Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Pháp luật đại cương slide thầy trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 46 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
(NĂM HỌC 2017 – 2018)
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC & PHÁP LUẬT
I. Một số vấn đề cơ bản về Nhà nước
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc của Nhà nước
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định hai nội dung rất cơ bản về nguồn gốc Nhà
nước:
Một là, Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người.
Khi sự vận động và phát triển kinh tế - xã hội đã đạt đến một trình độ nhất định. Do vậy, trong xã hội
cộng sản nguyên thủy chưa có tổ chức Nhà nước nhưng chính sự vận động và phát triển mọi mặt của
đời sống xã hội vào giai đoạn cuối của chế độ cộng sản nguyên thủy làm cho chế độ xã hội này không
còn phù hợp với sự vận động đó nên Nhà nước ra đời. Nói cách khác, Nhà nước xuất hiện trực tiếp ngay
sau khi chế độ công sản nguyên thủy ta rã. Bởi lúc này, nền kinh tế đã xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội
có sự phân chia thành các giai cấp đối kháng và mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng khốc liệt không
thể tự điều hòa được.
Hai là, Nhà nước không phải là những hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước là một
phạm trù lịch sử có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã
hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến
một trình độ nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó mất đi.
1.1 Quá trın
̀ h hın
̀ h thành nhà nước theo quan điể m Mác-Lênin
a. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ và tổ chức thị tộc, bộ lạc
* Cơ sở kinh tế thời kỳ cộng sản nguyên thủy
Thị tộc là đơn vị tụ đầu tiên của loài người, đồng thời là tổ chức lao động và sản xuất, một đơn vị
kinh tế và là tế bào của xã hội cộng sản nguyên thủy. Sự ra đời của thị tộc mở ra một bước ngoặc mới,
kỷ nguyên mới cho sự phát triển của loài người; qua đó cho phép khẳng định rằng, con người đã bắt đầu
từ bỏ lối sống thuần túy hoang dã, bầy đàn với những mối quan hệ lỏng lẻo để bước vào giai đoạn có
tính tổ chức cao và quy cũ hơn trong đời sống kinh tế - xã hội. Về mặt khách quan: công cụ lao động
quá thô sơ (thời kỳ đồ đá), đơn giản và hoàn toàn phụ thuộc vào những gì có sẵn trong tự nhiên.


Cơ sở xã hội thời kỳ cộng sản nguyên thủy: Tế bào của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc.
Thị tộc được tổ chức theo huyết thống, nền tảng vật chất là kinh tế tập thể và quyền sở hữu công cộng.
Ở gia đoạn đầu, do những điều kiện về kinh tế - xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của
người phụ nữ nên các thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Dần dần, sự phát triển của nền kinh tế xã hội đã tác động làm thay đổi quan hệ trong hôn nhân, địa vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay
đổi. người đàn ông giữ vai trò chủ đạo trong đời sống thị tộc và chế độ mẫu hệ đã chuyển thành chế độ
phụ hệ. Ở thời kỳ này đã có sự phân công lao động nhưng mới là sự phân công lao động tự nhiên giữa
đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để thực hiện các loại công việc khác nhau chứ chưa mang
tính chất xã hội (phân công lao động theo lứa tuổi và giới tính).
* Quyền lực xã hội và tổ chức quản lý xã hội
Quyền lực thị tộc: Trong xã hội CSNT đã có quyền lực nhưng đó là thứ quyền lực xã hội được tổ
chức và thực hiện dựa trên cơ sở của những nguyên tắc dân chủ thực sự. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ
chức ra và phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng được thực hiện thông qua thiết chế tự quản của người dân
với các cơ quan quản lý gồm có Hội đồng thị tộc, Tù trưởng và các thủ lĩnh quân sự. Nói cách khác,
1


quyền lực thị tộc được xác lập để duy trì trật tự xã hội, nó chưa tách ra khỏi xã hội mà vẫn gắn liền với
xã hội, hòa nhập với xã hội; nó chưa được bảo đảm bằng một bộ máy hay hệ thống chuyên biệt thực
hiện sự cưỡng chế, quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra và phục vụ lợi ích của cả cộng đồng - quyền
lực xã hội.
* Tổchức quản lý xã hội Hội đồng thị tộc: là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, trong đó thành viên
là tất cả mọi người lớn tuổi không phân biệt đàn ông hay đàn bà. HĐTT có quyền quyết định tất cả các
vấn đề quan trọng của thị tộc (tổ chức lao động sản xuất, tiến hành chiến tranh, tổ chức các nghi lễ tôn
giáo, giải quyết tranh chấp nội bộ...). Các quyết định của HĐTT thể hịên ý chí chung và có tính bắt
buộc chung đối với mọi thành viên trong thị tộc. HĐTT bầu ra những người đứng đầu thị tộc như tù
trưởng, thủ lĩnh quân sự... để thực hiện quyền lực và quản lý những công việc chung.
Thứ hai: qui phạm xã hội: Trong xã hội CSNT, chưa có pháp luật nhưng đã tồn tại những qui tắc
xử sự chung thống nhất - đó là các qui phạm xã hội thể hiện ý chí chung của tất cả mọi thành viên trong
xã hội bao gồm các tập quán và tín Điều tôn giáo.
Tập quán luôn gắn liền với các qui phạm đạo đức và tôn giáo và nhiều khi đồng nhất với chúng.

Do nhu cầu khách quan của xã hội cần có một trật tự, trong đó các thành viên phải tuân thủ những
chuẩn mực chung, thống nhất phù hợp với những điều kiện của xã hội và lợi ích của tập thể, các tập
quán đã dần dần được hình thành một cách tự phát, được xã hội chấp nhận và trở thành những qui tắc
xử sự chung mang tính chất đạo đức của xã hội.
b. Sự tan rã của công xã nguyên thuỷ và sự xuất hiện Nhà nước
* Sự chuyển biến về kinh tế
Theo Engghel, các nguyên nhân làm tan rã xã hội cộng sản nguyên thủy và xuất hiện Nhà nước gắn
liền với ba lần phân công lao động xã hội. Nói cách khác, qua ba lần phân công lao động xã hội này làm
cho các nguyên nhân này ngày càng trở nên sâu sắc hơn, cụ thể
* Lần thứ nhất: Chăn nuôi và trồng trọt xuất hiện, tách thành hai ngành nghề lao động chính. Ơ lần
thứ nhất này, góp phần làm do hoạt động lao động đa dạng hơn, mang tính chuyên môn hoá. Sản phẩm
lao động làm ra nhiều hơn so với nhu câu và xuất hiện khuynh hướng tích luỹ tư hữu. Xã hội bắt đầu có
sự phân hoá giàu nghèo.
* Lần thứ hai: Thủ công nghiệp xuất hiện và tách khỏi nông nghiệp như: đan, dệt, làm gốm và nhất
là luyện kim. Ơ lần này, đòi hỏi xã hội phải cung ứng sức lao động dồi dào, nặng nhọc và cuối cùng
hình thành quan hệ lao động thuê mướn. Vì vậy, bắt đầu xuất hiện những rạn nứt, mâu thuẩn giữa chủ
và thợ; quan hệ lao động thuê mướn chứa đựng nguy cơ bóc lột.
* Lần thứ ba: Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện do nhu cầu trao đổi. Lần này xuất
hiện tầng lớp người mới: thương nhân. Hoạt động mua bán ra đời kéo theo nạn cho vay nạn lãi, mua rẻ
bán đắt, bóc lột NLĐ và người tiêu dùng.
Tóm lại, qua ba lần phân công lao động đó, xã hội đã có những biến đổi sâu sắc:
Chế độ tư hữu xuất hiện thay thế cho chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao
động.
Xã hội phân hoá thành các giai cấp thống trị và bị trị (tức giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột).
Mối quan hệ huyết thống giữa các thành viên trong thị tộc ngày càng yếu đi và dần dần bị phá vỡ.
Mâu thuẩn xã hội tăng cao, dẫn đến sự khủng hoảng về đời sống kinh tế – xã hội nên cần phải có một tổ
chức người mới thay thế thị tộc để giải quyết xung đột xã hội. Hơn nữa, các thành viên trong thị tộc
không còn sinh sống trên cùng một địa bàn do sự thay đổi nghề nghiệp dẫn đến thay đổi địa bàn sinh
sống.
2



* Sự chuyển biến về xã hội
Lao động bầy đàn không còn phù hợp cùng với chế độ công hữu xưa cũ trở thành lực cản đối với
nền kinh tế cũng như sự biến chuyển về quan hệ hôn nhân - gia đình khiến cho gia đình lớn là thị tộc
mất dần vai trò và sự ảnh hưởng của mình đối với cộng đồng. Điều này cũng có nghĩa rằng, đến một
thời điểm nào đó nó không còn cơ sở để tồn tại thì đương nhiên sự tồn tại của nó trở thành quá khứ, hào
quang của nó cũng dần lịm tắt. Sự biến chuyển các điều kiện kinh tế mang tính khách quan và tất yếu
dẫn đến sự biến chuyển các yếu tố thuộc mặt xã hội. Sự chuyển biến kinh tế và xã hội gắn liền với
những nội dung cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung của những chuyển biến này là làm cho quá
trình tan rã của thị tộc, bộ lạc và thúc đẩy sự ra đời của Nhà nước.
Xã hội ngày càng có sự phân hóa sâu sắc giữa các tập đoàn người với địa vị, lợi ích vật chất và
điều kiện kinh tế khác nhau.
Thứ nhất, tầng lớp quý tộc bao gồm thương nhân, những người tư hữu nhiều tài sản, giới chủ các
cơ sở sản xuất cũng như các tăng lữ, thủ lĩnh cộng đồng,… Đây là những cơ sở, tiền đề dẫn đến chế độ
người bóc lột người.
Thứ hai, tầng lớp dân tự do, bao gồm nông dân, thợ thủ công và những NLĐ tự do khác ngày càng
bị lệ thuộc hoàn toàn vào giới chủ. Do vậy, số lượng dân tự do ngày càng ít đi vì phần nhiều họ đã trở
thành nô lệ.
Thứ ba: nô lệ, bị giới chủ tước hầu hết quyền căn bản và phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ của
mình. Giới chủ nắm quyền sinh quyền sát nô lệ trong tay. Ban đầu, lực lượng này chiếm tỷ lệ nhỏ
nhưng điều kiện kinh tế - xã hội càng phân hóa, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, sự bóc lột xã
hội ngày càng mạnh tay hơn nên một bộ phận lớn dân tự cho trở thành nô lệ.
Như vậy, sau ba lần phân công lao động xã hội, tất cả những giá trị đặc trưng của xã hội công xã
nguyên thủy bị xô đổ, từ một xã hội đại đồng (không giai cấp, bóc lột, tư hữu, chiếm đoạt,…) đã chuyển
sang xã hội đầy rẫy các mâu thuẫn, xung đột và dẫn đến việc xã hội dùng bạo lực để giải quyết. Nhà
nước ra đời là lực lượng nảy sinh từ xã hội và xuất hiện một cách khách quan khi xã hội đã phát triển
đến một trình độ nhất định – xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước
không phải là một tổ chức quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã
hội, một lực lượng tựa hồ đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung

đột đó nằm trong một trật tự1. Nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi nào và thời gian nào khi tiền đề kinh tế của
xã hội là chế độ tư hữu và tiền đề xã hội là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, và Nhà
nước là sản phẩm tất yếu của những đối kháng giai cấp không thể điều hòa được.
2. Bản chấ t nhà nước
* Khái niê ̣m bản chấ t và bản chất nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng mang tính khách quan, nảy sinh từ các tiền đề do sự vận động của xã
hội đem lại. Vì vậy, cũng như các hiện tượng khác, Nhà nước cũng có bản chất của riêng nó. Việc nhận
thức bản chất Nhà nước sẽ góp phần lý giải sâu sắc hơn về hiện tượng Nhà nước; cho thấy các quy luật
vận động và khuynh hướng phát triển của Nhà nước mang tính khách quan hơn.
Khái niêm
̣ bản chất của nhà nước có thể hiểu là toàn bộ những mố i liên hê ̣, quan hê ̣ sâu sắ c và
những quy luật bên trong quyế t đi ̣nh những đặc điểm và khuynh hướng phát triển cơ bản của nhà nước.
2.1 Nô ̣i dung bản chấ t nhà nước
a. Tı́nh giai cấ p của nhà nước

1

Mác-Ănghen, Tuyển tập, tập 6, NXB Sự thật, Hà Nội 1984, tr. 260.

3


Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác thể hiện ở ba loại
quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và quyền lực tư tưởng. Trong đó quyền lực kinh tế giữ
vai trò quyết định, là cơ sở để bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả
năng có thể bắt người bị bóc lột phải phụ thuộc về mặt kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không
thể duy trì được các quan hệ bóc lột, vì vậy cần phải có một bộ máy Nhà nước để củng cố quyền lực của
giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị bóc lột. Nhờ có Nhà nước
nên giai cấp thống trị thoạt đầu chỉ giữ quyền thống trị về mặt kinh tế sau đó đã trở thành giai cấp thống
trị cả về mặt chính trị và tư tưởng.

Về chính trị, giai cấp thống trị thiết lập và nắ m giữ các công cụ bạo lực như: quân đội, cảnh sát, tòa
án, nhà tù, vũ khí,… Các công cụ này sẽ được triển khai nếu sự thống trị của giai cấp bị đe dọa; trật tự
xã hội không phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị. Trong những tình huống này, các công
cụ bạo lực này được Nhà nước sử dụng để đàn áp giai cấp đối lập, buộc giai cấp đối lập cũng như toàn
xã hội phải phục tùng ý chí của mıǹ h.
Về tư tưởng, giai cấp thống trị áp đặt hệ tư tưởng chính thống lên toàn xã hội hoặc tìm mọi cách
kiểm soát các kênh thông tin, truyền thông thực hiện chức năng truyền bá tư tưởng. Qua đó giai cấp
thống trị nhằm áp đặt nhận thức, tư tưởng trong xã hội, góp phần hıǹ h thành sự phục tùng có tính chất
tự nguyện của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội đối với giai cấp thống trị. Từ đó tạo nên sự đồng
thuận giữa các giai cấp với nhau trong đời sống tư tưởng, nhận thức để thiết lập trật tự xã hội theo ý chí
của giai cấp thống trị.
b. Tính xã hội của Nhà nước
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, Nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu nó chỉ phục vụ lợi ích
cho giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Bất kỳ Nhà
nước nào cũng đều phải bảo đảm trật tự an toàn xã hội, Nhà nước nào cũng đều phải giải quyết những
công việc chung của xã hội như: xây dựng những công trình phúc lợi, trường học, bệnh viện, đường sá,
đắp đê, đào kênh làm thuỷ lợi, chống dịch bệnh, chống ô nhiễm môi trường…Về mặt này, Nhà nước đã
thể hiện tính xã hội. Do vậy, Nhà nước là một tổ chức quyền lực công, là phương thức tổ chức và bảo
đảm các lợi ích chung của xã hội.
Trên thực tế, tuỳ theo mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử mà bản chất xã hội của Nhà nước
được thể hiện ở mức độ khác nhau. Nhà nước càng dân chủ thì bản chất xã hội càng thể hiện rõ nét. Điều đó
nói lên rằng, Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất giai cấp lại vừa
mang tính xã hội.
c. Mối quan hê ̣ giữa tính giai cấ p và tı́nh xã hô ̣i của nhà nước
Dưới cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác, tính giai cấp và tính xã hô ̣i là hai mặt đối lập nhau, song lại
có tính thống nhất, hỗ trợ nhau. Trước hết, giữa tính giai cấp và tıń h xã hô ̣i của nhà nước là đối lập
nhau. Xuất phát từ sự đối lập về mặt vật chất giữa các giai cấp nên Nhà nước luôn mang bản chất giai
cấp sâu sắc hơn, ưu tiên phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Thông thường điều này xảy ra ở những
Nhà nước xuất hiện đầu tiên trong lịch sử loài người hay trong giai đoạn đầu sau khi Nhà nước đã xuất
hiện.

Tuy nhiên, qua trıǹ h hıǹ h thành và phát triể n của nhà nước không chı̉ chiụ sự tác đô ̣ng của từng
yế u tố (tıń h giai cấ p và tıń h xã hô ̣i) mà nó còn chiụ sư ̣ tác đô ̣ng của mố i quan hê ̣ tương tác giữa tıń h giai
cấ p và tıń h xã hô ̣i nên trong chừng mực nhất định giữa tính giai cấp và tính xã hội có sự thống nhất
nhau. Lợi ích của giai cấp sẽ không được thỏa mãn hoàn toàn và có thể bị triệt tiêu nếu Nhà nước chỉ

4


quan tâm đến lợi ích giai cấp; xóa bỏ hay phủ nhận toàn bộ lợi ích của xã hội thì Nhà nước đó sẽ đối
diện với nguy cơ sụp đổ.
3. Những đặc trưng của Nhà nước
- Thứ nhất, Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt, không còn hòa nhập với dân cư nữa;
chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị. Để thực hiện quyền lực này và để
quản lý xã hội, Nhà nước có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý; họ tham gia vào các
cơ quan Nhà nước và hình thành một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị.
- Thứ hai, Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ, không phụ thuộc vào huyết
thống, nghề nghiệp hoặc giới tính (khác với tổ chức Thị tộc tập hợp các thành viên của mình theo dấu
hiệu huyết thống).Việc phân chia này dẫn đến hình thành các cơ quan quản lý của từng đơn vị hành
chính lãnh thổ. Không một tổ chức xã hội nào trong xã hội có giai cấp lại không có lãnh thổ riêng của
mình, lãnh thổ là dấu hiệu đặc trưng của Nhà nước. Mọi Nhà nước đều có lãnh thổ riêng của mình để
cai trị hay quản lý, mọi Nhà nước đều chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, xã ...
Do có dấu hiệu về lãnh thổ mà xuất hiện chế định quốc tịch - chế định quy định sự lệ thuộc của một
công dân vào một Nhà nước và một vùng lãnh thổ nhất định; thông qua đó Nhà nước thiết lập quan hệ
với công dân của mình.
- Thứ ba, Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý, nó thể
hiện ở quyền tự quyết của Nhà nước về mọi chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc vào bất kì
một quốc gia nào khác. Chủ quyền quốc gia là một thuộc tính không tách rời Nhà nước, có tính tối cao
với đất nước, các tổ chức và dân cư. Dấu hiệu chủ quyền Nhà nước còn thể hiện sự độc lập, bình đẳng
giữa các quốc gia với nhau dù đó là quốc gia lớn hay nhỏ.
- Thứ tư, Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân. Với tư

cách là người đại diện chính thức của toàn xã hội, Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành
pháp luật và đảm bảo thức hiện, có thể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Pháp luật do Nhà nước ban hành,
nên nó có tính chất bắt buộc chung, mọi người đều phải tôn trọng pháp luật.
Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ phụ thuộc: không thể có Nhà nước mà thiếu pháp luật và
ngược lại.
-Thứ năm, Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình thức bắt buộc, với số
lượng và thời hạn ấn định trước. Sở dĩ Nhà nước phải đặt ra các loại thuế vì bộ máy của Nhà nước bao
gồm một lớp người đặc biệt, tách khỏi lao động sản xuất để thực hiện chức năng quản lý, bộ máy đó
phải được nuôi dưỡng bằng nguồn tài chính lấy từ khu vực sản xuất trực tiếp. Thiếu thuế bộ máy đó
không thể tồn tại được. Nhưng mặt khác, chỉ có Nhà nước mới có đặc quyền đặt ra các loại thuế và thu
thuế, vì Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại biểu chính thức của toàn xã hội.
Những đặc điểm trên đã nói lên sự khác nhau giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội khác
đồng thời cũng phản ánh vị trí và vai trò của Nhà nước trong xã hội có giai cấp: là một tổ chức đặc biệt,
giữ vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, có thể tác động một cách toàn diện, mạnh mẽ và hiệu quả với
đời sống xã hội, thể hiện lợi ích giai cáp thống trị một cách tập trung nhất.
II. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật
1. Nguồn gốc của pháp luật
Theo quan điểm của Mác – Lê, pháp luật là một hiện tượng thuộc về thượng tầng kiến trúc và chỉ
xuất hiện trong xã hội khi loài người đã phát triển đến một mức độ nhất định, nó trở thành nhân tố quan
trọng nhất để Nhà nước điều chỉnh, tiết chế hành vi con người trong đời sống xã hội, nhất là trong các

5


mối quan hệ giai cấp. Do vậy, khi loài người chưa biết đến trạng thái của một xã hội có Nhà nước thì
pháp luật cũng chưa xuất hiện.
Trong xã công xã nguyên thủy, con người nhận thức còn mơ hồ về thế giới khách quan, trình độ
của lực lượng sản xuất còn đơn giản nên con người thuận theo các quy luật vốn có của tự nhiên để tồn
tại.
Khi chế độ tư hữu được hình thành, xã hội phân chia thành các lực lượng có lợi ích vật chất đối

kháng nhau. Sự khác biệt về điều kiện sinh hoạt vật chất dẫn đến sự ra đời giai cấp và các cuộc đấu
tranh giai cấp ngày càng mạnh mẽ. Để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong điều kiện mới, giai cấp
thống trị tiếp tục sử dụng những quy tắc tập quán đã tồn tại trước đó, nếu phù hợp với ý chí và lợi ích
của giai cấp thống trị. Đây là cách thức đầu tiên hình thành nên pháp luật, được gọi là tập quán pháp.
Bên cạnh đó, sau khi Nhà nước ra đời đã làm gia tăng các mối quan hệ xã hội và ngày trở nên phức
tạp hơn (đặc biệt là các mối quan hệ trong đời sống chính trị và kinh tế); xã hội có nguy cơ đổ vỡ hay
biến động mạnh hơn nếu thiếu vắng những chuẩn mực, quy tắc xử sự mới. Trước nhu cầu cấp thiết đó,
Nhà nước tiến hành soạn thảo, thiết lập các bộ quy tắc ứng xử mới để điều chỉnh những quan hệ xã hội
mới hình thành nhưng trước hết là củng cố, bảo đảm lợi ích (kinh tế, chính trị) của giai cấp thống trị.
Những quy tắc ứng xử này ban đầu còn đơn giản và chứa đựng trong nhiều văn bản rời rạc khác nhau.
Dần dần, cùng với sự hoàn thiện về tổ chức bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật nói chung và hệ
thống văn bản pháp luật nói riêng ngày càng hòan thiện, quy củ hơn. Đây là cách thức thứ hai hình
thành nên pháp luật.
Tóm lại, về phương diện khách quan, Nhà nước và pháp luật cùng xuất hiện trên những nguyên
nhân cơ bản: xuất hiện chế độ tư hữu cũng như xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, về
phương diện chủ quan, sự xuất hiện của pháp luật không thể không thông qua bằng con đường Nhà
nước: ban hành hoặc thừa nhận. Từ đây, pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu của Nhà nước, được giai
cấp thống trị ban hành hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm duy trì trật tự xã hội
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của giai cấp thống trị.
2. Bản chất pháp luật
a. Tính giai cấp của pháp luật
Vì Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng cùng xuất hiện, tồn tại và phát triển trên cùng những
nguyên nhân nên bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp của nó, cụ thể biểu hiện qua
những nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: pháp luật phản ánh ý chí Nhà nước (hay của giai cấp thống trị) trong xã hội. Pháp luật là
phương tiện để cụ thể hoá ý chí, tâm tư nguyện vọng của giai cấp thống trị. Nói cách khác, pháp luật
triển khai những đòi hỏi cụ thể mà giai cấp thống trị đặt ra cho toàn xã hội. Những hành vi mà Nhà
nước cho rằng nguy hiểm, đe doạ đến lợi ích của mình được chuyển hoá thành những quy phạm pháp
luật mang tính cấm đoán; những hành vi mà nếu không được thực hiện bởi toàn xã hội sẽ đi ngược lại
lợi ích của Nhà nước được chuyển hoá thành những quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc.

-Thứ hai: nội dung pháp luật phản ánh rõ nét nhất điều kiện kinh tế, lợi ích vật chất của giai cấp thống
trị. Pháp luật trước hết sẽ tập trung bảo vệ những nguồn lợi thỏa mãn lợi ích vật chất của giai cấp thống
trị. Nói cách khác, chính những điều kiện vật chất này đóng vai trò quyết định đối với nội dung của
pháp luật.
- Thứ ba: Tính giai cấp của pháp luật còn được thể hiện qua mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Trong xã hội có Nhà nước luôn tồn tại các mối quan hệ giữa các giai cấp (giữa thống trị với bị trị; giữa
thống trị với nhau hoặc giữa bị trị với nhau) nhưng đối kháng và gay gắt nhất là mối quan hệ giữa
6


thống trị với bị trị. Tuy nhiên, cho dù quan hệ giữa giai cấp nào chăng nữa thì giai cấp thống trị cũng
muốn dùng pháp luật làm cơ sở, định hướng cho các quan hệ đó ổn định, phát triển theo những mục
tiêu, mục đích mà giai cấp thống trị đã đặt ra.
Tóm lại, pháp luật chẳng qua là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị một cách tập trung, thống
nhất và triển khai thực hiện trong toàn xã hội, nhằm bảo đảm tuyệt đối vai trò cầm quyền và lợi ích của
giai cấp thống trị trước xã hội. Chính vì thế, không có hệ thống pháp luật nào mà không mang tính giai
cấp. Vấn đề đặt ra là mức độ tính và phương thức thể hiện tính giai cấp như thế nào trong hệ thống pháp
luật. Đây là một trong những tiêu chí để Mác phân định thành các kiểu pháp luật khác nhau.
b.Tính xã hội
Cùng tồn tại bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn phản ánh các giá trị xã hội, tức mang tính xã hội.
Pháp luật được Nhà nước chính thức ban hành và áp dụng rộng rãi trong toàn xã hội nên tất yếu phải có
tính xã hội. Hơn nữa, pháp luật không chỉ là hiện tượng hoàn toàn mang tính chủ quan của giai cấp mà
nó được hình thành từ các nhân tố về mặt xã hội, nó bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tính xã hội của
pháp luật được thể hiện trên mấy nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: trong chừng mực nhất định, pháp luật phản ánh, ghi nhận ý chí của toàn xã hội và chuyển
hóa chúng thành các quy phạm pháp luật. Không phải cho đến khi Nhà nước ra đời thì mới hình thành
các quy tắc ứng xử mà trước đó, con người đã thiết lập ra nhiều quy tắc xử sự phù hợp với các quy luật
vận động của tự nhiên và xã hội. Vì những quy tắc ứng xử này gắn liền với nhu cầu và lợi ích của con
người nên được phổ biến trong toàn xã hội và nhận được sự đồng thuận cao. Trong đó, không ít những
cách thức xử sự chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý và đã được kiểm chứng tính đúng đắn, phù hợp nên

giai cấp thống trị không thể không nâng lên hay hợp thức hoá thành pháp luật.
- Thứ hai: pháp luật là công cụ để đánh giá tính hợp pháp đối với hành vi con người và là cơ sở để xác
định trách nhiệm pháp lý của họ. Pháp luật là khuôn mẫu, đưa ra những mô hình về hành vi để hướng
dẫn con người những cách thức xử sự cụ thể trong các mối quan hệ xã hội. Mỗi một quan hệ xã hội
khác nhau, pháp luật thiết lập những giới hạn an toàn, tạo hành lang pháp lý để các bên tôn trọng lợi ích
của nhau. Những giới hạn mà pháp luật đặt ra còn là cơ sở xác định những hành vi vượt quá giới hạn
cần thiết đó để truy cứu trách nhiệm pháp lý. Ngoài ra, pháp luật còn là tấm gương phản chiếu các quá
trình biến đổi của xã hội. Nhà làm luật nhờ đó có cơ sở soi rọi, làm “sạch” hơn các quy phạm pháp luật;
mọi người trong xã hội nhìn vào tấm gương đó để soi rọi lại chính mình.
- Thứ ba: cùng với việc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của
giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Ý chí của giai cấp thống trị phản ánh rõ nét trong pháp luật
nhưng điều này không đánh mất hoàn toàn cơ hội ghi nhận ý chí của toàn xã hội vào trong các quy
phạm pháp luật. Khi điều kiện tồn tại của xã hội thay đổi hay có những bước phát triển mới, việc tạo lập
những chuẩn mực mới để điều chỉnh trật tự xã hội là tất yếu. Quá trình này không chỉ phản ánh ý chí
chủ quan của giai cấp thống trị vào pháp luật mà còn phải ghi nhận, phản ánh ý chí, tâm tư nguyện vọng
của toàn xã hội để tìm ra giải pháp điều chỉnh tối ưu nhất. Ngoài ra, bản chất xã hội của pháp luật còn
thể hiện ở chỗ pháp luật có khả năng hạn chế hoặc loại bỏ những quan hệ XH không phù hợp, thúc đẩy
các quan hệ xã hội tiến bộ phát triển cũng như thể hiện qua tính nhân văn, tính dân tộc cũng như truyền
thống văn hoá pháp lý của mỗi Nhà nước.
Định nghĩa: pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã
hội.
3. Thuộc tính của pháp luật
7


Thuộc tính của pháp luật là những tính chất, dấu hiệu đặc trưng riêng có của pháp luật. Pháp luật
có những thuộc tính sau:
a. Tính quy phạm phổ biến (tính bắt buộc chung).
Pháp luật là hệ thống các quy tắc ứng xử có tính chuẩn mực, khuôn mẫu (tức có tính quy phạm).

Tức pháp luật có tính chuẩn mực, như là những mô hình khuôn mẫu, chuẩn xác hướng dẫn cho hành vi
xử sự của con người. Qua pháp luật, con người sẽ biết trong một hoàn cảnh cụ thể cách thức ứng xử
như thế nào cho phù hợp với ý chí của nhà nước (được làm gì, không được làm gì, làm như thế nào,…).
Mặt khác, tính quy phạm của pháp luật đưa ra những giới hạn cần thiết để qua đó, Nhà nước điều chỉnh
hành vi của con người; trong phạm vi giới hạn đó vừa bảo đảm lợi ích tối đa cho chủ thể nhưng đồng
thời không có nguy cơ gây phương hại cho trật tự xã hội, xâm hại lới ích chính đáng của chủ thể khác.
Nếu hành vi con người không đặt trong những giới hạn này sẽ trở nên quá đà, tùy tiện và có nguy cơ
phá vỡ trật tự xã hội và lợi ích công cộng.
Bên cạnh đó, quy phạm pháp luật còn mang tính phổ biến, tức pháp luật đặt ra các quy tắc ứng xử,
chuẩn mực hành vi mang tính bắt buộc chung cho mọi người. Tức pháp luật tác động đến tất cả các cá
nhân, tổ chức trong những điều kiện, hoàn cảnh pháp luật đã quy định. Do vậy, về nguyên tắc, pháp luật
không có những quy định có tính đặc quyền, đặc lợi cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mà phải bảo đảm
giá trị bình đẳng, công bằng.
b. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Hình thức pháp luật là biểu hiện bên ngoài của pháp luật, là yếu tố chứa đựng nội dung của pháp
luật. Nói cách khác, hình thức pháp luật là phương tiện thể hiện nội dung của pháp luật. Có ba hình thức
thể hiện nội dung của pháp luật như: tập quán pháp, tiền lệ pháp hay văn bản pháp luật.
Tập quán pháp là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo
đảm thực hiện. Như vậy, không phải mọi tập quán đều trở thành tập quán pháp mà chỉ những tập quán
nào phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị thì sẽ được thừa nhận và nâng chúng lên thành
pháp luật.
Tiền lệ pháp (án lệ) là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính hoặc
xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương tự.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, trong đó có
chứa các quy phạm pháp luật, được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống và được nhà nước bảo đảm thực
hiện.
Bên cạnh đó, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức của pháp luật còn đòi hỏi ngôn ngữ thể hiện
nội dung của pháp luật phải rõ ràng, chính và chuẩn xác; chỉ hiểu theo một nghĩa cho tất cả những chủ
thể cùng rơi vào một tình huống. Đặc biệt, pháp luật được ban hành phải có khả năng áp dụng trực tiếp

tức có hiệu lực và tính khả thi ngay, hạn chế thông qua việc ban hành văn bản có tính giải thích, quy
định chi tiết.
c. Tính được Nhà nước đảm bảo thực hiện
Nhà nước là chủ thể duy nhất ban hành pháp luật nên đồng thời phải có trách nhiệm bảo đảm cho
pháp luật được thực hiện trên thực tế. Nói cách khác, nhà nước nắm trong tay nhiều nguồn lực vật chất
và quyền lực trong tay nên có khả năng cao nhất trong việc bảo đảm thực hiện pháp luật trong đời sống
xã hội. Sự bảo đảm này được thể hiện trước hết nhà nước đảm bảo tính hợp lý và uy tín nội dung cho
quy phạm pháp luật. Nội dung pháp luật càng rõ ràng, dễ hiểu và tính khả thi cao thì sẽ pháp huy hiệu
lực tối đa. Bên cạnh đó, nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật bằng những biện pháp
8


kinh tế (tác động thông qua các công cụ vật chất, kinh tế), tư tưởng (tuyên truyền, giáo dục), phương
diện tổ chức bộ máy nhà nước và đặc biệt bằng biện pháp cưỡng chế.
4. Văn bản quy phạm pháp luật (gọi tắt là văn bản pháp luật)
a. Khái niệm – đặc điểm:
Là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo luật định ban hành theo những thủ tục, trình
tự nhất định. Nội dung chứa đựng những quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội theo trật tự
nhất định và được áp dụng nhiều lần trong đời sống. Văn bản quy phạm pháp luật bao giờ cũng được
ban hành theo trình tự thủ tục chung được pháp luật quy định. Cần lưu ý rằng, không phải bất cứ cơ
quan nhà nước nào (hay cơ quan mang quyền lực nhà nước nào) cũng có thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Chỉ những cơ quan nào mà pháp luật của nhà nước cho phép hay quy định thẩm
quyền ban hành thì mới được tham gia vào việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, mỗi
một cơ quan khác nhau khi ban hành văn bản pháp luật có những tên gọi khác nhau và được sắp xếp
trong trật tự về hiệu lực pháp lý cao thấp khác nhau. Do vậy, văn bản quy phạm pháp luật phải được xác
định chặt chẽ về thủ tục, thẩm quyền ban hành. Nhìn chung, văn bản quy phạm pháp luật có một số đặc
điểm (dấu hiệu) sau:
 Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định (theo
Luật ban hành văn bản QPPL);
 Chứa đựng những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung và được nhà nước bảo đảm thực hiện;

 Được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống cho đến khi bị thay đổi hay huỷ bỏ;
 Các văn bản quy phạm pháp luật tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất về tên gọi, hiệu lực pháp
luật theo quy định.
b. Các loại VBQPPL ở nước ta hiện nay (theo luật ban hành VBQPPL năm 2008).
Theo cách phân loại phổ biến hiện nay, người ta căn cứ vào cơ quan ban hành, giá trị và hiệu lực
pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật, chia thành: văn bản luật và văn bản dưới luật.
* Văn bản luật : Là những văn bản pháp luật do Quốc hội, cơ quan cao nhất của quyền lực Nhà
nước ban hành, gồm:
 Hiến pháp: Là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật.
 Các đạo luật (bộ luật) là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ thể hóa Hiến
pháp. Các Bộ luật, đạo luật khi ban hành không được trái với Hiến pháp.
 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC, Thông tư của Chánh án TANDTC.
Nghị quyết (có chứa QPPL)
* Văn bản dưới luật: Do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo luật định ban hành, có giá trị
pháp lý thấp hơn văn bản luật và khi ban hành không được trái với văn bản luật, gồm:
 Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban TVQH;
 Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước;
 Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC, Thông tư của Chánh án TANDTC.
 Thông tư của Viện trưởng VKSNDTC.
 Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
 Quyết định của Tổng kiểm toán Nhà nước
 Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban TVQH hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức
CT-XH.
9


 Thông tư liên tịch giữa Chánh án TANDTC với Viện trưởng VKSNDTC; giữa Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; giữa các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

 Nghị quyết của HĐND.
 Quyết định, chỉ thị của UBND.
Một số lưu ý:
- Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản khác không được trái Hiến
-

pháp;
VBPL do trung ương ban hành có hiệu lực trên toàn lãnh thổ, trừ trường hợp văn bản đó quy
định áp dụng cho một địa phương cụ thể; VBPL do địa phương ban hành chỉ có hiệu lực trong
phạm vi địa phương đó, và có hiệu lực pháp luật thấp hơn văn bản do trung ương ban hành;

Nghị định là văn bản quy định chi tiết thi hành Hiến pháp, luật; thông tư là văn bản hướng dẫn thi hành
luật, nghị định.
III. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
1. Vi phạm pháp luật
- Khái niệm: Là hành vi (hành động hay không hành động), trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ.
- Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
+ Là hành vi xác định của con người;
+ Trái pháp luật: có ba dạng:
 Thực hiện hành vi pháp luật cấm
 Không thực hiện hành vi pháp luật bắt buộc
 Thực hiện hành vi vượt quá giới hạn pháp luật cho phép
+ Có lỗi;
 Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể VPPL nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng mong muốn hậu quả xảy ra.
- Về lý trí: biết trái pháp luật, nguy hiểm và gây ra hậu quả
- Về ý chí: mong muốn hậu quả xảy ra
 Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,

thấy trước thiệt hại cho xã hội do hành vi của hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn
nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
- Về lý trí: biết sai trái, nguy hiểm
- Về ý chí: bỏ mặc hậu quả xảy ra (không quan tâm đến hậu quả)
 Lỗi vô ý vì quá tự tin: chủ thể của vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành
vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn
được.
- Về lý trí: thấy trước hành vi của mình nguy hiểm, có khả năng gây ra thiệt hại;
- Về ý chí: không mong muốn hậu quả xảy ra
 Lỗi vô ý do cẩu thả: chủ thể vi phạm do khinh suất, cẩu thả nên không nhận thấy trước thiệt hại
cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể hoặc cần phải thấy trước hậu quả đó.
- Về lý trí: không thấy trước hành vi của mình là nguy hiểm
- Về ý chí: không biết hậu quả sẽ xảy ra.
10


+ Do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện.
2. Trách nhiệm pháp lý
- Khái niệm trách nhiệm pháp lý: là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua
nhà chức trách, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) và chủ thể VPPL, trong đó, Nhà nước có quyền
áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt được quy định trong chế tài của quy phạm
pháp luật đối với chủ thể vi phạm và chủ thể đó có nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành
vi của mình gây ra.
- Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý:
+ Cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý là VPPL.
+ Cơ sở pháp lý của trách nhiệm pháp lý là văn bản áp dụng pháp luật có hiệu lực của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
+ Trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết với cưỡng chế Nhà nước

11



Chương 2
LUẬT HIẾN PHÁP
I. Khái niệm Luật Hiến pháp.
1. Đối tượng điều chỉnh: Hiến pháp là ngành luật chủ đạo nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam các
quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất, bao gồm: chế độ chính trị – kinh tế; quyền và
nghĩa vụ của công dân; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước CHXHCNVN.
2. Phương pháp điều chỉnh: quyền uy – phục tùng
II. Một số chế định cơ bản của Hiến pháp 2013
1. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
a. Các quyền cơ bản của công dân
Khái niệm: là khả năng mà mỗi công dân được tự do lựa chọn cách thức xử sự không trái pháp luật.
Căn cứ vào nội dung, có bốn nhóm quyền sau:
* Quyền chính trị
* Quyền dân sự
* Quyền kinh tế
* Quyền văn hóa – xã hội
b. Các nghĩa vụ cơ bản của công dân
• Khái niệm: là cách thức xử sự mà pháp luật bắt buộc mỗi công dân phải tuân theo.
• Căn cứ vào nội dung, công dân có các nghĩa vụ cơ bản sau:
- Bảo vệ và trung thành với tổ quốc;
- Nghĩa vụ quân sự;
- Đóng thuế;
- Một số nghĩa vụ khác
2. Tổ chức bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam
a. Khái niệm bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam (theo Hiến pháp 2013): là hệ thống các cơ quan
Nhà nước từ trung ương xuống địa phương, được tổ chức và họat động theo pháp luật Việt Nam, tạo
thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Bộ máy Nhà nước CHXHCNVN Việt Nam (theo Hiến pháp 2013) bao gồm:

b. Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước
Những cơ quan này do nhân dân bầu ra, được nhân dân trao cho quyền lực và thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy còn có tên gọi khác là cơ quan đại diện, cơ quan dân cử, gồm:
* Ơ trung ương: Quốc hội:
- Vị trí – vai trò: là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Cơ cấu tổ chức: là một tập thể đại biểu đứng đầu có Chủ tịch Quốc hội do Quốc hội bầu ra. Giúp việc
có các Phó chủ tịch Quốc hội và các Uy ban bên trong, trong đó Uy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan
thường trực của Quốc hội, thực hiện một công việc do Quốc hội giao cho khi quốc hội không họp. Quốc
hội có nhiệm kỳ 5 năm, mỗi năm Quốc hội họp ít nhất 2 lần và mỗi lần từ 4 đến 6 tuần. Cơ cấu tổ chức:
bao gồm Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, và các uỷ ban.
- Chức năng:
* Lập hiến, lập pháp
* Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước về kinh tế - chính trị - xã hội.
* Giám sát tối cao đối với toàn bộ bộ máy nhà nước
* Ở địa phương: Hội đồng nhân dân các cấp
-Vị trí - vai trò: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do cử tri trong địa phương bầu ra.
12


- Cơ cấu tổ chức: HĐND được tổ chức ở ba cấp chính quyền địa phương. Đứng đầu có Chủ tịch HĐND
do HĐND bầu ra. Giúp việc cho HĐND còn có các Phó chủ tịch và các bộ phận bên trong.
- Chức năng:
+ Quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương về kinh tế chính trị - an ninh - quốc phòng…
+ Giám sát tối cao đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước ở địa phương mình
b. Hệ thống cơ quan hành pháp: Những cơ quan này thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thi hành
pháp luật của Quốc hội nên có tên gọi khác là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước.
* Ở trung ương: có Chính phủ
- Vị trí – vai trò: là cơ quan hành pháp cao nhất của nhà nước, quản lý nhà nước chung trên toàn lãnh
thổ.

- Cơ cấu tổ chức: thành phần Chính phủ gồm: Thủ tướng Chính phủ (do Quốc hội bầu ra trong số các
đại biểu Quốc hội), các Phó Thủ tướng và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ (do Quốc hội
phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng). Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý
một hoặc một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
* Ở địa phương: gồm UBND các cấp: cấp tỉnh (gồm: tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương) – cấp
huyện (gồm: huyện, quận, thị xã và thành pho thuộc tỉnh) và cấp xã (gồm: xã, phường, thị trấn). UBND
do HĐND cùng cấp thành lập. Đứng đầu UBND có Chủ tịch UBND do HĐND cùng cấp bầu ra và có
sự phê chuẩn của UBND cấp trên trực tiếp; nếu kết quả bầu ra chủ tịch UBND cấp tỉnh thì Thủ tướng
Chính phủ phê chuẩn.
c. Hệ thống cơ quan tư pháp, gồm:
*Viện kiểm sát nhân dân:
- Vai trò – chức năng: Thực hành quyền công tố nhà nước, tức truy tố tội phạm ra trước tòa và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra, xét xử các án hình sự và một số việc dân sự khác.
- Cơ cấu tổ chức: gồm 4 cấp:
+ VKSNDTC: đứng đầu có Viện trưởng VKSNDTC do Quốc hội bầu ra.
+ VKSDNCC: đứng đầu có Viện trưởng do UBTVQH thành lập
+ VKSND cấp tỉnh: đứng đầu có Viện trưởng do VKSNDTC thành lập.
+VKSND cấp huyện: đứng đầu có Viện trưởng do VKSNDTC thành lập.
Ngòai ra, trong mỗi cấp VKSND còn có Viện phó VKSND và Kiểm sát viên giúp việc
* Tòa án nhân dân:
- Vai trò – chức năng: thực hiện quyền xét xử các tranh chấp về kinh tế, lao động, dân sự, hành chính,
hôn nhân – gia đình và các vụ án hình sự.
- Cơ cấu tổ chức:
- Cơ cấu tổ chức: gồm 4 cấp:
+ TANDTC: đứng đầu có Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu ra.
+ TANDCC: đứng đầu có Chánh án do UBTVQH thành lập
+ TAND cấp tỉnh: đứng đầu có Chánh án do TANDTC thành lập.
+TAND cấp huyện: đứng đầu có Chánh án do TANDTC hành lập.
Ngòai ra, ở mỗi cấp tòa án còn có các Phó chánh án, thẩm phán và thư ký giúp việc
Bên cạnh những cơ quan trên, trong bộ máy nhà nước ta còn có chế định Chủ tịch nước. Chủ

tịch nước là nguyên thủ quốc gia (đứng đầu Nhà nước), thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại.

13


Chương 3
LUẬT HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH
I. Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của LHN&GĐ
1.Khái niệm: là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành
viên trong gia đình, về những lợi ích nhân thân và tài sản.
2. Ðối tượng điều chỉnh và Phương pháp điều chỉnh
a. Ðối tượng điều chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các
thành viên trong gia đình, về những lợi ích nhân thân và tài sản.
Quan hệ nhân thân là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình về những lợi
ích nhân thân phi tài sản như: tình yêu thương, sự thủy chung, quan tâm chăm sóc lẫn giữa vợ chồng,
cha mẹ và con, anh chị em với nhau, ông bà với cháu,...
Quan hệ tài sản là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình về những lợi ích
vật chất, tài sản: quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng, tài sản chung và tài sản riêng trong gia đình,...
b. Phương pháp điều chỉnh: tự nguyện, bình đẳng.
3. Cơ sở pháp lý:
- Luật Hôn nhân và gia đình ban hành năm 2014 (có hiệu lực kể từ ngày 1.1.2015)
- Một số văn bản pháp quy khác
II. Kết hôn
1. Khái niệm: Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn;
2. Điều kiện kết hôn:
* Điều kiện về độ tuổi: nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên. Quy định
này bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lê, nữ phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn.
Việc quy định độ tuổi tối thiểu kết hôn xuất phát từ: (1) chỉ số phát triển tâm sinh lý của con người ở

Việt Nam; (2) khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong đời sống hôn nhân gia đình (gồm quyền
và nghĩa vụ giữa vợ và chồng; của cha, mẹ với con); (3) phù hợp với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội Việt Nam.
* Điều kiện về sự tự nguyện: Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định. Do vậy, mọi hành
vi áp đặt trong việc kết hôn hoặc không phản ánh sự tự nguyện của hai bên nam nữ đều bị coi là vi
phạm điều kiện kết hôn pháp luật. Cụ thể những hành vi sau đây bị cấm:
- Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc
hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn hoặc ly hôn trái với ý muốn của họ.
- Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành
vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn hoặc buộc người khác phải duy trì
quan hệ hôn nhân trái với ý muốn của họ.
- Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt
Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà
không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
- Yêu sách của cải trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều
kiện để kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ.
14


- Lừa dối kết hôn là hành vi gian dối của một bên làm cho bên kia hiểu nhầm về hoàn cảnh, điều
kiện hay tình trạng nhân thân của mình để họ đồng ý kết hôn.
* Điều kiện về năng lực hành vi dân sự. Cả hai bên nam, nữ phải có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi. Nói cách khác là phải có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện, quyền,
nghĩa vụ dân sự.
* Điều kiện không vi phạm các trường hợp cấm kết hôn:
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ: là giữa cha mẹ với con, giữa ông, bà với cháu nội,
cháu ngoại.
- Giữa những người có họ trong phạm vi ba đời là giữa những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là

đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị
em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì ruột là đời thứ ba.
- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với
con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
* Lưu ý: đối với hôn nhân đồng tính, tuy pháp luật không cấm kết hôn nhưng cũng không được
thừa nhận nên không thể tiến hành đăng ký kết hôn.
*Điều kiện về đăng ký kết hôn. Nếu nam, nữ đủ các điều kiện trên và phải đăng ký kết hôn theo
đúng quy định của pháp luật mới được coi là kết hôn hợp pháp. Việc kết hôn phải được đăng ký tại Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn. Nếu kết hôn giữa công dân
Việt Nam với nhau ở nước ngoài thì đăng ký tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam
ở nước ngoài.
* Lưu ý:
 Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định của phap luật đều không có giá trị pháp lý.
 Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật
công nhận là vợ chồng.
 Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
III. Quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng
1. Quan hệ nhân thân
Trong quan hệ nhân thân, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ lẫn nhau một cách bình đẳng; đồng thời
không có sự tách bạch một cách rõ giữa quyền và nghĩa vụ. Nói cách khác, trong quan hệ nhân thân,
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng là thống nhất, hòa quyện nhau. Do vậy vợ chồng phải chung thuỷ,
thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, bền vững; bình đẳng nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình.
Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa
giới hành chính.Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau; cấm vợ, chồng có
hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau; tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo
nào.
Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình
độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội theo nguyện

15


vọng và khả năng của mỗi người. Vợ chồng có thể uỷ quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt
các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc uỷ quyền phải
được lập thành văn bản; đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ
điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Toà
án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó.
2. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng (tài sản chung, tài sản riêng và thừa kế giữa vợ, chồng)
a. Tài sản riêng của vợ, chồng
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm:
- Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
- Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;
- Phần tài sản vợ chồng được chia từ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
- Tài sản (hoa lợi, lợi tức) được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng sau khi vợ, chồng đã
chia tài sản chung.
Lưu ý: Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
b. Tài sản chung của vợ chồng
- Tài sản chung của vợ chồng gồm: tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản (hoa lợi, lợi tức) phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng, nếu vợ chồng không chia tài sản
chung trước đó.
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Lưu ý: Đối với tài sản đang có tranh chấp, bên nào cho rằng đó là tài sản riêng thì phải có nghĩa vụ
chứng minh (kèm theo chứng cứ); nếu không chứng minh được thì tài sản đó được xác định là tài sản
chung (tức trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là
tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung).
Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền lập văn bản nhằm thỏa thuận chia một phần hoặc toàn

bộ tài sản chung, trừ các trường hợp sau:
- Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình;
- Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ tài sản, xâm phạm đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ
chức khác (như: bồi thường thiệt hại; trả nợ, nộp thuế,…)
Vợ, chồng có thể tự thỏa thuận việc chia tài sản chung, cũng như sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ thỏa
thuận đó. Nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu thì Tòa án chia tài sản chung. Tòa án sẽ giải
quyết theo các nguyên tắc như chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn.

16


Lưu ý: Phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia
tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản
còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
c. Thừa kế tài sản giữa vợ, chồng
- Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế.
- Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản
chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những
người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
- Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Phần tài sản của vợ,
chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
- Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn
sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định
của Bộ luật dân sự.
IV. Ly hôn
1. Khái niệm và quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
a. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
b. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:

- Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
- Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ,
chồng mất năng lực hành vi đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
- Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai hoặc đang nuôi con
dưới 12 tháng tuổi.
2. Các trường hợp và thủ tục giải quyết ly hôn
a. Trường hợp thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, Toà án triệu tập các bên để phân tích, đánh giá sự
việc để các bên đoàn tụ trở lại; nhưng nếu các bên không đồng ý, và xét thấy hai bên: (1) thật sự tự
nguyện ly hôn và (2) đã thoả thuận về việc chia tài sản và việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con hợp lý, công bằng, nhất là bảo đảm quyền lợi của vợ, con thì Toà án ra quyết định công nhận
thuận tình ly hôn; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định (tức Tòa án vẫn công nhận ly hôn; còn phần tài sản
chung và vấn đề người nuôi con, cấp dưỡng,… sẽ do Tòa quyết định theo hướng công bằng, bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con)
b. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
- Vợ hoặc chồng nộp đơn yêu cầu ly hôn, sau khi thụ lý đơn, Tòa án tiến hành hòa giải:
* Nếu hòa giải đoàn tụ thành, tức các đương sự đồng ý đoàn tụ trở lại với nhau thì Thẩm phán lập
biên bản hoà giải thành, ghi nhận đầy đủ nội dung thoả thuận của các đương sự và các bên cùng thẩm
phán ký tên, đóng dấu của Toà án vào biên bản; đồng thời biên bản hoà giải thành phải được gửi ngay
cho các đương sự. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản nếu không có đương sự nào thay
đổi ý kiến về việc hòa giải thành, thì Thẩm chủ trì phiên hòa giải ra quyết định hòa giải thành;
17


*Nếu hòa giải đoàn tụ không thành (kể cả trường hợp một trong hai bên thay đổi ý kiến về việc
hoàn giải thành trong thời gian bảy ngày), Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử. Khi xét xử ly hôn, Tòa
án căn cứ vào thực chất của vụ việc cũng như các quy định của pháp luật để phán quyết theo một trong
hai hướng sau:

- Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn nếu có căn cứ cho rằng, vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình
hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
- Nếu không đủ căn cứ cho ly hôn thì Tòa án ra bản án bác đơn ly hôn.
Sau mười lăm ngày, kể từ ngày xét xử sơ thẩm (tức xét xử lần đầu) nếu đương sự nào không đồng
ý bản án sơ thẩm thì nộp đơn kháng cáo, yêu cầu xét xử lại (tức xét xử phúc thẩm).
Lưu ý: Đối với người nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, mà bị tòa án bác đơn thì hết thời
gian một năm, kể từ ngày bản án, quyết định bác đơn ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới được
quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn.
c. Ly hôn với người bị tòa tuyên bố mất tích: Nếu vợ hoặc chồng mất tích (không còn tin tức xác thực
là còn sống hay đã chết sau hai năm liên tục), thì người kia có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố vợ, chồng
mình mất tích. Sau khi Tòa án tuyên bố mất tích, nếu người vợ hoặc người chồng yêu cầu Toà án giải
quyết cho ly hôn với người mất tích, thì Toà án giải quyết cho ly hôn.
d. Ly hôn theo yêu cầu của người khác. Trong trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu
Tòa án giải quyết ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn, nếu có căn cứ cho rằng, chồng, vợ có hành vi
bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Lưu ý: quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực
pháp luật.
3. Giải quyết con chung và tài sản chung khi ly hôn:
a. Đối với con chung
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối
với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi
căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng
của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều
kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp
với lợi ích của con.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục và cấp
dưỡng cho con chưa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình. Mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có

nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu
đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu
Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

18


Cha, mẹ có thể yêu cầu tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, nếu quyền và lợi ích chính đáng
của con bị xâm hại hoặc người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con.
b. Giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao
động của vợ, chồng trong gia đình (lao động nội trợ) được coi như lao động có thu nhập;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có
điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia
theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải
thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
c. Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn
Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở
hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong
thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
V. Quan hệ gia đình (thể hiện qua quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình)
1. Nghĩa vụ và quyền giữa con và cha, mẹ

Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết n, hiếu thoả với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên
bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình; chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ. nhất là khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải
cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm
cha mẹ.
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã
thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình; có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập; tạo điều
kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hoà thuận; làm gương tốt cho con về mọi
mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con; hướng dẫn con
chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con. Khi gặp khó khăn
không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện
việc giáo dục con.
2. Nghĩa vụ và quyền giữa các thành viên khác trong gia đình
- Giữa ông bà (nội, ngoại) với cháu, giữa anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ
nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha
mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
19


Chương 4
LUẬT HÌNH SỰ &TỐ TỤNG HÌNH SỰ
O0O
§ 1. LUẬT HÌNH SỰ
1. Khái niệm Luật Hình sự
1.1 Định nghĩa: Luật Hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt nam, bao
gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành quy định những hành vi nguy hiểm cho
xã hội là tội phạm và hình phạt với các tội phạm.
1.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự: Là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước
và người phạm tội khi người này thực hiện một hành vi mà Nhà nước qui định là tội phạm.

1.3 Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự: là phương pháp quyền uy. Trong đó Nhà nước có
quyền tối cao trong việc định đoạt số phận của người phạm tội, buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm mà họ đã gây ra. Trách nhiệm hình sự về tội phạm đã gây ra là trách nhiệm thuộc về cá
nhân người phạm tội, phải do chính người phạm tội trực tiếp gánh chịu, mà không thể “chuyển” hoặc
“ủy thác” cho người khác.
2. Khái niệm và phân loại tội phạm
2.1 Khái niệm tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự , do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN (Điều 8 BLHS)
Từ định nghĩa đầy đủ trên, có thể đưa ra định nghĩa tội phạm một cách khái quát: Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, có lỗi và phải chịu hình phạt.
2.2 Những dấu hiệu cơ bản của tội phạm
- Tính nguy hiểm cho xã hội: Là thuộc tính khách quan, là dấu hiệu vật chất của tội phạm. Hành vi
nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng
kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
- Tính có lỗi của tội phạm: Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Trong BLHS, tính có lỗi là một dấu hiệu độc lập với tính nguy hiểm cho xã hội. Không thể buộc tội
một người mà chỉ căn cứ vào hành vi khách quan họ đã thực hiện.
- Tính trái pháp luật hình sự: Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là tội phạm nếu nó được
quy định trong BLHS.
- Chủ thể phạm tội phải có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, tức phải có khả năng gánh chịu hình
phạt. Trong BLHS có hai loại chủ thể tội phạm gồm; cá nhân (người) phạm tội và pháp nhân thương
mại phạm tội.
* Đối với cá nhân, để được coi là tội phạm và gánh chịu hình phạt phải đảm bảo 02 điều kiện: có
khả năng (năng lực nhận thức) và đạt độ tuổi theo quy định, cụ thể:
 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm

mà BLHS có quy định khác.
 Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết
người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài
20


sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm đối với một số hành vi mua bán người, chiếm đoạt tài sản (cướp, trộm cắp, hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); các tội về ma túy, đua xe trái phép; một số xâm phạm an ninh
quốc gia…
* Đối với pháp nhân thương mại: phải là những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được tổ chức,
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật.
2.3 Phân loại tội phạm.
2.3.1 Căn cứ vào tính nguy hiểm
Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như đã trình bày, nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Chính vì vậy mà vấn đề phân hóa trách nhiệm hình
sự và cá thể hóa hình phạt được coi là một nguyên tắc quan trọng của luật hình sự. Quán triệt nguyên
tắc này, BLHS căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy
định thành bốn loại sau đây:
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tô ̣i ấ y là phạt tiề n, phạt cải ta ̣o không giam giữ hoă ̣c pha ̣t
tù đến 03 năm;
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc
biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình.

2.3.2 Căn cứ vào khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ
 Các tội xâm phạm an ninh quốc gia (phản bội tổ quốc, tội gián điệp …).
 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người
 Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
 Các tội xâm phạm sở hữu (tức các tội chiếm đoạt tài sản).
 Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội
phạm về môi trường; các tội phạm về ma tuý; các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công…
3. Trách nhiệm hình sự và hình phạt
3.1 Trách nhiệm hình sự (TNHS)
3.1.1 Khái niệm, đặc điểm của TNHS
Khái niệm: TNHS là trách nhiệm của chủ thể phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về
hành vi phạm tội của mình.
Đặc điểm:
 TNHS là hậu quả của việc thực hiện hành vi phạm tội
 TNHS được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật
 TNHS biểu hiện cụ thể ở việc chủ thể phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế của nhà nước
nghiêm khắc nhất là hình phạt
 TNHS phản ánh trong bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án.
3.1.2 Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

21


Khái niệm: Là thời hạn do BLHS quy định mà khi kết thúc thời hạn này thì chủ thể phạm tội không
bị truy cứu TNHS. Tức không truy cứu TNHS đối với chủ thể phạm tội nếu tính từ ngày tội phạm được
thực hiện đã qua những thời hạn sau đây:
 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng
 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng
 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng

 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Một số lưu ý:
Nếu các thời hạn nói trên đã qua mà các cơ quan bảo vệ pháp luật vì lý do nào đó không phát hiện
được tội phạm hoặc phát hiện được nhưng bỏ qua không điều tra, truy tố, xét xử thì chủ thể phạm tội
không bị truy cứu TNHS nữa. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được
thực hiện.
Trong thời hạn nêu trên, nếu chủ thể phạm tội lại phạm tội mới (tội mới có mức cao nhất của khung
hình phạt trên một năm tù), thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại
kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian
trốn tránh không được tính vào thời hiệu và thời hiệu tính lại kể từ ngày người đó ra tự thú hoặc bị bắt
giữ.
Đối với một số tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia và tội phạm chiến tranh, chống loài người thì
không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
3.2 Hình phạt
3.2.1 Khái niệm hình phạt
Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi
ích của người phạm tội.
 Hình phạt được quy định trong BLHS và chỉ do toà án áp dụng.
 Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
 Hình phạt chỉ được áp dụng đối với chủ thể phạm tội
3.2.2 Mục đích của hình phạt
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người,
pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
3.2.3 Hệ thống hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội
a. Nhóm hình phạt chính:
Cảnh cáo: được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.
Phạt tiền: được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:

- Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định;
- Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng,
an toàn công cộng và một số tội phạm khác do BLHS quy định. Phạt tiền được áp dụng đối với người từ
đủ 16 tuổi trở lên phạm tội và không được thấp hơn 1.000.000 đồng.
Cải tạo không giam giữ: được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ
ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

22


Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian
chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không
giam giữ.
Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học
tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục
người đó.
Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về
cải tạo không giam giữ và có thể bị khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng từ 05% đến 20% để sung
quỹ nhà nước. Nếu không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì
phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng (không quá 04 giờ trong một ngày và
không quá 05 ngày trong 01 tuần) trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con
dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc
biệt nặng.
Trục xuất: là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Tù có thời hạn: là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời
hạn nhất định với mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.

Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm
giam bằng 01 ngày tù.
Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và
có nơi cư trú rõ ràng.
Tù chung thân: là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.
Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội.
Tử hình: là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một
trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma
túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do BLHS quy định.
Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi; người đủ 75 tuổi trở lên.
Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù
chung thân.
b. Nhóm hình phạt bổ sung bao gồm:
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định: được áp dụng khi xét
thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy
hại cho xã hội.

23


Cấm cư trú: là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa
phương nhất định.Thời hạn cấm cư trú là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt
tù.
Quản chế: là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa
phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời
gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo

quy định tại Điều 44 của Bộ luật này và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Quản chế được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy
hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Tước một số quyền công dân: Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc
gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật này quy định, thì bị tước một hoặc một số
quyền công dân sau đây:
- Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước;
- Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Tịch thu tài sản: là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp
vào ngân sách nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tô ̣i pha ̣m về ma tuý,
tham nhũng hoặc tô ̣i phạm khác do Bộ luật này quy định.
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
c. Các biện pháp tư pháp: ngoài các hình phạt nêu trên, người phạm tội có thể bị áp dụng các biện
pháp tư pháp như: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh. Lưu ý: biện pháp tư pháp không phải là
hình phạt nên không bắt buộc áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội.
d. Một số lưu ý về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội:
- Một hành vi phạm tội chỉ được áp dụng một hình phạt chính; đồng thời có thể bị hoặc không bị
áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung. Phạt tiền và trục xuất là hình phạt chính nếu được áp dụng
độc lập cho một hành vi phạm tội; hình phạt tiền hay trục xuất trở thành hình phạt bổ sung khi được áp
dụng kèm với một hình phạt chính cho một hành vi phạm tội.
- Thời hạn áp dụng hình phạt bổ sung (trừ hình phạt tiền, trục xuất, tịch thu tài sản) là từ 01 năm
đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình
phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được
hưởng án treo.
- Trong trường hợp, một người phạm nhiều tội và bị tòa án đem ra xét xử cùng một thồi điểm thì
Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
 Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các

hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm
đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
 Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân hoặc tử hình thì hình
phạt chung là tù chung thân hoặc tử hình.
 Phạt tiền và trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng
lại thành hình phạt chung.
24


 Nếu trước khi bị kết án mà người phạm tội đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian này được trừ vào
bản án theo tỷ lệ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù giam hoặc 01 ngày tạm giữ, tạm
giam bằng 03 ngày cải tạo không giam.
Trong trường hợp người phạm tội vừa bị xử phạt tù giam, vừa bị xử phạt cải tạo không giam thì
chuyển hình phạt cải tạo không giam sang hình phạt tù giam theo tỷ lệ 03 ngày cải tạo không giam bằng
01 ngày tù giam.
e. Án treo (tù treo)
Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định
thời gian thử thách nhất định trong giới hạn từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời
gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị
kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo
dục người đó.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của
Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình
phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc
người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy
định nêu trên.
3.2.4 Các hın

̀ h pha ̣t và biện pháp tư pháp áp dụng đố i với pháp nhân thương mại phạm tội
a. Hình phạt chính:
Phạt tiền: được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm
tội.
Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến
tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp
hơn 50.000.000 đồng.
Đình chỉ hoạt động có thời hạn: là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một
số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi
trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.
Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.
Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn: là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một
số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến
tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn
xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra.
Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ
hoạt động.
b. Hình phạt bổ sung:
Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định: được áp dụng khi xét thấy nếu để
pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó, thì có thể gây
nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội.

25


×