chế
định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng đòi hỏi
cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một chế
định hẹp và tương đối phức tạp, nghiên cứu về quyết định hình phạt
có nhiều nghiên cứu chung, đồng bộ mà ít có nghiên cứu chuyên sâu
về từng trường hợp cụ thể, nên việc hiểu trong lý luận và vận dụng
trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Bởi vậy, phạm vi
nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một số vấn đề
xung quanh chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS như: 1) Khái niệm quyết định hình phạt, bản chất pháp lý, ý
nghĩa, căn cứ quyết định hình phạt. 2) Khái niệm quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. 3) Các căn cứ pháp lý quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. 4) Lý luận và thực tiễn áp
3


dụng, những vướng mắc và phương hướng giải quyết đối với quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. Trên cơ sở nghiên cứu

những nội dung cơ bản của chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS trên phương diện
(khía cạnh) lập pháp và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn,
đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm của chế định này trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017
hiện nay chưa có hiệu lực pháp luật (hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018) nên chưa có thực tiễn áp dụng các quy định trong hoạt
động xét xử của toà án. Chính vì vậy, phạm vi xem xét của luận văn
căn cứ vào Bộ luật Hình sự hiện hành năm 1999, có đối chiếu, xem
xét trong quá trình phân tích với Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thực tiễn áp dụng quy định tại Điều 47 tại Toà án nhân dân
thuộc thành phố Hà Nội tức là ở hai cấp xét xử của Toà án nhân dân
cấp quận, huyện thuộc Hà Nội và Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
sẽ được xem xét, đánh giá trong luận văn theo giai đoạn từ năm 2011
đến năm 2016.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên trong luận văn, tác giả tập
trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau: 1) Phân tích căn
cứ quyết định hình phạt được ghi nhận trong pháp luật hình sự thực
định, một số quan điểm khác nhau về quyết định hình phạt. 2) Phân
tích các quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt nhẹ
4


hơn quy định của BLHS, khái quát lịch sử hình thành và phát triển
của chế định này để đưa ra quan điểm của mình. 3) Phân tích nội
dung, điều kiện áp dụng những trường hợp quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS theo các quy định của BLHS năm 1999 hiện

hành, BLHS năm 2015 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 và
thực tiễn áp dụng tại TAND thành phố Hà Nội. Qua đó phân tích một
số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng chế định này. 4)
Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài
liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp , cũng như những
thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự,
xã hội học pháp luật… trong các công trình của các nhà khoa học luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn
dựa vào số liệu trong một số vụ án hình sự mà thực tiễn xét xử và
thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng hợp các
tri thức khoa học luật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận-thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác
giả đã làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS, nội dung và điều
5


kiện áp dụng của những trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật
hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy
phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng
trong thực tiễn. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng
định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ đề cập đến chế định quyết định hình phạt nhẹ

hơn quy định của BLHS có gắn với thực tiễn áp dụng tại thành phố
Hà Nội, do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho
các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh,
học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự và thực tiễn quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự
Những khái niệm trước đây của các công trình nghiên cứu, các
bài viết mới chỉ dừng lại ở việc giải thích theo nội dung điều luật
(Điều 38 khoản 3 BLHS 1985, Điều 47 BLHS 1999) mà chưa có sự
phân biệt, lý giải cặn kẽ vấn đề để làm cơ sở đưa ra những tiêu chí,
căn cứ giải quyết vấn đề khi nào thì quyết định hình phạt nhẹ hơn (và
phải cùng loại hình phạt), khi nào được chuyển sang một loại hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Có thể nêu khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định
là: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là việc Toà án áp dụng
một mức hình phạt, theo cùng một loại hình phạt nhẹ hơn hoặc
chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn khung hình phạt đối
với một tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm của
Bộ luật hình sự mà bị cáo bị Toà án đưa ra xét xử".
1.2. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự
1.2.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự
Nguyên tắc của luật hình sự là một trong những nội dung hợp
thành quan trọng của luật hình sự. Để hiểu được các nguyên tắc của
luật hình sự, cần có hiểu biết chung về nguyên tắc của pháp luật.
7


Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cần tuân thủ
những nguyên tắc cụ thể: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, nguyên tắc công bằng.
1.2.2. Các căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự
Điều 45 BLHS năm 1999 quy định: khi quyết định hình phạt,
Toà án căn cứ vào các quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trên cơ
sở phân tích nội dung Điều 45 BLHS năm 1999 có thể rút ra kết luận:
khi quyết định hình phạt, Toà án phải tuân theo các căn cứ sau:
- Căn cứ vào các quy định của BLHS;
- Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội;

- Cân nhắc nhân thân người phạm tội;
- Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước
khi pháp điển hoá lần thứ nhất
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước lần pháp điển hoá
BLHS lần thứ nhất, việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức, cho phép
Toà án vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp tình hình, diễn biến thực
8


tiễn vụ án mà quyết định một hình phạt nhẹ hơn so với những trường
hợp không có các tình tiết giảm nhẹ TNHS mà các sắc lệnh đã quy
định.
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành BLHS năm 1985 đến nay
Sau khi BLHS được pháp điển hoá lần thứ nhất (năm 1985),
việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS tiếp tục được
ghi nhận tại khoản 3 Điều 36, chưa được tách thành một điều luật
riêng biệt mà chung với quy định về các tình tiết giảm nhẹ (TNHS).
Khoản 3 Điều 36 BLHS năm 1985 quy định: "Khi có nhiều tình tiết
giảm nhẹ, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất mà Điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ này phải được ghi trong
bản án". Ngày 27/11/2015, Quốc hội khoá XIII đã thông qua BLHS
mới thay thế cho BLHS năm 1999. Điều 54 Bộ luật hình sự năm
2015 Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
được áp dụng.


9


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
BLHS năm 1999 đã quy định tại Điều 47: “Khi có ít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà
án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một
khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ
nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong
bản án”.
2.1.1. Điều kiện áp dụng quy định về quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Về điều kiện áp dụng, khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ theo
quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS, toà án có thể mức hình phạt đối
với bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã
quy định. Áp dụng điều 47 phải đáp ứng hai điều kiện cần và đủ,
trong đó điều kiện cần là các tình tiết giảm nhẹ phải được quy định
trong tại khoản 1 Điều 46.

10



2.1.2. Phạm vi áp dụng quy định về quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự:
Về phạm vi áp dụng Điều 47 BLHS, quy định về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS được áp dụng hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định phải
nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.
2.1.3. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS
trong một số trường hợp đặc biệt
2.1.3.1. Đối với người chưa thành niên phạm tội
Trong quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, ngoài việc tuân thủ các quy định về quyết định hình phạt
nói chung của BLHS, Toà án còn phải căn cứ vào các quy định đối
với người chưa thành niên phạm tội tại chương X của BLHS.
2.1.3.2. Đối với người phạm tội là đồng phạm và trong các
giai đoạn phạm tội
Đối với người phạm tội là đồng phạm, BLHS hiện hành đã
chia thành bốn loại đồng phạm gồm: người thực hành, người tổ chức,
người xúi giục và người giúp sức. Khi xét xử, toà án căn cứ quy định
tại Điều 53 BLHS để xem xét tính chất, mức độ tham gia tội phạm
của từng đồng phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ
trách nhiệm hình sự đối với từng người đồng phạm.
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.1. Vài nét về tình hình chung của thành phố Hà Nội

11



Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
nằm ở vị trí trung tâm vùng đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nội tiếp giáp với
các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa
Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông,Hòa
Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính
vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km2.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.2.1. Tình hình xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp
thành phố Hà Nội
Trong giai đoạn 2011-2016, Tòa án nhân dân hai cấp thành
phố Hà Nội đã thụ lý 124.457 vụ án, đã giải quyết 119.302 vụ án các
loại, đạt tỷ lệ 95,8 %.
2.2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự tại Toà án nhân dân hai cấp thành phố Hà
Nội từ năm 2011 đến năm 2016
Từ năm 2011 đến năm 2016, toà án nhân dân hai cấp thuộc
thành phố Hà Nội đã xét xử 1.952 vụ có áp dụng điều 47 BLHS, so
với tổng số vụ việc đã xét xử là 119.302 vụ (chiếm 16,3%). Đa số
việc áp dụng Điều 47 BLHS của Toà án là đúng đắn, thoả mãn điều
kiện cần (có hai tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại Điều 46) và đủ
(giảm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn).
2.2.3. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự và nguyên nhân

12


2.2.3.1. Vướng mắc trong quy định của Luật và nguyên
nhân

Quy định các điều kiện để được áp dụng quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của BLHS là chưa cân đối với một số quy định
khác cùng tính chất làm giảm nhẹ TNHS của bị cáo. Quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của BLHS chưa thể hiện đúng tinh thần
nguyên tắc công bằng.
2.2.3.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Có nhiều trường hợp rất đáng được giảm nhẹ hình phạt hơn
nữa, nhưng vướng quy định hiện hành ở Điều 47 làm cho Toà án
không tuyên được một bản án phù hợp.
Một vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng là một số vụ việc có
đủ điều kiện để áp dụng Điều 47 quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS năm 1999 nhưng thẩm phán lại không áp dụng quy
định này.

13


Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự
3.1.1. Về mặt lập pháp
Pháp luật hình sự hiện hành có cấu trúc chưa cân đối giữa một
số trường hợp quy định về miễn TNHS, án treo, quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của BLHS. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS thì quy định nhiều điều kiện, không tạo ra sự linh hoạt
cho Toà án, án treo là chế định quan trọng lại không có những quy
định cụ thể như thế mà lại để Toà án tự xác định mức độ cần thiết.

Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS chưa thể hiện đầy
đủ nguyên tắc công bằng khi xử lý đối với người phạm tội.
3.1.2. Về mặt thực tiễn
Điều 47 BLHS năm 1999 vừa làm cho Toà án quyết định một
hình phạt không thoả đáng, không tương xứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, vừa không làm lợi hơn cho bị cáo
vì quy định khống chế hình phạt giảm nhẹ phải nằm trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn.
3.1.3. Về mặt lý luận
Hiện nay vẫn tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS, ngay từ tên gọi của điều luật
cũng có ý kiến khác nhau.

14


3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
3.2.1. Điểm mới của quy định về quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS theo BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017
và kiến nghị về việc tiếp tục hoàn thiện quy định này
BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định tại Điều 54
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
áp dụng, vẫn đặt tên điều luật theo cách thức của Điều 47 BLHS năm
1999 hiện hành, mặc dù các quy định tại các điều khác trong cùng
mục đều đặt tên theo logic khác như: Điều 55. Quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội; Điều 57. Quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; Điều 58.
Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
Việc quy định có tối thiểu 2 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định

tại khoản 1 Điều 46 BLHS mới được quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS là không cần thiết, chỉ nên quy định có nhiều
tình tiết giảm nhẹ TNHS, trong đó có ít nhất 1 tình tiết tại khoản 1
Điều 46 BLHS là đủ.
Từ những phân tích trên kiến nghị tiếp tục nghiên cứu sửa đổi
quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017.
3.2.2. Những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
3.2.2.1. Hoàn thiện quy định về quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự theo Bộ luật hình sự hiện hành

15


Về tên gọi của điều luật (Điều 47 BLHS năm 1999): theo
chúng tôi nên gọi điều luật này là “Quyết định hình phạt trong trường
hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS”. Quy định như vậy vừa rõ
ràng, vừa có sự tương thích với một số trường hợp quyết định hình
phạt khác, như quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
3.2.2.2. Giải pháp tăng cường tính độc lập trong hoạt động
xét xử của toà án
Tính độc lập của toà án khi xét xử để đảm bảo hoạt động xét
xử diễn ra khách quan, công bằng, đúng quy định của pháp luật,
trong đó có việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo. Tính độc lập khi
xét xử thể hiện ở sự khách quan trong mối quan hệ với các cơ quan
nhà nước khác và còn được thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét
xử, Toà án cấp trên không được quyết định hoặc gợi ý cho Toà án
cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Đồng thời khi xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm cũng không bị phụ thuộc bởi

các nhận định, những phán quyết của toà án cấp dưới.
3.2.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán
Thẩm phán là người có vị trí trung tâm trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự so với những người tiến hình tố tụng khác
đồng thời thẩm phán còn là người có vai trò quyết định trong hoạt
động xét xử. Không những thế, vị trí của thẩm phán còn thể hiện ở
việc thẩm phán là người đảm bảo sự công bằng thông qua hoạt động
xét xử và do vậy bảo vệ công bằng trong hoạt động xét xử là yêu cầu
không thể thiếu trong hoạt động nghề nghiệp của người Thẩm phán.
Muốn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS phát
16


huy hết ý nghĩa của nó thì ngoài yếu tố những quy định của luật hình
sự thì công tác cán bộ vẫn là điều cần quan tâm hơn cả. Một điều luật
muốn được áp dụng đúng đắn vào thực tiễn thì người cầm cân nảy
mực phải có tâm sáng, có đủ tài năng để làm việc đó.
3.2.3.4. Giải pháp coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm
xét xử để hoạt động áp dụng pháp luật của toà án sát thực tiễn
hơn
Không chỉ coi trọng công tác ban hành văn bản pháp luật mới,
cần chú trọng công tác tổng kết, đánh giá việc thực hiện các văn bản
đã ban hành một cách toàn diện và đầy đủ nhằm kịp thời đề xuất sửa
đổi bổ sung, bãi bỏ những quy phạm pháp luật lỗi thời, lạc hậu,
không được cuộc sống chấp nhận. Tổng kết kinh nghiệm xét xử
nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của toà án nhân dân nói riêng và trong xây dựng, hoàn thiện các văn
bản quy phạm pháp luật nói chung.
3.2.3.5. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
toà án để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt

động xét xử
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến nội dung tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có toà án
nhân dân nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan toà án và cơ quan tư pháp khác. Hướng đổi mới là nâng cao
năng lực xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện để Toà án nhân dân
cấp huyện là cơ quan xét xử sơ thẩm là chủ yếu, Toà án nhân dân cấp
tỉnh xét xử phúc thẩm là chủ yếu và Toà án nhân dân tối cao xét xử
17


giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng
pháp luật thống nhất trong toàn ngành.
3.2.3.6. Giải pháp về cải cách tư pháp đối với công tác xét
xử và tăng cường giải thích áp dụng pháp luật
Trước những yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp đối với
công tác xét xử của Toà án cần: Tăng cường công tác đào tạo, tự đào
tạo qua hoạt động thực tiễn; như: qua các phiên toà rút kinh
nghiệm…; Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội
ngũ cán bộ, Thẩm phán; Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững
vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về chuyên môn là một yêu cầu quan
trọng trong tiến trình cải cách tư pháp mà Nhà nước ta đang thực
hiện.

18


KẾT LUẬN
1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một
trong những quy định thể hiện nguyên tắc nhân đạo, công bằng trong

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Từ sau ngày Cách
mạng tháng Tám thành công đến nay, quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS luôn luôn được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật hình sự. Trước đây thì tản mạn tại các văn bản riêng biệt, sau khi
pháp điển hoá đã dần dần được tổng hợp đưa thành một khoản
(BLHS năm 1985) hay một điều luật (BLHS năm 1999, BLHS
2015). Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS đã được
các nhà làm luật ngày càng quan tâm để hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó
TAND Tối cao cũng kịp thời tổng kết thực tiễn đưa ra những tình tiết
giảm nhẹ TNHS ngoài quy định của BLHS.
2. Việc nghiên cứu chi tiết, đi sâu vào tổng kết, đánh giá hiệu
quả áp dụng quyết định hình phạt trong thực tiễn xét xử, cũng như
những nghiên cứu mang tính lý luận còn chưa được đề cao. Có nhiều
bài viết về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS nhưng
mới chỉ dừng lại ở một vài trường hợp còn vướng mắc đăng trên tạp
chí, hoặc chỉ được đề cập đến với một khía cạnh nhỏ trong các công
trình nghiên cứu khác. Đây có thể là một lý do làm cho kết quả
nghiên cứu khoa học chưa được ghi nhận vào hoạt động lập pháp.
3. Từ thực tiễn xét xử các vụ án hình sự thấy rằng quy định
như Điều 47 BLHS năm 1999 đã làm cho người bị kết án không
được hưởng một mức án tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội; với nhân thân người phạm tội và các tình
19


tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Bản thân Toà án đã vận dụng, “xé
rào”, tức là vi phạm Điều 47 BLHS, để cho người bị kết án được
hưởng mức án phù hợp. Có ý kiến đề xuất cần xem lại quy định
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS theo Điều 47
BLHS vì bị giới hạn của Điều 47 mà người bị kết án phải chịu một

hình phạt quá nghiêm khắc.
4. Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
của Bộ Chính trị thì Toà án sẽ giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các
cơ quan tư pháp, do đó cần tạo điều kiện cho Toà án linh hoạt hơn
trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử các vụ án hình sự nói
riêng. Chủ trương sửa đổi BLHS theo hướng nhân đạo hơn, trong đó
cần xem xét lại quy định của Điều 47 BLHS theo hướng quy định
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cần đáp ứng
nguyên tắc công bằng, pháp chế, tạo điều kiện cho Toà án ra những
bản án mà hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS. Ngoài ra, nhà làm luật nên xem xét để sửa
đổi một số quy định phần các tội phạm cho phù hợp với quy định về
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS, đảm bảo tính
thống nhất và chặt chẽ. Thực hiện các giải pháp khác như tăng cường
tính độc lập của toà án, đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân
dân, nâng cao chất lượng của đội ngũ thẩm phán để đảm bảo áp dụng
có hiệu quả quy định pháp luật hình sự nói chung, quy định về áp
dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS nói riêng trong hoạt
động xét xử các vụ án hình sự.
20


5. BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 có một số điểm mới
trong quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS
so với BLHS năm 1999, đã góp phần hoàn thiện chính sách hình sự,
các chế định của luật cũng như cụ thể hoá tính chất và mức độ của
hành vi phạm tội, thể hiện rõ hơn sự chủ động của toà án trong quyết
định hình phạt và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự. Đây là một
bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện các quy định của

BLHS ở nước ta. Tuy vậy, dưới góc độ khoa học cũng cần phải nhìn
nhận những hạn chế, bất cập của quy định này để nhà làm luật
nghiên cứu xem xét trong những lần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
pháp luật hình sự tiếp theo.

21



×