Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

luận văn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của bộ luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.03 KB, 110 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luật văn Thạc sỹ Luật học
“Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác
trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Cao Thị Oanh.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Phan Huy Cương


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TAND

Toà án nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ


HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ................................................................ 7
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự..................................................................................................................... 7
1.2. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình
sự....... 11 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật
hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự từ năm
1945 đến
nay................................................................................................................................. 26
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬTTRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ....................................................................................................
32 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự .............................................................................................................. 32
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội ................................................................................................................ 36
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ......................................................
58 3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự ................................................................................................................................ 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự .................................................................................................................... 59
KẾT LUẬN

.......................................................................................................................

72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………
74


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Hình phạt không chỉ mang
lại những hiệu quả nhất định không những trong việc trừng trị người phạm tội mà còn
có vai trò to lớn trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới và đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp
phần đấu tranh phòng và chống tội phạm. Việc quyết định hình phạt sẽ thực sự phát
huy tác dụng, đúng như mong muốn của nhà làm luật một khi nó tuân thủ các nguyên
tắc quy định của BLHS, đồng thời phù hợp với thực tế điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.
Chính vì thế BLHS đã thiết lập một chế định mềm dẻo cho phép khi quyết định hình
phạt, Toà án có thể cho người bị kết án hưởng một hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một chế định quan trọng
trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tuy nhiên nó được quy định tương đối ít trong
BLHS (Điều 47). Trong thực tiễn áp dụng pháp luật việc quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS cũng còn gặp những vướng mắc nhất định, cần tháo gỡ, xem xét,
nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc quy định những biện
pháp này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước nói
chung và Luật hình sự Việt Nam nói riêng, từ quan điểm cho rằng việc truy cứu trách
nhiệm hình sự và xử phạt về hình sự mặc dù là rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp
chế, củng cố trật tự pháp luật song không phải là biện pháp duy nhất mà đòi hỏi “ngày
càng mở rộng các biện pháp tác động xã hội khác để đấu tranh phòng và chống tội
phạm” [17;tr.9]. Mặt khác, nó còn để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý tội
phạm và người phạm tội của Nhà nước ta, đó là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”,
“trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo”. Đến lần pháp điển hóa lần thứ nhất Luật hình
sự Việt Nam bằng việc thông qua BLHS năm 1985, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS đã được ghi nhận chính thức, nhưng nó vẫn được quy định chung cùng
với những tình tiết giảm nhẹ tại một điều của Bộ luật (Điều 38). Tương tự như vậy,

1



đến lần pháp điển thứ hai Luật hình sự bằng việc thông qua BLHS năm 1999, các quy
định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng đã được sửa đổi,
bổ sung và tiếp tục hoàn thiện, cụ thể nó đã được ghi nhận tại một điều luật riêng
biệt trong Phần chung (Điều 47). Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung
năm 2017 đã tiếp tục quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS tại Điều 54, tuy nhiên, lần pháp điển hóa thứ ba vừa qua vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu về mặt lập pháp đối với chế định này, cũng như thực tiễn áp dụng nó
kể từ khi các Bộ luật hình sự trước có hiệu lực thi hành.
Chẳng hạn, cả BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 vẫn chưa
đưa ra được định nghĩa pháp lý của khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy những quy
phạm của chế định này còn nhiều bất cập, một số quy định chưa chặt chẽ về nội dung
và chưa thống nhất, đặc biệt trong thực tiễn đời sống xã hội và thực tiễn pháp lý đang
tồn tại vấn đề là tại sao lại quy định chỉ được quyết định hình phạt trong khung hình
phạt nhẹ hơn liền kề, trong khi các chế định khác như miễn hình phạt, miễn trách
nhiệm hình sự còn mang lại hậu quả pháp lý có lợi hơn nhiều cho người phạm tội thì
trên thực tế, cơ sở để áp dụng cũng tương tự như cơ sở khi quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS. Điều đó cho thấy những bất hợp lý, không cân đối trong luật
hình sự thực định. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về
mặt khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS và vấn đề áp dụng trong thực tiễn, đồng thời
đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của chế định này, cũng như nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng những quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS không những có ý nghĩa lý luận-thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là
vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết
định lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS có liên quan mật
thiết và chặt chẽ đến chế định hình phạt và nhiều chế định khác trong luật hình sự. Ở

2


Việt Nam, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng mới chỉ được quy
định tại một điều luật riêng lẻ (Điều 47 BLHS năm 1999, Điều 54 Bộ luật Hình
sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017), điều đó chứng tỏ quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của BLHS vẫn chưa được các nhà lập pháp coi trọng đúng mức và
nhận thức được tầm quan trọng của chế định này cũng như nhu cầu cần quy định cụ
thể và đầy đủ hơn trong BLHS. Cũng giống như phương diện lập pháp, trên
phương diện nghiên cứu, lý luận chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS cũng vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức mặc dù đây là một chế
định quan trọng, có ý nghĩa lớn lao đối với quá trình đấu tranh phòng và chống tội
phạm của Nhà nước, thể hiện quan điểm nhân đạo, đường lối chính trị mang đậm nét
nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách công phu và đầy đủ ở cấp độ một luận văn thạc sỹ hay
một luận án tiến sĩ về đề tài này. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS
mới chỉ được nghiên cứu với tư cách là đề tài của các khóa luận tốt nghiệp cử nhân
luật hoặc rải rác trên một số Tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hay được đề
cập với tư cách là một vấn đề (khía cạnh liên quan) của các chế định khác như hình
phạt, quyết định hình phạt, các biện pháp tha miễn, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS. Tuy nhiên, đáng chú ý, đó là công trình nghiên cứu của TSKH, PGS Lê Cảm:
1) Về bản chất pháp lý của quy phạm "Nguyên tắc quyết định hình phạt" tại Điều 37
BLHS 1985 (Một số vấn đề lý luận-thực tiễn & hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Toà
án nhân dân - số 1, 2 năm 1989); 2) Nhân thân người phạm tội: một số vấn đề lý
luận cơ bản (Tạp chí Toà án nhân dân - số 10/2001); 3) Nhân thân người phạm tội:
một số vấn đề lý luận cơ bản (đồng tác giả với Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Toà án nhân
dân - số 1/2003); 4) Quyết định hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt đối với một tội:

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (đồng tác giả với Võ Khánh Vinh, tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1, 2 năm 1988). Ngoài ra, phải kể đến các nghiên cứu của các
tác giả khác như: 1) Định tội danh và quyết định hình phạt (Nhà xuất bản Công an
nhân dân, năm 2004 của TS. Dương Tuyết Miên); 2) Định tội danh và quyết định hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2004 của
TS Lê Văn Đệ); 3) Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong việc quyết định hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số


3


1/2004 của tác giả Trịnh Tiến Việt); 4) Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS (Tạp chí Pháp lý, số 7/2000 của tác giả Phan Hữu Thức)... Tuy nhiên, tất cả
những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới dạng là các bài viết đăng trên
tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình, sách tham khảo
hay sách bình luận, hoặc mới chỉ xem xét vấn đề ở cấp độ một khóa luận tốt nghiệp
cử nhân luật. Có nghĩa là cho đến nay trong khoa học luật hình sự của Việt Nam
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến chế định này một cách tương đối có hệ
thống, tương đối đồng bộ và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học có gắn với việc
nghiên cứu thực tiễn xét xử của Toà án trên một địa phương nhất định. Hơn nữa, nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và
sâu sắc hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 hiện nay chưa có hiệu
lực pháp luật (hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018) nên chưa có thực tiễn áp dụng các
quy định trong hoạt động xét xử của toà án. Chính vì vậy, phạm vi xem xét của luận
văn căn cứ vào Bộ luật Hình sự hiện hành năm 1999, có đối chiếu, xem xét trong quá

trình phân tích với Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thực tiễn áp dụng quy định tại Điều 47 tại Toà án nhân dân thuộc thành phố Hà
Nội tức là ở hai cấp xét xử của Toà án nhân dân cấp quận, huyện thuộc Hà Nội và Toà
án nhân dân thành phố Hà Nội sẽ được xem xét, đánh giá trong luận văn theo giai đoạn
từ năm 2011 đến năm 2016.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên trong luận văn, tác giả tập trung vào giải
quyết những nhiệm vụ chính như sau: 1) Phân tích căn cứ quyết định hình phạt
được ghi nhận trong pháp luật hình sự thực định, một số quan điểm khác nhau về
quyết định hình phạt. 2) Phân tích các quan điểm khác nhau về khái niệm quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS, khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của chế định này để đưa ra quan điểm của mình. 3) Phân tích nội dung, điều
kiện áp dụng những trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS
theo các quy định của


4


BLHS năm 1999 hiện hành, BLHS năm 2015 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018 và thực tiễn áp dụng tại TAND thành phố Hà Nội. Qua đó phân tích một
số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng chế định này. 4) Luận chứng cho
sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện chế định này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một chế định hẹp và tương
đối phức tạp, nghiên cứu về quyết định hình phạt có nhiều nghiên cứu chung, đồng bộ
mà ít có nghiên cứu chuyên sâu về từng trường hợp cụ thể, nên việc hiểu trong lý luận
và vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Bởi vậy, phạm vi

nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh chế định
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS như: 1) Khái niệm quyết định hình
phạt, bản chất pháp lý, ý nghĩa, căn cứ quyết định hình phạt. 2) Khái niệm quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. 3) Các căn cứ pháp lý quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS. 4) Lý luận và thực tiễn áp dụng, những vướng mắc và
phương hướng giải quyết đối với quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS.
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của chế định quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS trên phương diện (khía cạnh) lập pháp và việc
áp dụng chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm
của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng
hợp , cũng như những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình
sự, xã hội học pháp luật… trong các công trình của các nhà khoa học - luật gia ở
trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong một
số vụ án


5


hình sự mà thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá,
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận-thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái
niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS, nội dung và điều kiện áp dụng của những trường hợp quyết định

hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật
hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế
định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra,
ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo
đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến chế định quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của BLHS có gắn với thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội,
do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu
khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc
chuyên ngành Tư pháp hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm ba
chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của pháp luật hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Một số khái niệm của các nhà khoa học
Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế, nguyên Chánh Toà hình sự Toà án nhân dân Tối
cao, thì: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là trường hợp Toà án có
thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã

quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn" [17,tr.9].
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất là tuyên một hình phạt thấp hơn so với
mức thấp nhất của khung hình phạt quy định, nhưng không được thấp hơn mức thấp
nhất của loại hình phạt đó. Thay thế một hình phạt khác nhẹ hơn là thay thế loại hình
phạt được quy định đối với tội đó bằng một hình phạt nhẹ hơn không được quy định
trong điều luật đó [13].
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã
quy định nghĩa là quyết định một hình phạt thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt ở chế
tài của khung hình phạt tương ứng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật hoặc một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung trong trường hợp chỉ
có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung nhẹ nhất của điều luật.
Quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là quyết định
thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật hoặc khoản của điều luật đối với
tội đang xét xử bằng một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn không được quy định
trong điều luật hoặc khoản của điều luật đó [11].
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định, tức là
áp dụng hình phạt đó với mức thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều
luật quy định đối với tội phạm bị xét xử. Chuyển sang một hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn nghĩa là thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật về tội
phạm bị xét xử bằng một loại hình phạt khác nhẹ hơn không được quy định trong điều
luật [12].


7


Những định nghĩa trên đây mới chỉ dừng lại ở việc giải thích theo nội dung điều
luật (Điều 38 khoản 3 BLHS 1985, Điều 47 BLHS 1999) mà chưa có sự phân biệt
để trả lời cho những thắc mắc đã nêu trên. Lý giải cặn kẽ vấn đề này sẽ có cơ sở để
đưa ra những tiêu chí, căn cứ giải quyết vấn đề khi nào thì quyết định hình phạt nhẹ

hơn (và phải cùng loại hình phạt), khi nào được chuyển sang một loại hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Ví dụ bị cáo Phạm Văn A và Phạm Thị B bị xét xử về tội "Cố ý
làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" theo
khoản 1 điều 165 BLHS năm 1999, Toà án đã tuyên phạt A 9 tháng tù, B 6 tháng tù
và khẳng định đây là áp dụng điều 47 BLHS 1999 để quyết định hình phạt dưới mức
khởi điểm của khung hình phạt. Vậy trường hợp này áp dụng điều luật và cho rằng đã
quyết định hình phạt dưới mức khởi điểm của khung hình phạt đã đúng chưa?
Mức khởi điểm của khung 1 điều 165 BLHS năm 1999 là như thế nào, hình phạt
cải tạo không giam giữ hay hình phạt tù, hoặc mức thấp nhất của mỗi loại hình phạt
đều là mức khởi điểm của khung... Cả Điều 38 khoản 3 BLHS năm 1985, Điều 47
BLHS năm 1999 cũng như các định nghĩa nêu trên đều chưa làm rõ được vấn đề này,
vì thế cần thiết phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm đưa ra định nghĩa đúng đắn, bao quát
mọi trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS.
Căn cứ quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999 cho thấy quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS là việc Toà án có thể đưa ra một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định (nhưng phải trong khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn của điều luật nếu điều luật có từ hai khung trở lên) hoặc chuyển sang
một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, trừ trường hợp đối với người phạm tội lần đầu
là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Hiện nay có
quan điểm cho rằng khi Toà án áp dụng một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt đối với riêng loại hình phạt đó là đã quyết định một hình phạt nhẹ hơn
quy định của BLHS. Ví dụ khung có hai loại hình phạt là tù từ một năm đến năm năm
và cải tạo không giam giữ đến ba năm, nếu Toà án quyết định mức hình phạt sáu tháng
tù giam tức là bị cáo đã được vận dụng điều 47 BLHS năm 1999 để được hưởng quy
định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. Theo chúng tôi, quan điểm
trên chưa thuyết phục bởi vì điều 47 BLHS quy định: "thì Toà án có thể quyết định

8



một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung" tức là phải dưới tất cả các loại hình phạt
thấp nhất được quy định trong khung đó. Như ví dụ trên mức hình phạt sáu tháng
tù giam chưa phải là được áp dụng điều 47 BLHS 1999, vậy xếp nó vào loại nào? Có
thể quy định như hiện nay đã gây khó khăn cho việc hiểu và vận dụng điều luật trên
thực tế, còn gây tranh cãi và áp dụng khác nhau giữa các địa phương. Nếu điều luật
nói rõ là quyết định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung (tôi
xin nhấn mạnh là cùng loại) thì những khái niệm trên là đúng, còn nói chung một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung thì theo cách hiểu phổ thông nhất tức là phải bao
gồm dưới "trọn gói", dưới toàn bộ tất cả các loại hình phạt có trong khung đó. Tuy
nhiên hiện thời để có căn cứ pháp lý cho việc quyết định một mức hình phạt dưới
khung, cùng loại thì nên theo các khái niệm hiện nay. Một vấn đề là quy định như thế
nào thì có lợi cho bị cáo, đồng thời thể hiện sự minh bạch, rõ ràng của pháp luật, theo
tôi việc quyết định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung nên có quy
định riêng cho cụ thể hơn.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS mang đặc điểm của hoạt động
quyết định hình phạt nói chung và có một số đặc điểm riêng như:
- Chỉ có thể do một cơ quan tư pháp duy nhất thực hiện, đó là Toà án. Điều 102
Hiến pháp năm 2013 quy định: " Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp". Như vậy đây là quy định
xuất phát từ đạo luật gốc, Hiến pháp, có giá trị pháp lý cao nhất, không cơ quan nào có
thể làm thay Toà án trong hoạt động xét xử. Cụ thể hoá điều này, Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 2014 ngay tại Điều 2 đã nhắc lại quy định này và khẳng định: "Tòa án
nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết
các việc khác theo quy định của pháp luật". Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự
luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Điều 30 BLHS
2015 quy định: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,


9


pháp nhân thương mại đó". Các cơ quan hành chính chỉ có thể ra quyết định xử lý vi
phạm hành chính, quyết định kỷ luật mà không bao giờ được áp dụng hình phạt với
bất cứ cá nhân nào. Tóm lại, Toà án là cơ quan duy nhất được Hiến pháp quy định
chức năng xét xử các vụ án hình sự và quyết định áp dụng hình phạt đối với một cá
nhân bị kết án.
- Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cũng là thể hiện nguyên tắc
nhân đạo trong pháp luật hình sự. Khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định nguyên
tắc xử lý là: "Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác
đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra; Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát,
giáo dục". Các quy định tại Điều 3 nêu trên đã được quy định cụ thể thành các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 BLHS. Tinh thần của khoản 1 Điều 3 cũng
được ghi nhận tại một phần của Điều 54 BLHS. Theo quy định của BLHS, nếu người
lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù bao gồm các hình phạt như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ. Ngoài ra, việc Toà án cho người phạm tội được hưởng án treo cũng
được coi là nhẹ hơn hình phạt tù. Nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với
người phạm tội là cơ sở quy định các chế định, các quy định khác về quyết định hình
phạt như: căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50); quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS (Điều 54); án treo (Điều 65) [24].
- Hình phạt do Toà án quyết định đối với người bị kết án luôn luôn không nằm
trong khung hình phạt đối với hành vi phạm tội tương ứng, nó nằm ở khung hình phạt
nhẹ hơn. Theo quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999 thì nó nằm ở khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn.

- Phải tuân thủ những điều kiện nhất định theo quy định của BLHS.
- Phải được thể hiện bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
tuyên áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS đối với người bị kết
án.


10


Từ những phân tích trên có thể nêu khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của BLHS như sau: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là việc
Toà án áp dụng một mức hình phạt, theo cùng một loại hình phạt nhẹ hơn hoặc
chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn khung hình phạt đối với một tội
phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS mà bị cáo bị Toà án
đưa ra xét xử.
1.2. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự
1.2.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự
Nguyên tắc của luật hình sự là một trong những nội dung hợp thành quan trọng
của luật hình sự. Để hiểu được các nguyên tắc của luật hình sự, cần có hiểu biết chung
về nguyên tắc của pháp luật. Nguyên tắc theo cách hiểu của triết học, đó là "những tư
tưởng xuất phát điểm, có tính chủ đạo, định hướng, là quy tắc cơ bản của hành động".
Pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những người không giống
nhau trong thực tế, vì vậy trong những phạm vi chung đó làm thế nào để đưa ra được
một quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan trọng và đầy trách nhiệm của
những cơ quan và những người áp dụng pháp luật. Quyết định hình phạt là một trong
những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật
hình sự. Giai đoạn này chiếm một vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình
sự. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ chỉ Toà án mới có quyền quyết định hình phạt,

như phân tích ở trên theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự. Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước giao cho Toà án, nhân danh Nhà
nước quyết định áp dụng với người phạm tội. Toà án tuyên bố áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội, thể hiện sự lên án của nhà nước đối với họ về việc thực hiện tội
phạm là sự trừng trị người phạm tội. Quyết định hình phạt còn là một hoạt động pháp
lý tố tụng hình sự, hay nói cách khác là một dạng hoạt động của việc áp dụng pháp luật
hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội
phạm theo một trật tự pháp lý nhất định. Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một
trong những vấn đề quan trọng của chế định quyết định hình phạt, bởi vì việc quyết
định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào


11


việc nhận thức và áp dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn xét xử. Đây là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Ý nghĩa lý luận của chúng thể hiện ở chỗ: việc
làm sáng tỏ các nguyên tắc đó góp phần vào việc nhận thức được bản chất, nội
dung, nguồn gốc, ý nghĩa của chế định quyết định hình phạt, phân biệt chúng với các
căn cứ quyết định hình phạt, đưa ra những phương án tối ưu của việc thể hiện chúng
trong các quy phạm của luật hình sự. Còn về mặt thực tiễn, các nguyên tắc đó là
những tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam cho hoạt động của Toà án khi chọn và quyết
định loại và mức hình phạt đối với từng bị cáo trong từng vụ án cụ thể. Các nguyên
tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát, tư tưởng chỉ đạo được quy định
trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động
của Toà án khi áp dụng các chế tài luật hình sự đối với người phạm tội.
Quyết định hình phạt cần dựa vào những nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc cá thể hoá
hình phạt; Nguyên tắc công bằng (công minh). Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS cần tuân thủ những nguyên tắc cụ thể nêu trên, cụ thể như sau:

Một là, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Trong các nhà nước bóc lột, pháp
luật nói chung và nhất là pháp luật hình sự luôn luôn là công cụ để đàn áp giai cấp. Vì
vậy, nói đến luật hình sự lúc đó là nói đến những hình phạt nặng nề, hà khắc. Pháp luật
không chỉ trừng trị hành vi mà còn trừng trị cả quan điểm, cả suy nghĩ, "những ý nghĩ
tội lỗi". Hình phạt không chỉ áp dụng đối với người có hành vi mà cả đối với gia đình
họ, thân tộc của họ (tru di tam tộc). Một hành vi phạm tội có thể bị xử nhiều lần và
chịu nhiều hình phạt khác nhau. Sự man rợ đó được thực hiện bằng sự hợp thức hoá
trong luật và cả ngoài luật. Nguyên tắc pháp chế có những nội dung sau: Thứ nhất:
những gì có thể là cơ sở của trách nhiệm hình sự, của việc áp dụng hình phạt hoặc
miễn hình phạt cũng như của việc áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự với tính
cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đều phải do pháp luật hình sự quy định.
Điều 2 BLHS quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới
phải chịu trách nhiệm hình sự". Điều 8 quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS...". Nguyên tắc này đã được đề xướng trong các học
thuyết pháp lý cổ điển trước đây với những nội dung rất rõ ràng "Không có tội phạm

12


nếu luật không quy định". Luật được coi là nguồn duy nhất quy định tội phạm. Chỉ có
luật mới có thể quy định tội phạm và hình phạt - nội dung này còn có thể được hiểu là
sự đòi hỏi phải điều chỉnh tối đa và đầy đủ trong luật hình sự. Thứ hai: nguyên
tắc pháp chế trong luật hình sự đòi hỏi ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội
phạm trong những hành vi mà điều luật mô tả cần phải được làm rõ. Thứ ba:
nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự là việc từ bỏ áp dụng pháp luật tương tự. Chỉ
có luật mới có thể quy định tội phạm và hình phạt - điều đó có nghĩa là không thể áp
dụng tương tự về tội phạm và tương tự về hình phạt như trước năm 1985 khi
chưa có BLHS. Nhưng trong luật hình sự Việt Nam chúng ta có thể thấy một điểm
nổi bật đáng chú ý, đó là: chỉ có BLHS mới quy định tội phạm và hình phạt. Điều 8
BLHS Việt Nam quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định

trong BLHS..."
Hai là, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Hiến pháp năm 2013, tại Điều 2
khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân". "Nhà nước bảo đảm và
không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân" - Điều 3. Nội dung chính của nguyên
tắc nhân đạo trong luật hình sự là: - Một là, đối với người phạm tội, việc áp dụng hình
phạt, chỉ cần thiết đến mức cần và đủ cho việc đạt được mục đích cải tạo, giáo dục,
phòng ngừa. - Hai là, hình phạt và các biện pháp khác của trách nhiệm hình sự không
nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp phẩm giá con người. Để thực hiện
nguyên tắc nhân đạo, BLHS Việt Nam quy định một loạt các chế định làm cơ sở pháp
lý cho sự vận dụng của các cơ quan truy tố và xét xử. Có thể liệt kê một số quy định
và chế định như sau: - Quy định áp dụng hiệu lực trở về trước đối với những điều luật
quy định xoá bỏ một tội phạm....; không áp dụng hiệu lực trở về trước đối với những
điều luật quy định một tội phạm mới... - Quy định một loạt các hình phạt nhẹ bên
cạnh các hình phạt như tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. - Quy định các tình tiết
giảm nhẹ và khả năng bổ sung của Toà án cũng như khả năng xử phạt dưới mức
thấp nhất của


13


chế tài của Điều luật và khả năng chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn. - Các
chế định án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt...
Ba là, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt: Tại Điều 1 BLHS năm 1999 quy định:
"...Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội". Điều 2 khẳng
định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách

nhiệm hình sự". Điều 6 khi quy định hiệu lực của BLHS đối với những hành vi
phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều xác định
rõ các quy định đó áp dụng đối với công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài.
Điều 8 quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện...". Như vậy, theo luật
hình sự Việt Nam tội phạm chỉ có thể là hành vi của cá nhân mà không thể của tập
thể. Nguyên tắc đó có thể diễn đạt như sau: "Người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự bởi những gì do tự người đó gây ra". Nội dung của nguyên tắc này có các yếu
tố cơ bản là:
- Chủ thể của một hành vi phạm tội chỉ có thể là một thể nhân cụ thể, tức là một
cá nhân chứ không phải một tập thể hay một kiểu cộng đồng nào.
- Hình phạt, cũng như các hình thức trách nhiệm hình sự đều chỉ áp dụng đối với
cá nhân người đã gây ra hành vi phạm tội nhằm tác động trực tiếp vào ý thức của
người đó để đạt được mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa. Khi nói về
điều đó, lời nói đầu của BLHS khẳng định: "BLHS...thông qua hình phạt để răn đe,
giáo dục, cảm hoá, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện".
Bốn là, nguyên tắc công bằng: Trong luật hình sự, nguyên tắc công bằng phải
bao gồm tất cả các mức độ biểu hiện của luật hình sự. Điều đó có nghĩa là, sự tương
xứng giữa hành vi (mức độ và tính chất nguy hiểm) và trách nhiệm hình sự phải được
xác định trên ba mức độ: - Trên mức độ lập pháp hình sự, thông qua việc quy định tội
phạm (tội phạm hoá hoặc phi tội phạm hoá), nguyên tắc công bằng đòi hỏi pháp luật
hình sự phải phản ánh được đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân
trong đó có những quan điểm, quan niệm khác nhau về lẽ công bằng, về cách đánh giá
tội phạm và hình phạt trong dư luận. Đây là mức độ thuộc về thiết kế chính sách hình
sự và cơ sở nhận thức để xây dựng các chế định về tội phạm và hình phạt. Thực tế cho
thấy rằng trong nhận thức của các tầng lớp, chính giới, dân cư về cùng một loại hành


14



×