Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Bài giảng: Các vùng văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.27 KB, 39 trang )

Tên học phần:

CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Số tín chỉ: 02 (tiết lí thuyết, tiết thảo luận, tiết bài tập, thực hành)
Khoa phụ trách: Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN
Mã số học phần: 317245
Dạy cho các ngành: Cử nhân Văn hóa học, Cử nhân Việt Nam học, Cử nhân
Địa - Du lịch, Cử nhân Báo chí.
1. Mô tả học phần:
Các vùng văn hóa Việt Nam là một khoa học liên ngành: văn hóa học, khu vực
học, địa lí học, sử học, ngôn ngữ học, văn học. Trong đó lĩnh vực văn hóa học giữ vai
trò chính yếu. Học phần này cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về lí
thuyết vùng văn hóa, từ đó đi vào tìm hiểu từng vùng văn hóa cụ thể của Việt Nam.
Học phần này là học phần bắt buộc của ngành Văn hóa học, chuyên ngành liên quan
Du lịch và là học phần tự chọn đối với một số ngành học khác.
2. Điều kiện tiên quyết: Không
3. Mục tiêu môn học:
3.1. Mục tiêu chung:
Học xong môn học này, sinh viên có được:
* Về kiến thức:
Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về tính đa dạng - một đặc trưng
nổi trội của văn hóa Việt Nam, thông qua việc cung cấp kiến thức về các không gian
văn hóa, văn hóa vùng.
* Kĩ năng:
- Biết vận dụng lí thuyết vùng văn hóa để nghiên cứu các không gian văn hóa.
- Biết vận dụng kiến thức đã học vào trong lĩnh vực quản lí (như hoạch định
chiến lược bảo tồn và phát triển các vùng văn hóa), trong lĩnh vực du lịch (như xây
dựng tuyến điểm du lịch, hướng dẫn viên du lịch)
* Thái độ:
- Yêu thích môn học, ngành học.
- Có tình yêu đối với từng vùng miền, văn hóa từng khu vực của Việt Nam.


1


3.2. Mục tiêu khác:
- Góp phần lưu giữ giá trị truyền thống văn hóa của từng vùng miền
- Góp phần phát triển kĩ năng cộng tác, kĩ năng làm việc nhóm hiệu quả
- Góp phần trau dồi, phát triển năng lực đánh giá và tự đánh giá
- Góp phần phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo
4. Nội dung chi tiết môn học và hình thức dạy học:
4.1. Nội dung cụ thể:
Chương 1. Khái quát về lí thuyết vùng văn hóa (8 tiết)
1.1. Lược quan về khu vực học
1.2. Quan niệm vùng văn hóa
1.3. Các tiêu chí phân vùng văn hóa
1.4. Nghiên cứu bản sắc văn hóa vùng đối với việc phát triển văn hóa Việt Nam
Chương 2. Các vùng văn hóa Việt Nam (22 tiết)
2.1. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc
2.3. Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ
2.4. Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
2.5. Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam Trung Bộ
2.6. Vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên
2.7. Vùng văn hóa Nam Bộ
4.2. Hình thức tổ chức dạy học:
Số tiết
Tên chương


thuyết


Số
tiết
thực
hành

Số tiết

Số tiết

thảo

bài

luận

tập

Tài liệu tham khảo cần thiết

Tài liệu số [1] (từ tr. -> );

Chương 1. Khái quát

về lí thuyết vùng
văn hóa

6

Chương 2. Các vùng


10

0

2

0

Tài liệu số [2] (từ tr. -> );
Tài liệu số [3] (từ tr. -> );

0

12

0

2

Tài liệu số [1] (từ tr. -> );


văn hóa Việt Nam

Tài liệu số [2] (từ tr. -> );
Tài liệu số [4] (từ tr. -> );
Tài liệu số [5] (từ tr. -> );
Tài liệu số [6] (từ tr. -> );
Tài liệu số [7] (từ tr. -> )


5. Tài liệu tham khảo:
5.1. Tài liệu chính:
[1] Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb. Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
5.2. Tài liệu tham khảo:
[2] Huỳnh Công Bá (2009), Phân vùng văn hóa và đặc trưng văn hóa vùng ở
Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
[3] Trần Lê Bảo (2010), Khu vực học và nhập môn Việt Nam học, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
[4] Lê Bá Thảo (2002), Việt Nam - lãnh thổ và các vùng địa lí, Nxb. Thế giới,
Hà Nội.
[5] Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[6] Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[7] Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam - cái nhìn địa văn hóa, Nxb. Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
6. Phương pháp đánh giá học phần
Trọng số:
Chuyên cần:

0,1

Bài tập cá nhân:

0,1

Kiểm tra giữa học phần:

0,2


Thi kết thúc học phần

0,6

Cộng
Tính theo thang điểm:

1,0
A, B, C, D, F
Ngày
tháng
năm 2014
Trưởng nhóm giảng dạy

Duyệt của Khoa (hoặc bộ môn)

TS. Nguyễn Hoàng Thân
3


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LÝ THUYẾT VÙNG VĂN HÓA
1.1. Lược quan về khu vực học
1.1.1. Sự hình thành Khu vực học trên thế giới và Việt Nam
Khu vực học là bộ môn khoa học xuất hiện đầu tiên vào cuối thế kỉ XIX ở châu
Âu; trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai, nó phát triển mạnh mẽ thành một lĩnh
vực khoa học rồi lan rộng sang nhiều nước khác. Giải thích về nguồn gốc hình thành
bộ môn Khu vực học, có ý kiến cho rằng: thời kỳ này, các nước tư bản phương Tây
không ngừng mở rộng thị trường thuộc địa, để làm được điều đó, đòi hỏi các nước tư
bản châu Âu phải hiểu đúng vị thế của quốc gia mình và hiểu đúng tình hình các khu
vực cũng như các quốc gia trên thế giới. Những nghiên cứu cơ bản của Khu vực học

chính là cơ sở cho chiến lược xâm chiếm thị trường, tranh cướp thuộc địa hay chia sẻ
không gian sống của các nước đế quốc.
Từ mục đích thực tế trên, hàng loạt những nghiên cứu Khu vực học được các
nhà khoa học đến từ nhiều quốc gia trên thế giới dày công nghiên cứu như: Anh, Đức,
Pháp, Mĩ…
Ở Việt Nam, với tư cách một ngành khoa học, Khu vực học hình thành hết sức
muộn màng.
1.1.2. Khái niệm Khu vực học
Khu vực học là khoa học liên ngành, nghiên cứu một không gian địa lý – văn
hóa nhất định của một hoặc nhiều cộng đồng người, được phân bố trên bản đồ và được
xác định bởi tập hợp hệ thống các quan hệ đặc trưng. Trên cơ sở sự tương đồng về
môi trường sống, các cộng đồng cư dân ở đó từ lâu đã có quan hệ cội nguồn và lịch
sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã diễn ra sự
giao lưu văn hóa, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong
sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của các cộng đồng, có thể phân biệt
với các khu vực văn hóa khác.
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của Khu vực học
Đối tượng nghiên cứu của Khu vực học gồm:
- Địa lý tự nhiên
- Nhân chủng
- Sự hình thành và phát triển của các dân tộc trên thế giới.
- Ngôn ngữ
- Hoạt động kinh tế - Tổ chức chính trị
- Sinh hoạt văn hóa
4


- Quan hệ nội tại khu vực và quan hệ giữa các khu vực
- Các quan hệ khác
1.1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu của khu vực học

Nhiệm vụ nghiên cứu Khu vực học sẽ đi sâu vào các vấn đề sau:
- Trên cơ sở lý thuyết về địa lý – văn hóa, minh định khái niệm khu vực và khu
vực học, xác định mục đích nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu của ngành khoa học
này.
- Khảo sát quốc gia, một đơn vị cơ bản và tiêu biểu của Khu vực học, từ các
bình diện cấu trúc – chức năng, đồng thời đánh giá sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc
gia trong thời đại ngày nay.
- Khảo sát mối tương quan giữa dân tộc và quốc gia trong thời kỳ toàn cầu hóa,
đặc biệt xem xét vấn đề tiếp xúc văn hóa trong thời đại này.
- Tìm hiểu loại hình khu vực chính trị và so sánh phương Đông với phương
Tây.
1.1.5. Mục đích nghiên cứu của khu vực học
- Nghiên cứu toàn diện và hệ thống tất cả các đặc điểm của tự nhiên và đời
sống xã hội của con người, chủ thể trên vùng đất đó, nhằm đem lại nhận thức tổng thể
về một khu vực, để có thể phân biệt nó với khu vực khác.
- Nghiên cứu mối quan hệ của từng khu vực với các khu vực lân cận và toàn
thế giới. Điều này càng thấy đúng đắn và bức thiết trong thời đại toàn cầu hóa ngày
càng nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay.
- Góp phần xác lập cơ sở khoa hoc cho việc tổ chức không gian, quy hoạch
lãnh thổ, quản lý quốc gia dân tộc sao cho phù hợp và hài hòa với xu thế phát triển
chung của khu vực và thế giới.
- Đem lại nhận thức và hiểu biết ngày càng cao và cho thấy nghĩa vụ và trách
nhiệm của mỗi cộng đồng đối với việc bảo vệ ngôi nhà chung trái đất, nhằm phục vụ
cho sự phát triển bền vững và phồn vinh cho toàn khu vực cũng như toàn cầu.
- Tăng cường hợp tác và giao lưu quốc tế.
- Giúp cho việc mở rộng tầm mắt và cải tiến phương pháp nghiên cứu. Đặc biệt
là so sánh các loại hình khu vực, trong đó có so sánh các loại hình khu vực chính trị,
so sánh phương Đông với phương Tây.
1.1.6. Phương pháp nghiên cứu Khu vực học
Phương pháp luận nghiên cứu Khu vực học là xem xét đối tượng một cách toàn

diện từ các chuyên ngành phức hợp, đồng thời sử dụng thành thạo ngôn ngữ của khu
5


vực mình đang nghiên cứu, để làm sâu sắc thêm những lí giải với điểm nhìn so sánh,
nhờ đó có thể tiếp nhận đầy đủ các suy nghĩ mang tính lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
1.1.7. Mối quan hệ giữa Khu vực học và phân vùng văn hóa
Trong Khu vực học, các nhà khoa học có đề cập đến hai khái niệm phân vùng
kinh tế - xã hội và phân vùng văn hóa. Trong đó, phân vùng kinh tế - xã hội bao gồm
vùng kinh tế ngành và vùng kinh tế - xã hội.
Trong lý thuyết nghiên cứu Khu vực học, các nhà khoa học trên thế giới cũng
đã đề cập đến khái niệm vùng văn hóa, như một minh chứng cho mối quan hệ hữu cơ
giữa Khu vực học và phân vùng văn hóa. Vùng văn hóa theo lý thuyết Khu vực học là
một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống
ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về
trình độ phát triển kinh tế – xã hội, giữa các cộng đồng cư dân đã diễn ra những giao
lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung,
thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân
biệt với vùng văn hóa khác.
Tóm lại, là một bộ phận nhỏ thuộc Khu vực học, phân vùng văn hóa ngày càng
trở nên quan trọng trong việc nghiên cứu các vùng miền thuộc một quốc gia cụ thể
như Việt Nam. Những tri thức khái lược về Khu vực học trên đây phần nào giúp soi tỏ
việc nghiên cứu, nhận diện các vùng văn hóa Việt Nam.
1.2. Quan niệm vùng văn hóa
1.2.1. Khuynh hướng nghiên cứu vùng văn hóa trên thế giới
Vào nửa cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, bắt đầu hình thành những ý tưởng,
những lý thuyết và khuynh hướng nghiên cứu khác nhau nhằm nhận thức và lý giải
hiện tượng tương đồng văn hóa. Không chỉ làm rõ sự tương đồng, các nhà khoa học

cũng chỉ ra những khác biệt trong không gian văn hóa, lãnh thổ văn hóa, vùng văn
hóa… khiến cho lý thuyết vùng văn hóa ngày càng hoàn thiện.
Theo những nghiên cứu của PGS.TS Ngô Đức Thịnh thì hiện nay trên thế giới
tồn tại ba khuynh hướng và lý thuyết chính về vùng văn hóa, đó là: lý thuyết khuyếch
tán văn hóa ở Tây Âu, lý thuyết vùng văn hóa ở Mỹ và lý thuyết loại hình kinh tế văn hóa và khu vực văn hóa – lịch sử của các nhà khoa học Liên Xô cũ.
1.2.2. Nghiên cứu văn hóa vùng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, chúng ta có thể tìm thấy những ghi chép về những vùng đất cụ thể
với những đặc điểm về địa hình, khí hậu, cư dân, cảnh vật, phong tục tập quán… trong
6


những tác phấm “chí” hay “địa chí”, như An Nam chí lược của Lê Tắc, Dư địa chí của
Nguyễn Trãi, Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn…
Ở mức độ tổng hợp hơn, đó là các công trình địa chí văn hóa của các huyện,
làng xã, tiếp nối loại địa chí xưa của các nhà nho thời phong kiến. Trong các công
trình địa chí văn hóa này, đã có sự phối hợp nghiên cứu giữa các nhà khoa học ở trung
ương và các cấp chính quyền, trí thức địa phương. Các sách địa chí văn hóa đã được
xuất bản, như Địa chí văn hóa dân gian vùng Đất Tổ Vĩnh Phú (1986), Địa chí văn
hóa Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội (1990), các phần về văn hóa trong Địa chí Hà Bắc
(1982), Địa chí Long An (1989), Địa chí Đà Lạt (1988), Địa chí văn hóa thành phố
Hồ Chí Minh, Địa chí Gia Lai (1999)…
1.2.3. Quan niệm vùng văn hóa ở Việt Nam
Văn hóa vùng là một dạng thức văn hóa, mà ở đó trong một không gian địa lý
xác định, các cộng đồng người do cùng sống trong một môi trường tự nhiên nhất định,
trong những điều kiện phát triển xã hội tương đồng, và nhất là các mối quan hệ giao
lưu văn hóa sống động, nên trong quá trình lịch sử lâu dài đã hình thành những đặc
trưng văn hóa chung.
Những biểu hiện của văn hóa vùng mang tính đa vẻ thể hiện trên toàn bộ các
mặt của đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, tuy nhiên trong đó
đặc trưng hơn cả là lối sống, nếp sống của cư dân, như việc làm lụng, nếp ăn mặc, đi

lại giao tiếp, nếp vui chơi giải trí, phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng, lễ hội; các hoạt
động văn hóa – nghệ thuật, nhất là văn hóa nghệ thuật dân gian như văn học dân
gian, âm nhạc, dân ca, kiến trúc, trang trí dân gian và chừng mực nào đó còn thấy ở
phong cách và tâm lý của con người.
Trong mỗi một vùng văn hoá, lại có thể chia làm nhiều tiểu vùng văn hoá. Khái
niệm tiểu vùng văn hoá để chỉ những bộ phận hợp thành vùng văn hoá. Mỗi tiểu vùng
được xác định với những nét đặc thù bị chi phối bởi không gian địa lí, khí hậu và lịch
sử hình thành, phát triển của vùng. Việc phân loại tiểu vùng văn hoá hoàn toàn không
phá vỡ tính thống nhất của tổng thể một vùng văn hoá.
1.3. Các tiêu chí phân vùng văn hóa
1.3.1. Các phương án phân định vùng văn hóa ở Việt Nam
Những năm gần đây, việc sưu tầm nghiên cứu và biên soạn các công trình văn
hóa ở Việt Nam đã bắt đầu thể hiên xu hướng nhìn nhận văn hóa theo vùng. Tuy
nhiên, việc phân vùng văn hóa ở Việt Nam còn thiếu sự thống nhất trong giới nghiên
cứu. Hiện có bốn phương án khác nhau trong phân vùng văn hóa Việt Nam.
7


Phương án thứ nhất, Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (chủ biên) trong cuốn Các
vùng văn hóa Việt Nam, NXB văn học Hà Nội, 1995, chủ trương chia nước ta thành 9
vùng văn hóa.
Phương án thứ hai, Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn, trong Chấn hưng
các vùng và tiểu vùng văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995), xác định Việt Nam có 8 vùng văn hóa.
Phương án thứ ba, Ngô Đức Thịnh viết Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, lại chủ trương chia văn hóa Việt Nam
thành 7 vùng.
Phương án thứ tư, theo Trần Quốc Vượng (chủ biên) trong cuốn Cơ sở văn hóa
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997, văn hóa Việt Nam nên chia thành 6 vùng.
1.3.2. Tiêu chí phân vùng văn hóa

Mỗi phương án phân vùng văn hóa Việt Nam đều có một cơ sở lý luận riêng
cùng với việc vận dụng về hệ tiêu chí của vùng văn hóa.
Đối với mỗi vùng văn hóa, ta cần xem xét hai loại yếu tố: Một là yếu tố quyết
định, hai là yếu tố biểu hiện.
Yếu tố quyết định là những yếu tố về địa lý, điều kiện tự nhiên như địa hình,
sinh thái, khí hậu, những đặc điểm về tộc người của dân cư, những đặc điểm về quá
trình phát triển lịch sử - xã hội, lịch sử chính trị, lịch sử đấu tranh, trạng thái xã hội v.v
Yếu tố biểu hiện là lối sống, phong tục tập quán, nghệ thuật bao gồm âm nhạc,
hội họa, kiến trúc, điêu khắc, ca múa, sân khấu..., ngôn ngữ và văn hóa, sự giao lưu
văn hóa giữa nội và ngoại vùng, sự tương tác giữa văn hóa dân gian và văn hóa bác
học, vai trò tinh hoa của trung tâm và sự khuếch tán của nó đối với vùng, tạo nên sự
đồng nhất và sắc thái vượt trội của vùng v.v… Tất cả các yếu tố biểu hiện trên được
bộc lộ ra trong tính cách, tâm lý, nếp sống của cư dân địa phương.
Dựa vào những nét đặc trưng vừa phân tích ở trên, nhiều nhà nghiên cứu nước
ta chủ trương chia văn hóa Việt Nam thành 7 vùng văn hóa như sau:
- Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
- Vùng văn hóa Việt Bắc
- Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ
- Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
- Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam Trung Bộ
- Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên
- Vùng văn hóa Nam Bộ
8


1.4. Nghiên cứu bản sắc văn hóa vùng đối với việc phát triển văn hóa Việt
Nam
Bản sắc dân tộc hiện hữu khá rõ nét qua biểu hiện của văn hóa vùng. Vùng văn
hóa trước hết là nơi tụ cư của một tập hợp người có quan hệ nguồn gốc và lịch sử, đó
chính là văn hóa làng - hình thành ngay từ thời kì con người chuyển từ hình thức săn

bắt hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi, chuyển từ lối sống du canh du cư sang lối
sống định canh định cư.
Văn hóa vùng giữ vai trò là gạch nối giữa văn hóa làng và văn hóa quốc giadân tộc trên hai phương diện: kết nối sự rời rạc của các làng xã; giữ cân bằng cho mối
quan hệ giữa đa dạng và thống nhất văn hóa.
Vùng văn hóa còn là nơi gắn kết các tộc người anh em.
Nhìn chung, văn hóa vùng giữ vị trí, vai trò thứ hai trong quá trình tiếp biến,
tổng hợp văn hóa quốc gia – dân tộc. Kết quả là các dân tộc sinh sống trong vùng ít
nhiều cũng chịu sự tác động của văn hóa vùng. Người Kinh sống ở Tây Bắc chịu ảnh
hưởng của văn hóa vùng này với nhiều sắc thái của các dân tộc Thái, Mường. Cũng
như thế, các dân tộc phía Bắc di cư vào Tây Nguyên, ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng
của văn hóa Tây Nguyên, và do đó ít nhiều mang bản sắc văn hóa Ba Na, Ê đê, Gia
rai…
Ngày nay, một số hiện tượng văn hóa tại mỗi vùng có nguy cơ bị mai một, suy
tàn, việc tiếp tục nghiên cứu, đề ra phương hướng bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc của các hiện tượng văn hóa ấy chính là góp phần xây dựng nền văn
hóa Việt Nam ngày càng phát triển.
Câu hỏi ôn tập chương 1:
1) Những kiến thức về Khu vực học giúp ích gì trong việc nghiên cứu văn hóa
vùng ở Việt Nam?
2) Nêu quan niệm vùng văn hóa. Nêu các vùng văn hóa ở Việt Nam.
3) Trình bày các tiêu chí phân vùng văn hóa ở Việt Nam?
4) Trình bày khái niệm xứ. Nêu đặc trưng văn hóa của một xứ điển hình.
5) Phân tích vai trò của việc nghiên cứu các tiểu vùng văn hóa ?
CHƯƠNG 2: CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
2.1. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ bao gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hà Tây
(cũ), Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng
9



Ninh; phần đồng bằng của tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh
Bình.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung
lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 - 15m
giảm dần đến độ cao mặt biển.
Đặc biệt, Bắc Bộ là vùng duy nhất có mùa đông lạnh kéo dài ba tháng, khí hậu
phân hoá thành bốn mùa tương đối rõ nét. Đồng bằng Bắc Bộ có mạng lưới sông ngòi
khá dày, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng hệ
thống tưới tiêu dày đặc. Đất đai trong vùng tương đối màu mỡ, thích hợp cho nền
nông nghiệp lúa nước phát triển.
Dựa vào các thành tựu của Khảo cổ học, Nhân học, có thể thấy, cư dân nguyên
thuỷ sống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đương thời thuộc chủng tộc Nam Á (Việt Mường, Môn - Khơme). Những di chỉ được phát hiện chứng tỏ rằng, bấy giờ các
nhóm cùng sống với nhau hoặc sống gần gũi nhau đã có số lượng khá đông, cùng lấy
nghề nông trồng lúa nước làm nền kinh tế chủ yếu và cũng có ít nhiều những phong
tục, tập quán giống nhau.
Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp với sự hỗ trợ đắc lực của nghề luyện kim
đồng thau đã tạo nên cái nền cần thiết và cơ bản cho sự chuyển biến của xã hội từ
trạng thái nguyên thuỷ sang thời đại văn minh. Tuy nhiên, cũng cần thấy thêm rằng,
mặc dù còn nhiều hạn chế, bấy giờ đã có sự giao lưu, trao đổi sản phẩm giữa các
vùng, nhất là công cụ bằng đồng, các bát đĩa, bình gốm.
2.1.2. Đặc điểm về văn hóa
2.1.2.1. Ẩm thực
Giống như ở mọi vùng miền khác trên đất Việt, cơ cấu bữa ăn của cư dân Việt
trên châu thổ Bắc Bộ bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa
nước, bao gồm có cơm, rau, cá, thịt. Đặc biệt, ở đây các gia vị có tính chất chua, cay,
đắng không được ưa chuộng như ở vùng Trung Bộ và Nam Bộ.
Có người đã từng nói rằng Bắc Bộ là “nơi quần tụ văn hoá ẩm thực, văn hoá
vùng miền”. Không thể kể hết những món ăn Bắc Bộ vô cùng đa dạng và độc đáo, nào
là bánh cáy Thái Bình, bánh dứa Hưng Yên, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh phu thê

Bắc Ninh, bánh tôm Hà Nội, bánh nhãn Nam Định... Mỗi loại bánh mang những
hương vị khác nhau, đặc trưng cho mỗi miền quê.
2.1.2.2. Nhà ở
Nhà ở của cư dân Bắc Bộ thường sử dụng các vật liệu nhẹ, bền. Người nông
dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, to đẹp, tuy
10


nhiên vẫn hoà hợp với cảnh quan. Nhà thường có mái cong truyền thống, sau này, mái
nhà bình thường được làm thẳng cho giản tiện, chỉ có những công trình kiến trúc lớn
mới làm mái cong cầu kì.
Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam, vừa tránh được nóng từ phía Tây, bão phía
Đông và gió rét từ phía Bắc, lại vừa tận dụng được gió mát vào mùa nóng. Trong thời
kì phát triển nền kinh tế hàng hoá, khi chọn đất, người ta thường chọn những nơi gần
đường giao thông, thuận lợi cho đi lại, làm ăn, buôn bán.
Ngôi nhà Bắc Bộ phản ánh truyền thống văn hoá của vùng. Tính cộng đồng thể
hiện ở việc không chia phòng biệt lập, giữa hai nhà ngăn bằng rào cây thấp để dễ liên
hệ với nhau. Truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách thể hiện ở bàn thờ ở gian
giữa (phía trong là bàn thờ, phía ngoài là bàn ghế tiếp khách).
2.1.2.3. Trang phục
Cách ăn mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với
thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ.
Thời phong kiến, trang phục của phụ nữ Bắc Bộ là: váy đen, yếm trắng, áo tứ
thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần
lá tọa, áo cánh màu nâu sòng. Phụ nữ cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm.
Bộ lễ phục của phụ nữ gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là áo dài tứ thân bằng the
thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu
cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo
để lộ ba màu áo, bên trong chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và kín
đáo. Lễ phục của đàn ông là chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen.

2.1.2.4. Làng nghề
Đầu thế kỉ XX, nhà nghiên cứu Piere Gourou đã thống kê được 108 nghề thủ
công ở 7000 làng thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Ở đây có tới 500 làng nghề, tập
trung nhiều nhất ở Nam Định, Hà Tây (cũ), Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng
Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hà Nội. Đặc biệt, Thăng Long - Hà Nội là nơi hội tụ tài
hoa, thu hút những thợ cả, thợ giỏi từ mọi miền đến sinh cơ lập nghiệp.
Hà Nội có Ngũ Xã Tràng, nổi tiếng với nghề đúc đồng, do dân năm làng gốc ở
huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc lập nên từ thế kỉ XVII, là tác giả của những pho tượng
đồng vào loại quý giá nhất nước Nam. Hà Nội có làng gốm sứ Bát Tràng có lịch sử
500 năm, do những người thợ gốm tài ba từ Thanh Hoá ra gây dựng từ cuối thế kỷ
XV.
Từ Hà Nội ngược về phía Đông Bắc, ta đến với miền đất trù phú “bên kia sông
Đuống”, với làng tranh Đông Hồ. Tranh Đông Hồ, từ chất liệu đến đề tài, tư tưởng,
11


phong cách nghệ thuật đều rất dân gian và đậm đà màu sắc dân tộc. Đề tài tranh Đông
Hồ rất đỗi bình dị, phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày của người dân
quê Việt Nam, tiêu biểu là tranh “đánh ghen”, “hứng dừa”, “đám cưới chuột”.... Xuôi
về phía Nam, ta đến với các làng nghề lụa Hà Đông (Hà Tây), đũi Nam Cao (Thái
Bình)...
2.1.2.5. Văn hoá dân gian
Có thể nói Bắc Bộ là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá nghệ thuật của dân tộc
Việt đâm chồi, nảy lộc. Đúng như GS. Trần Quốc Vượng đã nhận xét: “Kho tàng văn
học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm”. Ca
dao, dân ca xứ Bắc không những ngọt ngào, đằm thắm mà còn thấm thía ân tình.
Ở đây, các thể loại thuộc nghệ thuật sân khấu dân gian cũng khá đa dạng và
mang sắc thái vùng đậm nét, bao gồm hát chèo, hát chầu văn, hát quan họ, múa rối...
Trong sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của vùng đồng bằng Bắc Bộ còn có hát ca trù. Hát
quan họ là điệu hát quen thuộc của người con xứ Kinh Bắc.

Múa rối nước là loại hình nghệ thuật sân khấu đặc sắc của riêng đồng bằng Bắc
Bộ. Ngay từ thời nhà Lý, rối nước đã được kết hợp với rối cạn một cách cực kỳ nhuần
nhuyễn và đạt đến độ tinh xảo trong diễn xuất.
2.1.2.6. Nền văn hoá bác học
Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS. Đinh Gia Khánh
còn là “nơi phát sinh nền văn hoá bác học”. Sự phát triển của giáo dục, truyền thống
trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp trí thức ở Bắc Bộ.
Chính sự phát triển của giáo dục tạo ra sự phát triển của văn hoá bác học. Hầu
hết các thơ phú (chủ yếu từ thế kỷ XV trở về trước) đều thấm đượm tình cảm yêu
nước, toát lên niềm tự hào dân tộc.
Bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán, lịch sử thời này còn chứng kiến sự
hình thành của văn học chữ Nôm
Xuất hiện những tài năng văn học viết như Đoàn Thị Điểm với bản dịch Chinh
phụ ngâm, Cung oán Ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ của
Bà Huyện Thanh Quan. Những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị Độ Mai, Quan
âm thị Kính, Phạm Công - Cúc Hoa - Phạm Tải - Ngọc Hoa, Hoàng Trừu, Thạch
Sanh v.v... là những tác phẩm có giá trị nhất, không chỉ với thời đại này mà ngay cả
với thời đại sau, ở thế kỉ XIX có tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục
Vân Tiên của nhà văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
2.1.2.7. Tín ngưỡng, lễ hội
12


Văn hoá tín ngưỡng ở vùng văn hoá Bắc Bộ là một hình thức văn hoá đặc thù
bao chứa nhiều nội dung như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, tín
ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ thành hoàng làng, tín ngưỡng thờ tổ nghề...
Ở đồng bằng Bắc Bộ, lễ hội rất phong phú, đa dạng… về thời gian, số lượng,
mật độ, nội dung... Theo thời gian, có thể chia lễ hội làm nhiều loại: lễ hội mùa xuân,
lễ hội mùa thu... Theo không gian địa lý, lễ hội được phân làm những dạng: lễ hội
làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia... Tuy vậy, dù vào thời gian nào hay ở địa phương

nào, lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ đều có đặc điểm chung là mang tính chất lễ hội
nông nghiệp. Điều này thể hiện rõ trong các hình thức lễ hội như thờ mẹ lúa, thờ thần
mặt trời, cầu mưa...
Lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ không chỉ là những nét phác thảo về văn hoá mà
còn mang đậm tính chất tín ngưỡng tôn giáo. Những lễ hội thường được đồng nhất với
lễ chùa chiền, miếu mạo. Trên mảnh đất thiêng này, ta có thể bắt gặp nhiều lễ hội
truyền thống: hội chùa Hương (Hà Tây), hội Đền Hùng (Phú Thọ), hội Gióng (Hà
Tây), hội Lim (Bắc Ninh)... những lễ hội ấy là kết quả của những tinh hoa văn hoá dân
tộc được kế thừa, chọn lọc, kết tinh và lắng đọng qua các thời kỳ lịch sử, là kết quả
của quá trình tiếp biến văn hoá.
2.1.2.8. Tiếp biến văn hoá
Quá trình tiếp biến văn hoá của vùng “diễn ra lâu dài hơn cả với nội dung
phong phú hơn cả” (GS. Đinh Gia Khánh). Phật giáo du nhập vào Bắc Bộ từ sớm và
do đó nhanh chóng được tiếp nhận một cách rộng rãi trong những thế kỉ đầu công
nguyên, rồi tiếp đó chiếm được vị trí quan trọng vào thời Lý, Trần.
Nho giáo, vào Bắc Bộ theo con đường quan phương cùng với sự thống trị và nô
dịch của các triều đại phong kiến phương Bắc. Vì vậy cho đến đầu thời độc lập, nó chỉ
dừng lại ở một bộ phận nào đó của tầng lớp thống trị, xa lạ với nhân dân.
Thời thuộc Pháp, đồng bằng Bắc Bộ cũng là một trong những vùng chịu ảnh
hưởng của văn hoá phương Tây đậm nét hơn cả. Tuy nhiên, người Bắc Bộ đã có sự
thâu hoá linh hoạt, chắt lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để biến thành nét đẹp riêng của
dân tộc mình.
Các hình thức nghệ thuật Bắc Bộ thời kỳ này xuất hiện nhiều thể loại mới:
trong văn học có Thơ mới; trong hội hoạ có tranh sơn dầu; sân khấu có ca nhạc (có
nhạc thính phòng, nhạc cổ điển), kịch...

13


2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc

2.2.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Đây là vùng núi non hiểm trở phía Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, thuộc về tả ngạn
sông Hồng, bao gồm địa bàn của các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Tuy nhiên, vùng văn hóa Việt Bắc lại có ranh giới
rộng hơn, nghĩa là nó bao gồm cả 6 tỉnh nói trên cộng thêm phần đồi núi của các tỉnh
Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và Quảng Ninh, cùng với vùng đất tả ngạn sông Thao
thuộc Lào Cai, Yên Bái.
Địa hình vùng Việt Bắc ít bị chia cắt như ở Tây Bắc, có cấu trúc theo kiểu cánh
cung, tụ lại ở Tam Đảo.
Cư dân Việt Bắc chủ yếu là người Tày và người Nùng, ngoài ra còn có một số
tộc ít người khác là người Dao, người H’mông, người Lô Lô, người Sán Chay…
Việt Bắc là vùng văn hóa cổ, nơi tìm thấy dấu vết con người cổ xưa, tại các
hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Bình Gia – Lạng Sơn) và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn),
là địa bàn của nền văn hóa Bắc Sơn, tiêu biểu cho giai đoạn sơ kỳ đồ đá mới và sự
phát triển cao của kỹ nghệ cuội ở Việt Nam và Đông Nam Á. Việt Bắc còn là địa bàn
gắn bó với sự nghiệp dựng nước và giữ nước hàng mấy nghìn năm của dân tộc ta, nó
là “phên dậu” của nước Đại Việt trong suốt thời trung đại, đồng thời cũng là cửa ngõ
giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc từ thời cổ đại cho đến ngày nay.
2.3.2. Đặc điểm về văn hóa
2.3.2.1. Văn hóa sản xuất
Văn hóa sản xuất của cư dân Việt Bắc được đặc trưng bởi nghề nông làm ruộng
nước ở vùng thung lũng và làm nương rẫy ở vùng núi.
Phong phú sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lại là đầu mối giao
thông, nên từ lâu đã hình thành nên các chợ, thị trấn, thị xã hoạt động buôn bán trao
đổi khá sầm uất, kết hợp với chợ thành kiểu phố chợ. Ở đây cũng hình thành hệ thống
bến sông, nơi qua lại trao đổi buôn bán bằng đường thủy, và một số trạm đảm bảo sự
giao thông, thông tin buôn bán.
Phố phường kết hợp với chợ, như chợ Đồng Đăng, Kỳ Lừa, Đồng Mỏ, Thất
Khê… hệ thống chợ dọc hai bên đường biên giới thu hút người mua kẻ bán tấp nập từ
các miền đất nước ta và Trung Quốc đổ về.

2.3.2.2. Ẩm thực
Cơ cấu bữa ăn, thức uống của cư dân Việt Bắc có những hương vị đặc sắc
riêng. Thành phần chính trong cơ cấu bữa ăn là gạo tẻ, song cư dân ở đây đã tiếp thu
14


kỹ thuật chế biến của các tộc người lân cận như Hoa, Việt… để tạo nên những món ăn
đặc sắc.
Cư dân Tày, Nùng chú ý nhiều tới kỹ thuật nấu nướng do tiếp thu được qua
người Hoa, người Việt cũng như truyền thống và khẩu vị lâu đời của dân tộc mình.
Bên cạnh những món đơn giản thường ngày, còn có nhiều món pha chế phức tạp, cầu
kỳ, những món hỗn hợp đòi hỏi pha chế từ nhiều nguồn thực phẩm và gia vị khác
nhau.
Nói chung, do điều kiện tự nhiên và cũng do sự tiếp xúc văn hóa với các tộc
người Hoa nên cư dân ở đây ưa dùng thịt mỡ, nhất là vào mùa rét, thích chế biến kiểu
xào, rán, quay, hầm, dùng nhiều gia vị cay, chua, ngọt, đắng.
2.3.2.3. Trang phục
Cư dân vùng Việt Bắc đặc biệt là cư dân Tày – Nùng có phong cách ăn mặc
tương đối thống nhất, phân biệt theo giới tính, lứa tuổi và nhóm địa phương. Trang
phục của nam giới Tày – Nùng khá giản dị, gồm áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn
đội đầu và giày vải. Quần may theo kiểu đũng chéo, cả quần áo đều may bằng vải
chàm, không trang trí hoa văn. Trang phục của nữ giới đa dạng, cầu kỳ hơn. Y phục
của phụ nữ Tày – Nùng gồm áo cánh, áo dài 5 thân, quần, thắt lưng, khăn đội đầu và
hài vải. Đồ trang sức cũng đơn giản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà tích bằng
bạc. Phụ nữ Nùng chỉ mặc một màu chàm còn phụ nữ tày mặc một chiếc áo bên trong
màu trắng. Chiếc khăn của phụ nữ Tày là khăn vuông, khi lễ tết họ buộc thêm chỉ đỏ,
chỉ xanh quanh vành khăn cho đẹp, còn người phụ nữ Nùng lại thích bịt răng vàng…
2.3.2.4. Nhà ở
Cũng như nhiều vùng núi khác ở nước ta, hình ảnh quen thuộc là những nếp
nhà sàn nằm trải dài ven thung lũng, nơi cư ngụ của người Tày, Nùng, Sán Chay. Với

những người Tày sinh sống ở phía Tây Lạng Sơn và Cao Bằng, ta còn thấy nếp nhà
sàn cổ truyền kiến trúc kiểu bốn mái, bằng các vật liệu tre, gỗ, lá, mặt bằng ngôi nhà
gần như hình vuông, có nét tương tự như ngôi nhà sàn của người Thái Trắng nhưng lại
khác biệt rõ rệt với ngôi nhà sàn, đầu hồi khum tròn của người Thái Đen.
Ở phía Đông, nơi người Nùng và một số người Tày cư trú, phổ biến kiểu nhà
sàn tường trình. Loại nhà này là nhà sàn hay nửa sàn nửa đất, kết cấu không chỉ có
khung cột mà còn có sườn tường trình. Tường trình bằng đất này, vừa giữ ấm căn nhà
vào mùa đông vừa có tác dụng phòng thủ, chống lại giặc và cướp vùng biên giới.
2.3.2.5. Tôn giáo, tín ngưỡng
Người Tày – Nùng ở Lạng Sơn có đời sống tôn giáo, tín ngưỡng thật đa dạng:
những ảnh hưởng của Tam giáo (Phật, Đạo, Nho) du nhập vào từ bên ngoài (từ Hán
15


xuống và cũng có cả từ Việt lên) hòa quyện với tín ngưỡng dân gian cũng không còn
thuần chất nữa mà biến dạng đi nhiều.
Người Tày – Nùng cũng có tín ngưỡng vạn vật hữu linh nên trong cuộc sống
họ thờ rất nhiều thần, ma mà họ vẫn gọi là “phi”. Trong các loại ma, có ma lành, ma
dữ chuyên làm hại, sử dụng các phép thuật, bùa ngải để trừ ma dữ, cúng bái để cầu ma
lành phù trợ. Các thầy Tào, Mo, Then vừa cúng bái vừa chữa bệnh bằng ma thuật, bói
toán kết hợp với các vị thuốc dân gian. Cư dân ở đây cũng theo tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên như người Kinh, thờ cúng thần thổ địa, thành hoàng.
Các đền miếu xây dựng ở nhiều nơi thờ các Tiên, Thần, Thánh như đền Bắc Lệ
thờ Cô Bé Thượng ngàn, đền Đồng Mỏ thờ Chầu Mười, đền Suối Ngang, Suối Lân
thờ vọng Mẫu Liễu Hạnh và các thánh trong hệ thống tín ngưỡng Tứ Phủ.
2.3.2.6. Lễ hội
Khi nói đến văn hóa vùng Việt Bắc trước hết phải nói đến lễ hội Lồng Tồng
cũng thường gọi là hội xuống đồng, đó là một lễ hội của đồng bào dân tộc Tày, cũng
là nét quy tụ những sắc thái văn hóa đặc trưng nhất của các dân tộc như: Nùng, Dao,
Sán Chỉ. Lễ hội được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hòa,

cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Lễ hội Lồng Tồng diễn ra tối
thiểu trong phạm vi một bản, còn thông thường được tổ chức với sự liên kết một số
bản gần gũi nhau, có khi mở rộng ra cả một vùng tới vài chục bản. Dự hội đông đảo
nhất là người Tày, người Nùng, nhưng trong hội luôn có nhiều người của các tộc láng
giềng tham gia, kể cả những người đồng tộc ở bên kia bên giới Việt – Trung và người
Việt ở miền xuôi lên tham dự.
Ngoài hội Lồng Tồng, ở Việt Bắc còn có hội Lượn Nàng Hai (lễ hội Mẹ Trăng)
được tổ chức ba năm một lần ở một số địa phương tại Lạng Sơn, Cao Bằng để bày tỏ
sự sùng bái nữ thần Trăng.
2.3.2.7. Nghệ thuật
Hát then và cây đàn tính là đặc trưng tiêu biểu của văn hóa người Tày ở vùng
Việt Bắc. Hát then là một cuộc diễn xướng trường ca. Các bản trường ca gồm nhiều
chương đoạn với độ dài ngắn và nội dung chi tiết khác nhau. Bản dài nhất đã sưu tầm
được dài tới 4.949 câu với 35 chương đoạn. Hát then là một hình thức diễn xướng
tổng hợp bao gồm cả ca nhạc, múa, diễn với nhiều tình huống khác nhau. Trong cuộc
lễ, ngoài nhiệm vụ thực hiện các nghi thức cúng Then hoặc Giàng, người hát then
đồng thời phải đảm nhiệm chức năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm,
vừa múa và diễn để thể hiện nội dung các câu hát. Hát then có nhiều làn điệu.
16


Sli, lượn là hình thức hát đối đáp, giao duyên giữa trai gái. Trong ba hình thức
lượn thì có một loại gọi là lượn Lạng Sơn, hai hình thức kia là lượn Cọi và lượn Khắp.
Sli của người Nùng cũng có những sắc thái riêng tùy theo mỗi ngành Nùng. Trong các
ngày hội, ngày cưới, ngày mừng nhà mới, thanh niên nam nữ thường hát sli, lượn.
2.3. Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ
2.3.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Đây là một vùng rộng lớn bao gồm các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên
Bái, Sơn La, Hòa Bình, phía Tây Nam tỉnh Phú Thọ, và phía Tây Thanh – Nghệ Tĩnh. Đây là vùng núi non trùng điệp thuộc hữu ngạn sông Hồng, cùng các dải núi cổ
và các cánh rừng già thuộc địa đầu của Trường Sơn Bắc.

Về mặt địa hình, vùng Tây Bắc được đặc trưng bởi những dãy núi cao và
những dòng sông lớn, chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn
dài đến 180km, rộng 30km, cao hơn 1500m trong đó có các đỉnh như Phan Xi Pang
cao 3142m, Yam Phình cao 3096m, Pu Luông cao 2938m. Các dãy núi cao bị chia cắt
mạnh bởi những nếp đứt gãy của kiến tạo địa chất tạo thành những thung lũng và các
con sông lớn chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam như hệ thống sông Đà, sông Mã,
sông Thao.
Khí hậu vùng Tây Bắc mang tính lục địa rõ nét. Tuy rằng cũng nằm trong vòng
đai khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do ở một độ cao từ 1800 – 3000m nên khí hậu
ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới.
Thiên nhiên, hệ thống thực vật ở Tây Bắc rất phong phú. Điển hình nhất vẫn là
loại rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trong đó nổi bật hơn cả là những rừng ban, những
rừng tre vầu ống lớn.
Vùng Tây Bắc tươi đẹp là nơi quần tụ khoảng 20 tộc người. Chỉ kể những tộc
người tương đối đông dân, đã có dân tộc Thái (với các ngành Đen, Trắng, Đỏ),
H’mông (với các ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa), Dao (với các ngành Quần Chẹt, Nga
Hoàng, Dao Đỏ), Mường, Khơ Mú, Xinh Mun, Tày…
Ngược dòng lịch sử, đến đầu công nguyên là ta có thể tìm thấy cơ tầng văn hóa
của cư dân vùng này rồi. Mỗi tộc người đều có những nét văn hóa riêng, có thể còn
được lưu truyền đến ngày nay hoặc ẩn hiện đằng sau những câu chuyện kể, những
truyền thuyết…
2.3.2. Đặc điểm về văn hóa
2.3.2.1. Văn hóa sản xuất
Căn cứ vào đặc điểm môi trường sinh thái nhân văn mà các nhà nghiên cứu đã
phân chia thành 3 dạng thức văn hóa tương ứng với 3 môi trường cảnh quan cơ bản:
17


- Văn hóa của các dân tộc cư trú ở vùng thung lũng lòng chảo thuộc nhóm ngôn
ngữ Tày – Thái và Việt – Mường như Thái, Mường, Lào, Lự, Tày, Nùng v.v…

- Văn hóa của các dân tộc cư trú ở các sườn núi thuộc rẻo giữa nói ngôn ngữ
Môn – Khơ me như Khơ Mú, Kháng, Xinh Mun, Mảng…
- Văn hóa của các dân tộc cư trú ở rẻo núi cao thuộc nhóm ngôn ngữ Mông –
Dao và Tạng – Miến như H’mông, Dao, Hà Nhì, Lô Lô, Cống, Si La v.v...
Cũng bởi sự phân bố này đã tạo nên những sắc thái khác nhau về phương thức
canh tác nông nghiệp của các dân tộc người ở đây, đó là làm ruộng nước ở thung lũng
và lòng chảo và nương rẫy ở sườn núi. Người Khơ Mú, La Ha, Kháng, Mảng, Xinh
Mun làm nương rẫy theo lối phát, cốt, đột, trỉa. Người H’mông ở núi cao thường phát
rừng làm nương và làm ruộng bậc thang. Người Thái ở vùng thung lũng làm nông
nghiệp ruộng nước, dựa vào hệ thống tưới tiêu, thủy lợi mà sản xuất. Văn hóa nông
nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng với hệ thống tưới tiêu khá hoàn chỉnh là mương,
phai, lái, lịn.
2.3.2.2. Ẩm thực
Các dân tộc Tây Bắc chủ yếu ăn cơm nếp, gạo nếp được đồ thành xôi ăn trong
bữa chính hàng ngày, được nấu thành cơm lam, thành cốm, xôi màu và các loại bánh
tét, bánh gio… Ngô được dùng để ăn lót dạ hay ăn chơi dưới dạng luộc, nướng hay
rang. Những lúc giáp hạt ngô được bung. Ở người H’mông và các dân tộc nói ngôn
ngữ Tạng – Miến, ngô được xay thành bột và đồ chín bằng chõ gọi là mèn mén.
Thức ăn của người vùng cao khá phong phú, đa dạng và độc đáo. Trong đó các
loại gia cầm, gia súc chủ yếu là để phục vụ việc cúng tế, tết nhất. Hằng ngày, họ
thường ăn những thức ăn săn bắt hoặc hái lượm được. Người La Hủ có tập quán bắt
ếch xanh vào đầu mùa mưa rồi phơi khô để ăn dần cả năm. Khi ăn thường nướng khô
hoặc nấu với canh hoa chuối rừng. Người La Hủ, Si La, Cống và Xá Phó rất thích ăn
các loại thịt chuột, sóc, chim sấy khô và đó cũng là lễ vật dùng để dâng cúng tổ tiên
của họ. Người Dao đặc biệt thích món thịt ướp chua như thịt chuột hoặc thịt lợn nhà.
2.3.2.3. Nhà ở
Một hình ảnh đẹp khi nhắc đến vùng Tây Bắc và dần trở thành biểu tượng của
vùng đất này, đó là ngôi nhà sàn. Nhà sàn vùng Tây Bắc có thể chia làm hai loại: loại
mái rùa có khau cút ở hai đầu hồi của người Thái Đen và loại 4 mái phẳng của người
Thái Trắng, người Mường, người Giáy, người Tày.

Nhà đất là loại hình nhà cửa truyền thống phổ biến của các cư dân vùng cao
như H’mông, Dao, Pa Dí, Si La… Bố cục mặt bằng ngôi nhà của người H’mông
tương đối thống nhất và mang đậm nét đặc trưng văn hóa của họ: ngôi nhà gồm ba
18


gian với một của chính giữa nhà, một cửa phụ ở đầu hồi, gian giữa là nơi thờ tổ tiên.
Nguyên vật liệu làm nhà của người H’mông đơn giản, ngoài gỗ là nguyên liệu
chính để dựng khung nhà ra, tùy từng nơi mà tường nhà của họ có thể bằng ván gỗ
ghép, liếp nứa hoặc tường trình; mái nhà có thể lợp bằng cỏ tranh hoặc bằng gỗ pơ
mu. Nét đơn sơ trong việc xây dựng nhà cửa của họ có lẽ mang tính chất chung của
các làng du canh du cư.
2.3.2.4. Trang phục
Nét đặc trưng trong trang phục giữa các dân tộc vùng cao và vùng thấp ở Tây
Bắc được thể hiện khá rõ qua bộ trang phục của nữ giới.
Nhìn chung, bộ y phục nữ giới của các dân tộc vùng thấp đơn giản về kiểu
dáng, trầm lắng về màu sắc và ít có trang trí hoa văn, ít dùng màu sắc sặc sỡ. Bộ y
phục của nữ giới Thái và Mường về cơ bản là như nhau, đều có chiếc váy trùm mắt cá
chân và áo ngắn, có khác là ở tiểu tiết.
Phần lớn phụ nữ các dân tộc vùng cao Tây Bắc đều mặc váy, riêng người Hà
Nhì và một số nhóm H’mông, một số nhóm Dao thì mặc quần. Bên cạnh váy thì phụ
nữ vùng cao cũng có nhiều loai quần khác nhau, như quần chẹt của người Dao Quần
Chẹt ở Hòa Bình, quần ống rộng của người Dao Đỏ ở Lào Cai và của người H’mông
Đen ở Lào Cai, Yên Bái v.v… So với váy thì quần của họ ít trang trí hoa văn hơn. Áo
của phụ nữ vùng cao cũng khá phong phú về kiểu dáng, được chú ý trang trí hoa văn
nhiều hơn váy và quần của họ. Cả người vùng thấp và vùng cao ở Tây Bắc đều có sở
thích đeo đồ trang sức.
2.3.2.5. Văn học dân gian
Điểm nổi bật trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc ở vùng thấp Tây Bắc
là sự phong phú về thể loại, đặc sắc và trữ tình về nội dung. Hầu hết các thể loại đều

có mặt trong văn học dân gian của họ như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca
đao, tục ngữ, hát đồng dao, câu đố…
Qua thống kê cho thấy chỉ riêng các tác phẩm văn học dân gian được ghi chép
lại bằng các loại chữ Thái cổ đã có khoảng 2000 tác phẩm. Từ lâu, văn học dân gian
của các cư dân vùng thấp ở Tây Bắc đã được biết đến qua các tác phẩm truyện thơ nổi
tiếng như Xống chụ xon xao, Khun Lú nàng ủa của người Thái hay Nàng Nga Hai Mối
của người Mường. Họ cũng là chủ thể của các áng sử thi Thái, Mường đồ sộ, tiêu biểu
cho sử thi của các dân tộc ở miền núi phía Bắc như Chương Han và Ẳm ệt luông của
người Thái, mo Đẻ đất, đẻ nước của người Mường… Có thể nói đặc thù của văn học
dân gian các dân tộc vùng thấp là các thể loại thơ dài.
19


Nét nổi trội trong văn học dân gian các dân tộc vùng cao Tây Bắc là ở sự
phong phú, đa dạng của kho tàng truyện cổ dân gian và thể loại hát dân ca. Người
vùng cao đặc biệt thích hát dân ca, nhiều người trong số họ cũng là các nghệ nhân tài
ba có thể xuất khẩu thành chương. Dân ca của người H’mông được biết đến qua hệ
thống các bài hát Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát tình yêu, Tiếng hát
cưới xin, Tiếng hát cúng ma.
2.3.2.6. Nghệ thuật
Nét nổi trội trong nghệ thuật biểu diễn của các dân tộc vùng thấp là xòe Thái và
cồng chiêng của người Mường.
Người H’mông nổi tiếng với các điệu múa khèn, đá chân hùng dũng của nam
giới. Người Khơ Mú, Xinh Mun lại có điệu múa lắc hông, lượn eo đặc trưng. Còn điệu
tăng bu (dỗ ống) lại là điệu múa của dân tộc La Ha. Người Mường thì có điệu múa
bông đặc sắc.
Đi liền với những điệu múa này là những loại hình nhạc cụ cũng rất đặc biệt
của vùng Tây Bắc. Đó là hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng hay bằng bạc,
tiêu biểu như Pí pạp, khèn bè (Thái), sáo, khèn (H’mông), tính tẩu (Thái), Ô ống ôi
(Mường), Hưn mạy (Khơ Mú), đàn tròn (Hà Nhì)… Những nhạc cụ này đã tạo nên

một âm thanh du dương trầm bổng như núi rừng Tây Bắc trùng điệp vậy.
Hội cồng chiêng là nét đặc sắc trong sinh hoạt văn hóa của người Mường gắn
với lễ sắc bùa.
2.3.2.7. Tín ngưỡng, tôn giáo
Trong đời sống văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của các dân tộc Tây Bắc còn
mang đạm yếu tố bản địa và ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố du nhập. Tuy một số dân
tộc có ảnh hưởng các yếu tố của Đạo giáo nhưng không phổ biến. Chẳng hạn, ở tầng
lớp quý tộc người Thái thì là quan niệm về thứ bậc của điện thờ, còn ở người Dao thì
chủ yếu thể hiện qua một số nghi lễ như cấp sắc.
Người Mường quan niệm vũ trụ ba tầng: tầng giữa là mường pưa – mường
bằng phẳng, nơi ở của người trần gian, tầng trên cao là mường trời, nơi ở của vua trời
và các vị thần giúp việc, tầng thấp nhất ở dưới mường pưa gồm thế giới dưới đất và
dưới nước, cùng với hai tầng kia tạo thành bốn thế giới.
Cũng như vậy các dân tộc đều có quan niệm chung về vía, về các ma lành, ma
dữ. Từ các dân tộc ở vùng thấp như người Thái, người Mường đến các dân tộc ở vùng
cao như H’mông, Dao, Phù Lá, Si La, Hà Nhì… đều có quan niệm cho rằng muôn loài
sống được là nhờ có vía tồn tại. Con người ta có nhiều vía, mỗi bộ phận trên cơ thể
20


đều có vía ngự trị, vía của bộ phận nào lạc thì bộ phận đó sẽ đau yếu nên phải mời
thầy làm lễ cũng gọi vía về với chủ.
2.3.2.8. Lễ hội
Các dân tộc cư trú ở vùng cao cũng có những lễ hội mang đặc điểm riêng. Nét
đặc trưng trong lễ hội của các dân tộc vùng cao như H’mông, Dao là thường được tổ
chức trong phạm vi gia đình hoặc dòng họ nhưng có sự tham gia và ủng hộ của cộng
đồng. Người H’mông có lễ hội gàu tào được tổ chức trong phạm vi gia đình với ý
nghĩa cầu sức khỏe, cầu phúc, cầu may. Người dao có tết nhảy tổ chức vào mồng một,
mồng hai do một dòng họ đứng ra tổ chức. Một số dân tộc khác còn có các lễ hội cầu
mùa khá điển hình. Chẳng hạn, người Khơ Mú có lễ hội cầu mưa, bằng những ma

thuật như giá kéo đuôi con thuống luồng để cầu mưa. Người Xinh Mun có lễ hội ca
sai sa típ tổ chức vào mùa măng mọc. Trong các lễ hội của họ thường có nhảy múa,
đùa vui xung quanh cây vũ trụ được hiểu là cây lộc, cây mơ ước.
2.4. Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
2.4.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ là địa bàn thuộc đồng bằng và duyên
hải các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên
Huế. Có thể phân vùng văn hóa này thành các tiểu vùng: tiểu vùng văn hóa xứ Thanh,
tiểu vùng văn hóa Xứ Nghệ và tiểu vùng văn hóa Bình – Trị Thiên.
Về mặt địa hình, đây là rẻo đồng bằng hẹp, nằm kẹp giữa Biển Đông ở phía
Đông và dãy Trường Sơn ở phía Tây.
Khu vực Bắc Trung Bộ vào mùa đông, do gió mùa thổi theo hướng Đông Bắc
mang theo hơi nước từ biển vào nên toàn khu vực chịu ảnh hưởng của thời tiết lạnh
kèm theo mưa. Đến mùa hè, không còn hơi nước từ biển vào nhưng có thêm gió mùa
Tây Nam (còn gọi là gió Lào) thổi ngược lên, gây thời tiết khô nóng.
Bắc Trung Bộ là vùng đất lịch sử văn hóa lâu đời, đặc biệt là xứ Thanh và xứ
Nghệ.
Sau khi nhà nước Âu Lạc sụp đổ, nước ta rơi vào ách thống trị, đô hộ của các
vương triều phong kiến phương Bắc, thì vùng xứ Thanh và xứ Nghệ thuộc Cửu Chân,
vùng Bình - Trị - Thiên thuộc quận Nhật Nam.
Năm 192 sau CN, người Chăm đã đánh đuổi phong kiến Trung Quốc ra khỏi
Nhật Nam và dựng nước Chămpa độc lập từ Đèo Ngang vào đến Thuận Hải (Trong
gần 12 thế kỉ, Bình - Trị - Thiên thuộc vùng đất địa đầu của vương quốc Chămpa về
phía Bắc).
21


Năm 1306, sau đám cưới của Công chúa Huyền Trân (nhà Trần) với vua Chăm
(Chế Mân), vùng đất Châu Ô, Châu Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên) sát nhập vào Đại
Việt. Hai Châu Ô, Lý trở thành trấn Thuận Hóa.

Thế kỉ XVII, đặc biệt là năm 1687, vương triều Nguyễn cát cứ ở Đàng Trong
lấy Huế - Phú Xuân là trung tâm, làm bàn đạp vươn mạnh vào miền Ngũ Quảng và
Gia Định để khai hoang sinh cơ lập nghiệp. Năm 1788, Nguyễn Huệ làm lễ đăng
quang tại Phú Xuân trước khi xuất quân đi đánh giặc Thanh, giải phóng đất nước,
thống nhất hai miền Nam Bắc.
Những bối cảnh lịch sử nêu trên có ảnh hưởng quyết định đối với các sắc thái
văn hóa độc đáo của vùng văn hóa đồng bằng và duyên hải Bắc Trung Bộ.
2.4.2. Đặc điểm về văn hóa
2.4.2.1. Ẩm thực
Bắc Trung Bộ phần lớn là những dải đất hẹp ven biển, lượng thủy hải sản
phong phú, vừa có cá sông, vừa có cá biển, cá ăn quanh năm. Nơi đây nổi bật lên
phong vị ẩm thực rất riêng, rất độc đáo của hai vùng đất: xứ Nghệ và xứ Huế.
Là một vùng quê nghèo, xứ Nghệ vẫn được cho là chuộng sự thực dụng, ăn
chắc mặc bền. Người xứ Nghệ không chuộng sự cầu kỳ, chế biến công phu mà chỉ
thích những món ăn thô sơ, mộc mạc.
Huế được nhiều người biết đến bởi sự phong phú và đa dạng trong văn hóa ẩm
thực. Các món ăn xứ Huế là một sự kết hợp hài hòa đến mức tài tình những món ăn
của người Chăm với món ăn của người Việt, người Mường cổ.
Địa điểm thưởng thức ẩm thực Huế cũng rất phong phú. Người Huế có thể tổ
chức ăn ở trong nhà, ăn ở ngoài vườn, ăn trên đò, ăn trên đầm, phá, ăn ngoài biển, ăn
trong chùa, ăn giữa lăng. Cho dù ăn ở không gian như thế nào thì vẫn luôn toát lên nét
tinh tế nhân văn của con người.
2.4.2.2. Trang phục
Nổi bật nhất trong trang phục của cư dân vùng này là cách ăn mặc của người
Huế. Nói tới phong cách riêng của Huế trong trang phục người ta thướng nhắc tới
những nét đặc trưng thể hiện qua chiếc áo dài Huế, nón bài thơ, chiếc áo nối choàng
gốc gác từ các cô gái lái đò trên dòng Hương Giang, thể hiện qua màu sắc Huế và
phục sức Huế.
Phụ nữ Huế chăm chút mái tóc và cách thức chải tóc cũng là một dấu hiệu về
từng lớp người. Các em nhỏ tóc để xõa bờ vai, các em nữ sinh thì tóc kẹp gọn để thả

xuôi xuống lưng màu áo tím. Khi đã có chồng con, các bà các cô chải ngược tóc lên
22


rồi búi gọn sau gáy. Hương ướp tóc từ nước gội, nhưng cũng có khi trên mái tóc kín
đáo cài thêm bông hoa lý.
2.4.2.3. Gia phong xứ Nghệ
Khi bàn đến phong cách người xứ Nghệ, một số người nhận xét, trong một con
người xứ Nghệ có ba nhân vật: một kẻ bình dân khố chạc (tiếng địa phương là khố
dây, chỉ hạng người cùng cực), một người chữ nghĩa văn chương, một chiến sĩ cách
mạng. Cả ba nhân vật đều có cái riêng về chất lý tưởng trong tâm hồn. Dù là nhân vật
như thế nào thì họ đều có chung đặc điểm là lòng trung kiên, sự vượt khó để đi lên, sự
cứng cỏi trong hoạn nạn. Những đặc điểm ấy đã thôi thúc người dân xứ Nghệ vượt lên
số phận, chính vì thế mà nơi đây có nhiều người thành đạt. Con người xứ Nghệ luôn
biết cách đối nhân xử thế, làm đúng bổn phận của mình đối với gia đình, họ tộc.
Nhưng điều mà nhiều người thán phục là tính cộng đồng của người dân xứ Nghệ rất
cao.
2.4.2.4. Tín ngưỡng, tôn giáo
Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân vùng duyên hải Bắc Trung Bộ khá đa
dạng, phong phú. Bên cạnh việc thờ Phật, Đạo, Nho, Ki tô giáo và các tín ngưỡng dân
gian khác như nhiều làng quê ở Bắc Bộ thì tùy địa phương, ta thấy nổi lên một số hiện
tượng tín ngưỡng sau.
Người Thanh Hóa coi trọng việc thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Đạo Đông
và thần Độc Cước.
So với xứ Thanh, xứ Nghệ bộc lộ rõ nét văn hóa duyên hải hơn, cũng chính vì
lẽ đó, tín ngưỡng Tứ vị Thánh nương ở xứ Nghệ trở nên nổi trội và có sức lan tỏa rộng
ra các nơi khác dọc biển từ Bắc tới Nam. Đền Cờn là trung tâm thờ tứ vị thánh nương,
ngoài ra còn có 30 làng khác ở Quỳnh Lưu thờ vị thần này. Nhiều nơi ở ven biển Bắc
Bộ thờ Tứ vị thánh nương dưới dạng thờ Tống Hậu, Thiên Hậu.
Đến Huế, ta như đắm chìm trong không gian văn hóa Phật giáo đậm chất thanh

tịnh, chất ấy đến từ cảnh sắc thiên nhiên và con người hiền hậu xứ Huế.
2.4.2.5. Lễ hội
Cũng giống bao vùng miền khác, nơi đây hội tụ nhiều lễ hội dân gian đặc sắc,
trải dài từ Thanh – Nghệ - Tĩnh đến Bình – Trị - Thiên, nhưng nổi bật nhất vẫn là lễ
hội và trò diễn ở Thanh Hóa.
Hội làng ở Thanh Hóa ngoài các nghi thức cúng bái, rước tế mang tính linh
thiêng, các trò diễn đóng vai trò rất quan trọng trong hội làng, có thể kể tên các trò
sau: trò Tiên cuội, trò Trống mõ, trò Bắt cọp, trò Hùm, trò Lào, trò Xiêm, trò Tú
Huần, trò Lăng Ba Khúc và nhất là hệ thống trò Xuân Phả, một đỉnh cao của diễn
23


xướng dân gian Việt Nam gồm trò Hoa Lang, múa Chiêm Thành, múa Lục Hồn
Nhung, múa Ải Lao, trò Ngô Quốc.
2.4.2.6. Nghệ thuật
Xứ Thanh thật sự đã trở thành một vùng phong phú về các làn điệu dân ca với
điệu hát cửa đình Thanh Hóa, còn gọi là hát Nhà Trò, một dị bản của hát ả đào (ca trù)
ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, hát Trống quân, hát Ghẹo (hát Huê tình), chèo chải
Thiệu Hóa, chèo chải Hoằng Hóa, hát khúc Tĩnh Gia và nổi tiếng nhất là hò sông Mã.
Xứ Nghệ là xứ sở của nền văn hóa dân gian đặc sắc với những điệu hò, hát ả
đào Cổ Đạm, hát giặm Hà Tĩnh, hát ví Nghệ Tĩnh. Hát giặm không phổ biến khắp xứ
nghệ mà chỉ thịnh hành ở một số địa phương như Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên,
Kỳ Anh với hai hình thức hát giặm nam nữ và hát giặm vè. Còn hát ví thì phổ biến ở
nhiều nơi trong xứ Nghệ. Hát ví gắn liền với các phường nghề.
Có nhiều người nói rằng đến Huế mà không được nghe ca Huế thì cũng có
nghĩa là chưa đến Huế. Đi liền với ca Huế là dàn nhạc Huế với bộ ngũ tuyệt: đàn
tranh, đàn tỳ, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tam xen với đàn bầu, sáo và bộ gõ trống Huế,
sanh loan, sanh tiền. Kỹ thuật đàn và hát ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng lại mang đậm
sắc thái địa phương nên gần gũi với điệu hò Huế hay lý Huế. Ca Huế là chiếc cầu nối
giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian.

Huế còn nổi tiếng bởi nhã nhạc cung đình mà đến nay đã được tổ chức
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
2.4.2.7. Văn học
Nổi tiếng là vùng đất học, đất “nhiều chữ”, văn học dân gian và văn học bác
học xứ Nghệ được đánh giá là rất phong phú, đa dạng. Xứ Nghệ lưu giữ kho tàng văn
hóa dân gian với các hình thức và thể loại như truyện cổ, thần thoại, truyền thuyết, ca
dao, dân ca, vè, thành ngữ, tục ngữ, truyện ngụ ngôn, truyện trạng…
Truyền thống văn học bác học của xứ Nghệ cũng thật phong phú. Các nhà nho
xứ Nghệ ở các thời đại đều đóng góp những tác phẩm có giá trị gắn với tên tuổi những
con người như Hồ Tông Thốc, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Phan
Bội Châu… Ngoài ra, xứ Nghệ cũng nổi tiếng là đất được nhiều trí thức quan tâm, thể
hiện qua các tác phẩm loại ký sự, nhân vật chí, xã chí, huyện chí, tỉnh chí, di tích
thắng cảnh, các sưu tập, chuyên khảo…

24


2.5. Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam Trung Bộ
2.5.1. Đặc điểm về tự nhiên, lịch sử và cư dân
Vùng văn hóa Trung và Nam Trung Bộ là địa bàn thuộc đồng bằng các tỉnh,
thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận và Bình Thuận.
Trung Trung Bộ hội tụ các loại địa hình rừng núi, đồng bằng, biển đan cài vào
nhau. Rừng núi chiếm diện tích khá lớn, nhiều nơi núi còn nhô ra sát biển, bao lấy cả
ba mặt đồng bằng.
Về phương diện địa hình, các tỉnh thuộc Nam Trung Bộ là chuỗi các đồng bằng
nhỏ hẹp nối tiếp nhau, nằm kẹp giữa một bên là các cồn cát ven biển phía Đông Nam
và đồi núi ở phía Bắc và Tây Bắc của sơn nguyên Lâm Đồng và Đồng Nai. Ở Ninh
Thuận, Bình Thuận, nếu dừng ở đồng bằng, ta có cảm giác núi non bao bọc xung
quanh, dạng như đồng bằng lòng chảo, ba mặt là núi, duy nhất một mặt phía Đông

Nam là biển. Địa hình núi non kể trên vừa che chắn gió mùa Đông Bắc và Tây Nam,
góp phần tạo nên khí hậu khô hạn vùng này.
Hệ thống sông ngòi cực Nam Trung Bộ đều bắt nguồn từ hệ thống núi non ở
sơn nguyên Lâm Đồng chảy xuôi về lòng chảo đồng bằng ven biển, như sông Dinh,
sông Pha, sông Cái, sông Ma Lâm, sông Quao… Sông chảy ngoằn nghoèo, độ dốc
không lớn, phù sa nghèo lắng đọng trong lòng chảo, ít đổ ra biển nên độ bồi phủ của
các con sông ở đây thường thấp.
Một kiểu cảnh quan đồng bằng được tạo nên chủ yếu bằng cát biển, cùng với
nó là kiểu khí hậu khắc nghiệt càng làm tăng thêm tính chất khô hạn của vùng này.
Về mặt lịch sử, đây là vùng đất giao thoa giữa văn hóa Đông Sơn và văn hóa
Sa Huỳnh, giữa Sa Huỳnh với Chăm cổ, cùng như giữa Chămpa với Đại Việt.
Với những hiểu biết hiện nay, các nhà khảo cổ học đã có thể nói tới những dấu
hiệu đầu tiên của con người ở vùng đất này từ thời đá cũ, với di chỉ Gò Trá (Quảng
Ngãi), tương đương với niên đại của văn hóa Núi Đọ (Thanh Hóa) hay Hang Gòn, Gia
Tân (Đồng Nai). Tuy nhiên, phải tới hậu kỳ đá mới và sơ kỳ đồ đồng với các di tích
văn hóa Sa Huỳnh thì dấu tích con người ở vùng này mới thực sự trở nên phổ biến.
Giới nghiên cứu đã nói nhiều tới chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh là cư dân nói
ngôn ngữ Nam Đảo, họ sinh sống ở ven biển nước ta vào thời kì kim khí.
Quá trình Nam tiến của người Việt bắt đầu từ thời Nhà Lý đã thực sự tác động
tới quá trình lịch sử, bức tranh di cư và quá trình văn hóa của miền Trung. So với
những người di dân vào Nam Bộ, phương thức di dân của người Việt vào miền Trung,
có nhiều nét đặc thù.
25


×