Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Địa điểm khảo cổ học đầu rằm trong các mối quan hệ với các di tích thời đại kim khí vùng duyên hải đông bắc (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.87 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HẢO

ĐỊA ĐIỂM KHẢO CỔ HỌC ĐẦU RẰM
TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC DI TÍCH
THỜI ĐẠI KIM KHÍ VÙNG DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC
Chuyên ngành: Khảo cổ học
Mã số: 60 22 03 17

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CỔ HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. BÙI VĂN LIÊM
Phản biện 1: PGS.TS HÁN VĂN KHẨN
Phản biện 2: TS. NGUYỄN GIA ĐỐI

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
Họp tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam ngày 31 tháng 10 năm
2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tàí
Di tích khảo cổ học Đầu Rằm phân bố trên đảo/bán đảo Hoàng
Tân, thuộc xã Hoàng Tân, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Từ những
phát hiện, nghiên cứu bước đầu giúp chúng ta nhận diện Đầu Rằm là di
tích rất quan trọng thời đại Kim khí trong buổi đầu dựng nước ở vùng
duyên hải Đông Bắc.
Từ khi di tích Đầu Rằm đã được phát hiện và khai quật nhiều lần,
có nhiều ý kiến về các vấn đề xung quanh di tích nhưng chưa có một
chuyên khảo nào tổng hợp, tổng kết những kết quả đó. Hơn nữa, hiện còn
nhiều ý kiến khác nhau thậm chí trái chiều nhau về di tích Đầu Rằm. Vì
thế, nghiên cứu chuyên sâu về di tích này không chỉ cho chúng ta hình
dung ra bức tranh tổng thể về đời sống kinh tế vật chất, văn hóa tinh thần
và các mối quan hệ của nó trong, ngoài khu vực của cư dân cổ nơi đây,
giúp chúng ta đánh giá khách quan, khoa học hơn về thời tiền - sơ sử ở
khu vực Đông Bắc Việt Nam.
Hiện tại, di tích Đầu Rằm đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại
nghiêm trọng trọng. Chúng ta rất cần những công trình nghiên cứu khoa
học đánh giá đúng giá trị của di tích Đầu Rằm góp phần tuyên truyền bảo
vệ di tích để có thể phát huy giá trị của di tích Đầu Rằm, góp phần phát
triển đồng bộ kinh tế, văn hóa, du lịch và quốc phòng an ninh trong khu
vực.
Đó là những lý do tôi chọn đề tài "Địa điểm khảo cổ học Đầu
Rằm trong các mối quan hệ với các di tích thời đại Kim khí vùng duyên
hải Đông Bắc" cho Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Công trình nghiên cứu ngoài nước về địa điểm Đầu Rằm
1



Từ trước tới nay, chưa có công trình nghiên cứu nào của các học
giả nước ngoài về địa điểm này.
Thành tựu trong phát hiện, nghiên cứu di tích Đầu Rằm thuộc về
các nhà khảo cổ học, sử học và văn hóa học Việt Nam.
2.2. Công trình nghiên cứu trong nước về địa điểm Đàu Rằm:
Cho đến nay, di tích Đầu Rằm đã có khá nhiều người quan tâm
và nghiên cứu, với nhiều công trình có giá trị.
Di tích Đầu Rằm được phát hiện lần đầu vào năm 1970, do người
dân địa phương tìm được một số rìu bôn bằng đá và hiện vật đồ đồng, đồ
gốm. Nhiều cuộc khảo sát vào năm 1988, 1997 và 1998 đã cho nhiều nhận
định về di tích.
Di tích Đầu Rằm được khai quật ba lần (5/1998; 9/2005 và
9/2009) do Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh và
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh thực hiện.
Các kết quả khảo sát, thăm dò, khai quật ở di tích này đều được
công bố trên Tạp chí “Khảo cổ học” và “Những phát hiện mới về khảo cổ
học” các năm và các báo cáo khai quật. Báo cáo khai quật năm 2009 về di
tích Đầu Rằm được coi là khá toàn diện, tuy nhiên, chưa có một công trình
nào tổng hợp các nghiên cứu đó và có những đánh giá toàn diện về di tích.
Hơn nữa, các công trình mới chỉ dừng lại ở các yếu tố truyền
thống, còn thiếu hụt những cập nhật mới, như những biến đổi của môi
trường ảnh hưởng lên cuộc sống của cư dân cổ, giải thích các hiện tượng
về di tích, di vật hay nghiên cứu cụ thể về vị trí của di tích Đầu Rằm
trong bối cảnh thời đại Kim khí ở khu vực duyên hải Đông Bắc Việt
Nam… Vì vậy, giải quyết “khoảng trống” nêu trên là nhiệm vụ đặt ra
đối với Luận văn này.

2



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: có cái nhìn tổng thể về di tích Đầu
Rằm qua các cuộc khảo sát và khai quật khảo cổ học, tìm ra nét đặc trưng
của di tích và vị trí của nó với các di tích trong và ngoài khu vực.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tập hợp tài liệu, hệ thống lại các di tích, di vật của di tích Đầu
Rằm đã được phát hiện qua các giai đoạn.
- Phân tích, đánh giá các di tích, di vật để chỉ ra đặc trưng của di tích.
- So sánh di tích Đầu Rằm với các di tích thời đại Kim khí ở vùng
duyên hải Đông Bắc Việt Nam để tìm hiểu các mối quan hệ văn hóa của
chúng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng chính của đề tài Luận văn này là di tích Đầu Rằm qua
các cuộc khảo sát và khai quật.
Khách thể nghiên cứu của Luận văn là các di tích và di vật ở dịa
điểm Đầu Rằm, trong đó một số đối tượng được quan tâm đặc biệt như địa
tầng, mộ táng, đồ đá, đồ đồng, đồ gốm…
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu khu
vực địa điểm Đầu Rằm, xã Hoàng Tân, thị xã Quảng Yên là chính. Từ đó
phân tích, so sánh với các di tích thời đại Kim khí khác ở duyên hải Đông
Bắc Việt Nam, cụ thể là vùng duyên hải thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh
và thành phố Hải Phòng.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung chủ yếu vào
thời đại Kim khí, có so sánh với một số giai đoạn khác để tìm hiểu vấn đề
lịch đại liên quan đến di tích.
3



- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Đề tài Luận văn tập trung vào các
di tích, di vật của di tích Đầu Rằm và các mối quan hệ của di tích với các
di tích thời đại Kim khí ở vùng duyên hải Đông Bắc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong nghiên cứu khảo cổ học, để
luận giải các vấn đề về biến đổi kinh tế, xã hội, các mối giao lưu và hội
nhập văn hóa của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử trong
phạm vi liên quan đến đề tài.
Dựa vào lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi nghiên cứu về
di tích Đầu Rằm, tác giả coi đó là một thành tố khả biến, tức phải đặt trong
bối cảnh lịch sử, có sự hình thành, phát triển và biến đổi, từ đó làm cơ sở
để giải thích những biến đổi, những hiện tượng tìm thấy ở các di tích, di
vật dưới tác động của các yếu tố khác nhau.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khảo cổ học: điền
dã, khai quật, thống kê, mô tả, phân loại, so sánh… Đây là phương pháp
chính để tác giả tiếp cận nghiên cứu di tích.
- Phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành: tác giả sẽ sử
dụng những nghiên cứu của các ngành khác như Địa chất, Địa lý - Nhân
văn, Dân tộc học, Văn hóa học, Xã hội học tại địa phương, thu thập những
tài liệu, thông tin khác bổ trợ cho việc nghiên cứu Khảo cổ học.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sẽ tập hợp những công
trình nghiên cứu về di tích Đầu Rằm từ các nguồn khác nhau như sách,
chuyên khảo, Kỷ yếu Hội nghị... Những nội dung liên quan đến di tích này
sẽ là nguồn tài liệu chính. Ngoài ra, các tài liệu thứ cấp như những nghiên
4



cứu về địa chất, môi trường hay các địa điểm có mối quan hệ với di tích
Đầu Rằm cũng được phân tích làm cơ sở để nghiên cứu, so sánh các di
tích trong bối cảnh đồng đại hoặc lịch đại của chúng.
- Một số khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài Luận văn:
+ Tư liệu vật thật (di vật) hiện lưu giữ ở Bảo tàng tỉnh Quảng
Ninh không đầy đủ. Bảo tàng hiện chỉ lưu giữ những hiện vật đặc biệt,
như đồ đá, đồ đồng, đồ sắt… và chỉ một số ít mảnh gốm. Vì thế, khi tác
giả quay trở lại Bảo tàng để nghiên cứu thì không có cơ hội được tiếp cận
những di vật đã bị bỏ đi, đặc biệt là đồ gốm.
+ Một số cuộc khai quật chưa có báo cáo đầy đủ (tiêu biểu là
cuộc khai quật năm 2005). Thông tin về cuộc khai quật này mới chỉ có ở
một số bài thông báo ngắn gọn, tản mát. Chưa có những thống kê rõ ràng
hay rất ít hình ảnh được công bố. Vì vậy, những hình ảnh, bản vẽ, bản dập
tác giả sử dụng trong Luận văn chủ yếu từ hai cuộc khai quật năm 1998 và
2009.
+ Hiện trạng di tích đang dần bị phá hủy, xâm hại do dân địa
phương khai thác đá làm vật liệu xây dựng, ảnh hưởng đến cảnh quan di
tích hiện tại cũng như có một số khó khăn nhất định khi tác giả muốn quay
lại nghiên cứu thêm.
+ Dù đã được khảo sát, khai quật nhiều lần nhưng cho đến nay,
chưa có một mẫu than, mẫu đất, mẫu đá, đồng,… nào được phân tích để
xác định niên đại tuyệt đối, hay cho những bằng chứng về môi trường, kỹ
thuật, tư liệu bào tử phấn hoa ở di tích Đầu Rằm. Tất cả những đánh giá về
di tích này phần lớn dựa vào những so sánh, phân tích, phân loại loại hình
học là chủ yếu.
Tác giả đã cố gắng thu thập tư liệu từ các nguồn khác nhau, tuy
nhiên, do những khó khăn nêu trên Luận văn vẫn còn thiếu nhiều thông tin
5



để phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá một cách toàn diện về di tích
Đầu Rằm. Tác giả sẽ cố gắng hoàn thiện trong những nghiên cứu tiếp
theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đóng góp những tư liệu quan trọng về
mặt khoa học về hệ thống di tích, di vật ở Đầu Rằm, từng bước phục dựng
lại đời sống của cư dân cổ xưa, góp phần bổ sung tư liệu mới cho ngành
Khảo cổ học/Văn hóa/Lịch sử.
- Ý nghĩa thực tiễn: hệ thống lại các di tích, di vật đã thu được
trong các đợt điều tra, thám sát, khai quật, đưa ra những đặc trưng của các
di tích, di vật đó, xác định niên đại và thử tìm hiểu các mối quan hệ văn
hóa của di tích Đầu Rằm với các di tích thời đại Kim khí ở vùng duyên hải
Đông Bắc Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng là cơ sở khoa học cho việc định
hướng bảo tồn di tích, phát huy giá trị di sản văn hóa/lịch sử của di tích,
làm phong phú thêm cho lịch sử địa phương, góp phần thúc đẩy việc thu
hút du lịch ở vùng Vịnh Hạ Long.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về di tích Đầu Rằm
Chương 2. Đặc trưng di tích và di vật của di tích Đầu Rằm
Chương 3. Vị trí Đầu Rằm trong các mối quan hệ

6


Chương 1

TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH ĐẦU RẰM
1.1. Điều kiện tự nhiên
Di tích Đầu Rằm là tên gọi của một địa điểm khảo cổ học, dựa
theo tên gọi của dãy núi Đầu Rằm, thuộc thôn 3, xã đảo Hoàng Tân,
huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh (nay thuộc xã Hoàng Tân, thị xã
Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh). Núi Đầu Rằm vốn là hai ngọn núi thấp,
nằm hơi chếch nhau, tạo thành hình cánh cung nằm ven biển ở phía tây
nam của đảo Hoàng Tân. Phía Nam của dãy núi là vùng đầm nuôi tôm,
phía bắc là vùng đầm và ruộng lúa, phía đông là thôn 2 và phía tây là vùng
đầm nuôi tôm nhìn về các xã Tân An, Tiền An và Hà An của thị xã Quảng
Yên. Bao quanh khu di tích là sông Hàm Rồng ở phía bắc và sông Bến
Giang ở phía tây nam.
Sự dao động của mực nước biển không chỉ là sự biến đổi về địa
chất mà còn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
cũng như các phương thức khai thác kinh tế của cư dân nơi đây. Sự thay
đổi địa hình, địa mạo do hoạt động địa chất này là nguyên nhân chính dẫn
đến sự thay đổi nơi cư trú của con người và các sinh vật sinh sống trong
khu vực.
Bên cạnh sự dao động của mực nước biển, những biến động của
thiên nhiên, ngoài những điều kiện thuận lợi còn có không ít thách thức
đối với cư dân vùng duyên hải như thiên tai. Những tác nhân này không
chỉ tác động trực tiếp đến sự phân bố của các di tích khảo cổ học qua các
thời kỳ, mà còn ảnh hưởng đến sự định cư, chuyển cư và phương thức
sống của cư dân địa phương. Di tích Đầu Rằm cũng không tránh khỏi quy
luật đó.

7


Rất tiếc, cho đến nay, những nghiên cứu về bào tử phấn hoa trong

các di tích thời đại Kim khí ở khu vực Vịnh Hạ Long nói chung và khu
vực Đầu Rằm nói riêng hầu như chưa có nên chúng ta chưa có nhiều bằng
chứng về thảm thực vật ở khu vực này.
1.2. Lịch sử nghiên cứu
Những dấu tích đầu tiên của di tích Đầu Rằm được phát hiện lần
đầu vào năm 1970, do người dân địa phương tìm được một số rìu bôn
bằng đá và hiện vật đồ đồng, đồ gốm. Sau đó, hàng loạt cuộc điều tra,
khảo sát đã được tiến hành ở di tích này và các nhà nghiên cứu đã có
những đánh giá ban đầu khác nhau về di tích.
Di tích Đầu Rằm được khai quật ba lần (5/1998; 9/2005 và
9/2009) do Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh và
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh thực hiện.
Tiểu kết chương 1
Di tích Đầu Rằm là một trong những di tích khảo cổ học nằm ở
ven biển Đông Bắc Việt Nam, chịu ảnh hưởng lớn từ những sự thay đổi
về địa chất, địa mạo, đặc biệt là sự dao động của mực nước biển qua mỗi
thời kỳ.
Qua ba cuộc khai quật và nhiều đợt khảo sát, các nhà nghiên cứu
đã thu được ở di tích Đầu Rằm một khối lượng di tích, di vật rất lớn. Đa số
các ý kiến cho rằng di tích Đầu Rằm có hai giai đoạn rõ ràng, giai đoạn
sớm tương đương với văn hóa Phùng Nguyên và giai đoạn muộn tương
đương với lớp văn hóa Đông Sơn, loại hình Đường Cồ. Tuy nhiên, vẫn
chưa có sự thống nhất cao ở một số nhận định về di tích này do những
nhận thức từ khối tư liệu ở mỗi đợt khai quật hay khảo sát có sự khác biệt.
Điều này cũng dễ hiểu, vì mỗi đợt khai quật, các nhà nghiên cứu chỉ có thể
đào được những hố nhỏ, ở những vị trí khác nhau, do đó, tư liệu thu được
8


cũng cho kết quả không giống nhau. Vì vậy, rất cần có những công trình

tổng hợp lại các dữ liệu này, phân tích, so sánh để có cái nhìn tổng quan
nhất về di tích.
Chương 2
ĐẶC TRƯNG DI TÍCH VÀ DI VẬT CỦA DI TÍCH ĐẦU RẰM
2.1. Đặc trưng di tích
2.1.1. Tầng văn hóa
Về cơ bản, địa tầng các hố có đặc điểm sau:
- Khu vực trũng yên ngựa địa tầng rất dày, có hai lớp sớm muộn.
Lớp văn hóa sớm dày khoảng 20cm - 50cm chứa các di vật có niên đại
tương đương giai đoạn Phùng Nguyên - Tràng Kênh. Lớp muộn dày
khoảng 90cm - 125cm chứa các di vật thuộc giai đoạn Đông Sơn điển
hình đến muộn [8; 34]. Hai lớp đất này có một lớp vô sinh ngăn cách [34,
tr. 5].
- Khu vực chân núi phía nam núi Đầu Rằm nhỏ là một bãi cát khá
rộng, cũng có hai giai đoạn sớm muộn. Lớp đất giai đoạn sớm dày từ
14cm - 186cm, phân bố rộng khắp bãi cát, chứa các di vật và 1 mộ táng
còn di cốt, thuộc giai đoạn Phùng Nguyên – Tràng Kênh. Lớp đất giai
đoạn muộn là những mộ táng thuộc giai đoạn Đông Sơn chôn vào tầng
văn hóa lớp sớm[19; 20; 34].
- Khu vực sườn núi phía bắc núi Đầu Rằm nhỏ không có vết tích
cư trú, chỉ có dấu tích một khu bếp tạm thời hoặc nơi chế tác công cụ tạm
thời của cư dân giai đoạn Đông Sơn [34].
- Khu vực gần chân núi Đầu Rằm lớn tầng văn hóa dày 60cm 80cm, là vết tích của giai đoạn sớm. Giai đoạn muộn có tầng văn hóa
mỏng, chứa một số mảnh đồng và 1 mộ vò kiểu Hán [8].
2.1.2. Sự phân bố các di tích
9


2.1.2.1. Di tích đống rác bếp
Có một di tích đống rác bếp, nằm ở phần trũng núi Đầu Rằm nhỏ

và lan xuống khu vực sườn núi. Trong hố không tích tụ tầng văn hóa mà
chỉ thấy than tro và một vài mảnh gốm. Xung quanh than tro có nhiều vỏ
nhuyễn thể (500 mảnh vỏ nhuyễn thể và 50kg xương cá, xương thú…),
không có vết tích cư trú [34, tr. 7].
2.1.2.2. Di tích mộ táng
Mộ táng trong di tích Đầu Rằm được phát hiện khá nhiều qua 3
mùa khai quật. Chúng phân bố chủ yếu ở phần bãi cát dưới chân núi Đầu
Rằm nhỏ. Hiện tại, mới chỉ có 1 mộ thuộc giai đoạn sớm được tìm thấy ở
hố H2 năm 2009, còn lại là các mộ thuộc giai đoạn muộn, chôn lẫn vào
tầng văn hóa của giai đoạn sớm.
2.1.2.3. Di tích xương động vật, sừng, vỏ nhuyễn thể
Ở giai đoạn sớm, các di tích xương động vật, vỏ nhuyễn thể hầu
như xuất hiện ở trong hố 09.H1- hố khai quật nằm trên bãi cát nhưng sát
chân núi Đầu Rằm nhỏ. Bên cạnh đó, nhiều mảnh xương, răng động vật
và 1kg xương cá cũng được tìm thấy.
Giai đoạn muộn: các di tích xương động vật và vỏ nhuyễn thể
xuất hiện ở tất cả các lớp, và xuất hiện dày đặc ở khu vực “đống rác bếp”.
Các nhà nghiên cứu giám định được nhiều loài từ thú rừng tới động vật
nuôi và vỏ trai, ốc.
2.2. Đặc trưng di vật
2.2.1. Đồ đá
2.2.1.1. Nguồn nguyên liệu
Chất liệu chính ở hiện vật đá Đầu Rằm gồm đá ngọc nephrite,
quartzite, spilite, jasper, bazalt, diabazer, sa thạch và cuội sông… Trong

10


đó, tùy từng loại đá mà người Đầu Rằm có những chế tác công cụ phù
hợp.

Khi nghiên cứu nguồn gốc các nguồn nguyên liệu chế tác đá ở
Đầu Rằm, nhiều người cho rằng, với tính chất là một xưởng chế tác đá thì
khả năng cao người Đầu Rằm cổ đã khai thác nguyên liệu ở gần nơi sống,
ở những núi đá vôi, hay các loại cuội ở sông suối.
2.2.1.2. Kỹ thuật chế tác đá
Cư dân cổ Đầu Rằm đã làm chủ rất nhiều kỹ thuật tinh xảo, thể
hiện trình độ kỹ thuật rất cao trong chế tác đá. Những kỹ thuật phổ biến
được biết đến hiện nay là: mài, cưa, cắt, gọt, khoan. Có ba kỹ thuật đặc
trưng riêng cho loại di chỉ xưởng ở di tích Đầu Rằm hiện được biết gồm:
Kỹ thuật tu chỉnh ép trực tiếp, Kỹ thuật cưa, cắt đá, Kỹ thuật khoan tách
lõi vòng đá.
2.2.1.3. Các loại hình di vật đá
a. Công cụ sản xuất: gồm các loại như Công cụ ghè đẽo, rìu, bôn,
đục, búa, lưỡi cưa, mũi khoan, bàn mài, bàn nghiền, chày nghiền, hòn
nghiền, hòn ghè, hòn kê, đá có lỗ vũm, đá ghè tròn… cũng được tìm thấy
ở di tích này.
b. Vũ khí: 3 mũi nhọn, 2 mũi tên, 1 mũi lao
c. Đồ trang sức: nhóm hiện vật này bao gồm vòng tay, hạt chuỗi,
khuyên tai/nhẫn, được làm từ đá Nephrite hoặc Jade màu trắng ngà hoặc
xanh đen, được chế tác bằng kỹ thuật khoan tách lõi sau đó được mài
nhẵn, đánh bóng.
d. Hiện vật chưa xác định: 6 hiện vật.
e. Đá nguyên liệu: gồm những mảnh lưỡi, đốc, thân rìu, bôn, đục; Đá
nguyên liệu chế tác mũi khoan, Đá nguyên liệu chế tác rìu, bôn, đục,

11


Mảnh đá nguyên liệu nephrite có dấu cưa, Mảnh đá nguyên liệu có dấu
mài.

g. Phế vật: là những phần bỏ đi sau khi chế tác đá, bao gồm lõi
vòng/khuyên, nhẫn, và các mảnh tước.
Ngoài ra, trong đất sàng lọc qua nước ở hố đào chỉ 2m2 năm
2005, những người khai quật đã tìm được 11.318 hiện vật bao gồm những
mảnh cưa đá, bàn mài các loại, đá nguyên liệu, mảnh vảy tước, mảnh đá
có dấu cưa, mảnh khuyên tai, phác vật mũi khoan, đá có lỗ khoan, lõi
vòng, mảnh đồng, dây đồng và công cụ xương.
2.2.2.Đồ đồng
2.2.2.1. Nhóm hiện vật đồng trong di chỉ
- Công cụ sản xuất: gồm các loại như rìu, đục, mũi nhọn và lưỡi
câu chiếm số lượng lớn nhất trong tổng số đồ đồng thu được.
- Vũ khí: các nhà nghiên cứu đã tìm thấy tổng số 42 hiện vật trong
khu di chỉ, gồm mũi tên, mũi giáo, mũi lao.
- Đồ trang sức: có 30 hiện vật được tìm thấy trong di chỉ, gồm
các loại khuyên tai, vòng và trâm cài đầu.
- Nhạc cụ: là 2 chiếc nhạc khí có kích thước nhỏ, gồm chuông
đồng và lục lạc đồng.
- Mảnh đồng: có 148 mảnh đồng nhỏ được tìm thấy. Tuy nhiên
do đây là những mảnh bị vỡ rất nhỏ từ những hiện vật, không thể xác định
đó mà hiện vật nào [8; 34].
2.2.2.2. Nhóm đồ đồng tùy táng
- Công cụ sản xuất: có 3 chiếc rìu lưỡi xéo, 3 lưỡi rìu xòe cân, 1
lưỡi câu và 1 mảnh mũi rìu. Riêng chiếc mũi rìu, do bị vỡ quá nhiều nên
không xác định thuộc loại nào.
- Vũ khí: gồm 4 mũi giáo, 1 mũi lao, hộ tâm phiến
12


- Đồ trang sức: là 1 mảnh vòng tay có mặt cắt ngang thân hình
tròn.

- Đồ gia dụng: nhóm đồ gia dụng chỉ xuất hiện trong các mộ táng
mà chưa tìm thấy trong di chỉ, bao gồm sanh đồng, thạp đồng và một số
mảnh chân bình.
- Mảnh đồng: 31 mảnh đồng nhỏ.
2.2.2.3. Đồ đồng sưu tầm gần di chỉ: gồm có 2 chiếc thạp đồng. Chiếc
phát hiện năm 2008 là chiếc thạp có nắp và chiếc thạp phát hiện năm 2009
(trong sưu tập tư nhân) không có nắp. Thạp mang đặc trưng văn hóa Đông
Sơn.
2.2.3. Đồ sắt
Số lượng hiện vật sắt ở địa điểm Đầu Rằm bao gồm 1 cuốc, 1
mũi nhọn trong khu di chỉ trên núi Đầu Rằm nhỏ và 2 chiếc mai, 2 mảnh
sắt là đồ tùy táng.
2.2.4. Đồ chì (?)
Cho đến nay, hiện vật bằng chì mới chỉ xuất hiện trong hố khai
quật H1 năm 1998. Đó là 3 chiếc khuyên tai có dáng đơn giản, được uốn
cong từ những đoạn dây. Khuyên tai còn khe hở, có mặt cắt hình tròn.
Những người khai quật cho rằng chúng được làm từ chì, do có trọng
lượng khá nặng và lõi màu ánh bạc [34, tr. 24].
2.2.5. Đồ xương, sừng
Nhóm công cụ bằng xương: có 124 hiện vật là những mũi nhọn
được chế tác từ những mảnh xương thú (34 mảnh), sừng thú (7 mảnh)
hay xương lườn cá (90 mảnh), trong đó công cụ mũi nhọn từ xương cá
chiếm số lượng nhiều hơn.
Vũ khí: có 1 mảnh mũi tên đã bị gãy mất một bên cánh và đầu.

13


Nhóm đồ trang sức bằng xương, sừng bao gồm 10 hạt chuỗi đốt
sống cá, 3 vật đeo bằng sừng và 1 vật đeo bằng răng động vật.

2.2.6. Đồ gốm
2.2.6.1. Chất liệu
Đồ gốm ở Đầu Rằm có nhiều loại chất liệu khác nhau, nhưng
thuộc hai loại chính: gốm chắc và gốm xốp.
Gốm chắc: Ở loại gốm này, những người khai quật đã phân chia
chúng thành những loại gốm mang phong cách gốm văn hóa Phùng
Nguyên, gốm Mán Bạc và gốm mang phong cách Đường Cồ và gốm
Hán.
Gốm xốp: là loại gốm có trộn lẫn nhiều vụn vỏ nhuyễn thể vào
thành phần nguyên liệu. Loại gốm này thuộc loại xốp nhẹ, mặt ngoài có
nhiều lỗ, thấm nước nhiều, gốm bở. Gốm xốp Đầu Rằm rất giống đồ gốm
xốp tìm được trong di tích Tràng Kênh (Hải Phòng) nên các nhà nghiên
cứu gọi là “gốm Tràng Kênh”.
2.2.6.2. Kỹ thuật tạo gốm
Với những tư liệu hiện có, đồ gốm Đầu Rằm được chế tạo bởi
nhiều kỹ thuật khác nhau, tùy giai đoạn và tùy loại hình đồ gốm.
Với loại gốm chắc, đồ gốm thường được xử lý bề mặt khá tốt nên
mặt gốm thường nhẵn. Ở những mảnh gốm này, độ dày của xương gốm
khá đều, có thể người thợ gốm đã sử dụng bàn xoay để tạo gốm, nhất là ở
loại gốm Phùng Nguyễn và Đường Cồ. Các công đoạn từ chọn nguyên
liệu, sàng lọc và pha chế nguyên liệu và tạo hình thường được làm rất kỹ
để cho ra những sản phẩm khá đẹp, nổi bật là đồ gốm Phùng Nguyên. Độ
nung cho loại gốm này thường khá cao, ở mức 6000C – 8000C [21].
Với gốm xốp, người thợ gốm ở đây sử dụng kết hợp cả phương
thức bàn xoay kết hợp làm bằng tay. Những dấu vết thừng còn bám lại
14


trên mảnh chân đế cho thấy, người Đầu Rằm tạo dáng gốm trước, sau đó
mới gắn chân đế vào [18; 34]. Bên cạnh đó gốm xốp thuộc loại bở, dễ bị

vỡ và bong tróc nên có thể độ nung của đồ gốm này chưa cao, nhưng cũng
có thể do khâu chọn và nhào nguyên liệu chưa kỹ dẫn đến hiện tượng này
[34, tr.30].
Gốm Hán tuy không nhiều nhưng cũng có thể cho ta những thông
số cơ bản: được làm bằng bàn xoay, xương gốm thô pha nhiều đá cứng
màu sáng trắng, độ nung khá cao nên gốm rất cứng.
2.2.6.3. Hoa văn trang trí
Đối với đồ gốm Phùng Nguyên, có hai loại hoa văn chính là văn
kỹ thuật và văn trang trí. Hoa văn kỹ thuật chủ yếu là loại văn thừng thuộc
loại vừa, được tạo dáng song song với nhau, như vẫn thường thấy trên
gốm Phùng Nguyên. Hoa văn trang trí thường là những đồ án khắc vạch
hoặc chấm dải với nhiều loại khác nhau như khắc vạch kiểu chữ S rời
nhau, hay những đồ án đối xứng phức tạp, văn sóng nước, hình lá, khắc
chìm, các đường thẳng xiên song song hay cắt nhau tạo ô trám…, và các
băng chấm dải.
Hoa văn trên đồ gốm Mán Bạc có 10 mảnh trang trí văn thừng
vừa (trong tổng số 15 mảnh tìm được năm 2009).
Hoa văn trên đồ gốm kiểu Tràng Kênh: Hoa văn trên gốm xốp ở
đây gồm có các loại văn khắc vạch và văn in chấm, nổi bật là loại khắc
vạch hình lá, loại hình chữ nhật dài, hẹp, hai đầu hơi cong lồi, xếp tách rời
thành hai hàng so le nhau, và loại hoa văn khắc vạch đồ án đối xứng phức
tạp [34].
Hoa văn trên gốm Đường Cồ chủ yếu của là văn dấu thừng, được
chia thành các loại sau: văn thừng thô, thừng vừa, thừng mịn. Hoa văn trên

15


đồ gốm Hán chủ yếu là các hình ô trám rất thô và văn in ô vuông đặc
trưng cho đồ gốm Hán.

2.2.6.4. Loại hình
a. Hiện vật gốm
Hiện vật gốm được tìm thấy ở Đầu Rằm là những viên bi gốm
hình cầu (4 viên tìm thấy năm 2009) có chất liệu của gốm xốp Tràng
Kênh, có màu xám trắng, xám, hoặc nâu đỏ (do độ nung), vỏ ngoài khá
nhẵn, đường kính từ 1,3cm – 2cm.
Ngoài ra còn có 6 mảnh chạc gốm (tìm thấy năm 1998) cũng có
chất liệu gốm Tràng Kênh.
b. Đồ gốm mảnh
* Đồ gốm giai đoạn sớm.
- Đồ gốm Phùng Nguyên: tổng số mảnh gốm loại này hiện biết là
567 mảnh, trong đó có 308 mảnh miệng, 16 mảnh chân đế và 243 mảnh
thân.
- Đồ gốm kiểu Tràng Kênh (gốm xốp). có 2.211 mảnh miệng
trong tổng số 18.659 mảnh gốm xốp, có 130 mảnh chân đế.
- Gốm Mán Bạc: có 15 mảnh gồm 5 mảnh miệng và 10 mảnh
thân trang trí văn thừng vừa.
* Gốm giai đoạn muộn:
- Gốm Đường Cồ: tổng số là 143.175 mảnh gốm, bao gồm
10.554 mảnh miệng, 132.452 mảnh thân và 171 mảnh chân đế, trong đó
có 5.158 mảnh miệng có thể phân loại được. Ở loại hình gốm này, tác giả
dựa trên tiêu chí phân loại của đợt khai quật năm 1998.
- Gốm Hán: có 34 mảnh
c. Gốm tùy táng: Gồm 10 mảnh thân gốm Đường Cồ và vò gốm, mảnh
gốm Hán.
16


d. Gốm sưu tầm: chiếc bình gốm chắc có dáng khá độc đáo, hình tứ giác,
có các gờ nổi ở mỗi cạnh, hoa văn trang trí dày đặc từ mép miệng đến

chân đế với các môtif đặc trưng của văn hóa Phùng Nguyên.
Sự phân bố của đồ gốm càng củng cố thêm cho nhận định có hai
lớp sớm muộn ở Đầu Rằm và lớp sớm tương đương giai đoạn văn hóa
Phùng Nguyên, lớp muộn tương đương giai đoạn Đường Cồ của văn hóa
Đông Sơn.
Ở lớp sớm, gốm Tràng Kênh mới thực sự là loại gốm chủ đạo và
là đại diện của đồ gốm ở giai đoạn này. Loại gốm chủ đạo cho giai đoạn
muộn là gốm Đường Cồ.
Về cơ bản, gốm xốp Đầu Rằm rất giống đồ gốm xốp tìm được
trong di tích Tràng Kênh (Hải Phòng). Tuy nhiên, đồ gốm xốp Đầu Rằm
cũng có nét riêng, là do sự khác biệt về thành phần khoáng sản trong đất
nguyên liệu được khai thác ở mỗi nơi khác nhau. Thường thì các nhóm cư
dân hay khai thác nguồn đất sét gần nơi sinh sống để tạo đồ gốm nên sự
khác biệt này là dễ hiểu.
Tiểu kết chương 2.
Hệ thống di tích, di vật vô cùng phong phú ở di tích Đầu Rằm
cho thấy ngay từ thời Kim khí, các nhóm cư dân cổ đã định cư ở đây và
trong khoảng thời gian khá dài. Ở giai đoạn sớm, di tích Đầu Rằm mang
đặc trưng cơ bản của một di chỉ - xưởng - mộ táng mà tính công xưởng là
đặc điểm nổi trội với việc khai thác và chế tác vòng và mũi khoan bằng
đá. Công cụ và đồ trang sức được tạo từ đá Nephrite là chủ đạo. Đồ gốm
có loại gốm Phùng Nguyên, Mán Bạc, Tràng Kênh nhưng chiếm áp đảo là
gốm xốp Tràng Kênh với kiểu miệng mái là nổi bật nhất. Giai đoạn muộn
mang đặc trưng của một di chỉ - xưởng - mộ táng với cấu trúc không gian
sinh sống được tổ chức khá chặt chẽ, tính ổn định của một “làng nông
17


nghiệp – ngư nghiệp” thể hiện khá rõ. Bộ đồ đồng vừa có những yếu tố
của văn hóa Đồng Đậu lại vừa có những yếu tố của giai đoạn muộn (pha

sắt trong thành phần hợp kim). Đồ gốm giai đoạn này mang đặc trưng
gốm Đường Cồ.
Cần lưu ý là hai giai đoạn này không phát triển liên tục mà có sự đứt
quãng một thời gian khá dài (bằng chứng ở lớp vô sinh ở hố H1 năm 1998)
nên rất có thể chủ nhân của hai lớp văn hóa này ít có liên quan đến nhau.
Chương 3
VỊ TRÍ ĐẦU RẰM TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ
3.1. Đặc điểm di tích Đầu Rằm
3.1.1. Niên đại, tính chất, chủ nhân
Khi nghiên cứu về niên đại của di tích Đầu Rằm, các nhà nghiên
cứu khá thống nhất khi cho rằng, có hai lớp văn hóa sớm - muộn tồn tại ở
đây. Lớp văn hóa sớm có niên đại tương đương văn hóa Phùng Nguyên
với sự tồn tại của những mảnh gốm chắc kiểu Phùng Nguyên và gốm xốp
kiểu Tràng Kênh. Lớp văn hóa muộn có niên đại tương đương giai đoạn
Đông Sơn muộn, loại hình Đường Cồ do có rất nhiều mảnh gốm kiểu
Đường Cồ được tìm thấy.
Tác giả cho rằng, mốc kết thúc của giai đoạn muộn có thể ở vào
khoảng thế kỷ I - II sau CN. Như vậy, theo tác giả, niên đại của di tích
Đầu Rằm có thể là: giai đoạn sớm ở vào khoảng 3.400, 3.300 - 3.000 BP
và giai đoạn muộn nằm trong khoảng 2.700 BP - 1.800 BP.
Về tính chất của di tích, Với những tư liệu hiện có, tác giả cho
rằng, di tích Đầu Rằm mang đậm tính chất của một di chỉ - xưởng - mộ
táng ở cả hai giai đoạn, dù tính chất xưởng ở giai đoạn muộn mờ nhạt hơn
giai đoạn sớm.

18


Về chủ nhân của di tích Đầu Rằm, cho đến nay, di cốt người mới
tìm được ở 1 mộ táng giai đoạn sớm và 1 mộ táng gần đó [19; 33]. Mảnh

xương hàm dưới gần địa điểm Đầu Rằm thuộc loại nhỏ, mang dáng dấp
của hàm Mongoloid. Nghiên cứu hình thái xương hàm và răng ở Đầu
Rằm, các nhà nhân chủng học thấy vừa có nét Australoid lại vừa có nét
Mongoloid [52, tr. 57 - 60].
3.1.2. Đời sống vật chất
Trước hết là những hoạt động ăn - mặc - ở - đi lại. Ở giai đoạn
sớm, bữa ăn của người Đầu Rằm khá phong phú, bao gồm những sản vật
từ biển, từ sông, từ núi, từ rừng…. Ở giai đoạn muộn, những tàn tích thức
ăn còn được tìm thấy nhiều hơn qua những mảnh nhuyễn thể và xương
động vật, xương cá dày đặc trong tầng văn hóa.
Sự tồn tại của những chiếc dọi se sợi (đặc biệt ở giai đoạn muộn)
đã cho thấy người Đầu Rằm đã sử dụng vải để làm đồ mặc.
Không những thế, người Đầu Rằm cổ còn có rất nhiều các hoạt
động kinh tế khác nhau. Nghề làm nông, nghề khai thác thủy - hải sản,
nghề làm gốm, chăn nuôi, săn bắt thú rừng, nghề khai thác và chế tác đá,
đặc biệt là ở giai đoạn sớm, nghề chế tác đồng, thương nghiệp.
3.1.2. Đời sống tinh thần
Cư dân cổ Đầu Rằm đã có một đời sống tinh thần khá phong phú
và đặc sắc. Dù ở giai đoạn nào, người Đầu Rằm cũng có nhu cầu làm đẹp,
được thể hiện qua những bộ trang sức. Họ không chỉ làm đẹp cho mình,
mà còn đưa những sản phẩm làm đẹp ra bên ngoài. Bước sang giai đoạn
muộn, khi đồ đồng lên ngôi, người Đầu Rằm cũng sử dụng luôn nguyên
liệu đồng để làm đồ trang sức (vòng tay, trâm cài đầu). Ngoài ra, họ cũng
rất ưa chuộng sử dụng xương, sừng động vật để làm.

19


Tư duy thẩm mỹ của người Đầu Rằm được thể hiện trong việc
chế tác gốm, đặc biệt là việc tạo hoa văn trên đồ gốm. Sang giai đoạn

muộn, cũng giống như nhiều địa điểm văn hóa Đông Sơn khác, khuynh
hướng hình học trên đồ gốm không còn nhiều, chỉ được thể hiện theo
hướng tả thực qua những môtif văn nhăn tàn ong.
Đời sống tinh thần của cư dân cổ Đầu Rằm còn được thể hiện qua
tư liệu mộ táng. Riêng giai đoạn Đông Sơn, hầu hết các mộ táng đều có đồ
tùy táng cho thấy người cổ giai đoạn này đã có tục chia của. Đây cũng
chính là quan niệm “trần sao âm vậy” và quan niệm về thế giới bên kia,
tục “giết” hiện vật…
3.3.4. Đời sống xã hội
Ở giai đoạn sớm, sự phân hóa trong xã hội chưa nhiều và con
người sinh sống chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên là chủ
yếu, người Đầu Rằm có tục chôn người chết ở ngay trong khu cư trú mà
chưa có sự tách biệt.
Bước sang giai đoạn muộn, giai đoạn văn hóa Đông Sơn, bức
tranh đời sống của cư dân Đâu Rằm có sự thay đổi rõ rệt: sự bố trí không
gian sống rất hợp lý, hài hòa theo kiểu định canh định cư của một làng
nông nghiệp điển hình của người Việt cổ, kết hợp đánh bắt thủy hải sản.
Có thể đây là sự xung đột của cư dân Đầu Rằm với các nhóm cư dân
khác? [14].
Bên cạnh đó, những đồ tùy táng cũng cho thấy vai trò/thân phận
của từng cá nhân trong cộng đồng, đã có sự phân tầng xã hội khá rõ nhưng
chưa có tầng lớp thực sự giàu, cũng như chưa có sự thống trị của người có
vai trò “thủ lĩnh” của cộng đồng.
3.2. Di tích Đầu Rằm trong các mối quan hệ
3.2.1. Với các di tích thời đại Kim khí vùng duyên hải Đông Bắc
20


3.2.1.1 Với di tích Tràng Kênh
Khi so sánh với di tích Đầu Rằm, các nhà nghiên cứu đã nhận ra

sự tương đồng một cách đặc biệt giữa hai di tích này, từ cảnh quan sinh
thái, tính chất di tích cho đến hệ thống di vật. Những người trực tiếp khai
quật hai di tích này đều thừa nhận “…tính chất di chỉ xưởng ở dưới Đầu
Rằm không khác gì di chỉ Tràng Kênh” [8, tr. 155]. Sau này, trong các
nghiên cứu tiếp theo, hầu hết các nhà nghiên cứu đều gắn Đầu Rằm và
Tràng Kênh vào cùng một hệ thống di tích (loại hình di chỉ - xưởng).
Thậm chí, niên đại của di tích Tràng Kênh còn được sử dụng làm điểm đối
chiếu, so sánh và định niên đại cho di tích Đầu Rằm.
3.2.1.2. Với di tích hang Bồ Chuyến
Bồ Chuyến là một hang đá thuộc làng Yên Cư, xã Đại Yên, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Đây là một hang nằm trong hệ thống núi đá vôi
có độ cao khoảng 15m so với mặt nước biển, cách di tích Đầu Rằm chưa đầy
10km theo đường chim bay qua một vùng biển nông, hẹp. Nhiều hiện vật đá
đã được sưu tầm như rìu đá. đục đá, lõi vòng đá… Rất tiếc, hang Bồ Chuyến
hiện đã bị đánh sập nên việc khai quật, thám sát nghiên cứu hang gần như
không còn cơ hội.
Mặc dù di tích đã bị phá hủy, tư liệu nghiên cứu không còn nhiều,
nhưng chúng ta phần nào có thể nhận thấy sự tương đồng rất rõ của di tích
hang Bồ Chuyến với lớp sớm của di tích Đầu Rằm và Tràng Kênh, cả về cảnh
quan, di tích, di vật và tính chất của di chỉ.
3.2.1.3. Với các di tích mới phát hiện trên đảo Hoàng Tân
Trong quá trình khai quật tại Đầu Rằm năm 2009, đoàn công tác đã
nhận được một số thông tin về những di vật tìm thấy ở một số địa điểm khác
trên đảo Hoàng Tân và đã tiến hành khảo sát và phát hiện ba địa điêm là núi
Châm Chót, Mả Chuông và Hang Song và thấy nơi này có tầng văn hóa, có
21


các di vật khá tương đồng, thậm chí là giống với địa điểm Đầu Rằm cả về
chất liệu, trang trang trí lẫn các giai đoạn văn hóa (niên đại).

3.2.2. Với các di tích văn hóa Hạ Long
Văn hóa Hạ Long là tên gọi của một nền văn hóa khảo cổ chỉ một
nhóm các di tích thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới nằm ở ven biển Đông
Bắc Việt Nam mà chủ yếu phân bố xung quanh khu vực vịnh Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh, có niên đại khoảng 4500 - 4000 năm ở giai đoạn sớm,
giai đoạn muộn khoảng 4000 BP - 3500 BP [31].
Di tích Đầu Rằm cùng với hệ thống các di tích Tràng Kênh, Bồ
Chuyến, Núi Châm Chót, Mả Chuông, Hang Song được cho là có niên đại
khởi đầu từ khoảng 3.400 BP, khá trùng với thời điểm kết thúc của văn
hóa Hạ Long. Địa bàn phân bố của các di tích này cũng trùng lặp với địa
bàn của văn hóa Hạ Long. Chính vì thế có một số học giả đã cho rằng, di
tích Đầu Rằm thuộc văn hóa Hạ Long [12; 17]. Tuy nhiên, xét về bộ di
vật, ta sẽ thấy có nhiều điểm khác biệt.
Ở một khía cạnh khác, khi nghiên cứu đồ gốm owr đây là những
tín hiệu cho thấy, nhóm di tích Đầu Rằm – Tràng Kênh có nguồn gốc từ
văn hóa Hạ Long.
Tiểu kết chương 3.
Di tích Đầu Rằm là một di tích có vị trí khá quan trọng trong khu
vực duyên hải Đông Bắc, có niên đại nằm trọn trong thời đại Kim khí ở
Việt Nam, với hai giai đoạn sớm - muộn khác nhau. Dù ở giai đoạn nào
thì di tích cũng giữ vai trò như một di chỉ - xưởng - mộ táng với phương
thức khai thác kinh tế khá phong phú, từ làm nông nghiệp, khai thác thủyhải sản, săn bắt thú rừng, thuần dưỡng động vật, làm gốm, giao lưu trao
đổi với các nơi khác và đặc biệt là chức năng “xưởng” chế tác trang sức đá
ở giai đoạn sớm và chế tác lưỡi câu đồng ở giai đoạn muộn. Ở mỗi giai
22


đoạn khác nhau, cư dân Đầu Rằm đều có đời sống tinh thần khá phong
phú và có những cách tổ chức xã hội phù hợp. Bên cạnh đó, họ cũng có
những mối quan hệ tương đồng, gần gũi với nhóm cư dân Tràng Kênh, Bồ

Chuyến, Núi Châm Chót, Mả Chuông và Hang Song trong khu vực và có
thể có mối quan hệ nguồn gốc với cư dân văn hóa Hạ Long.
KẾT LUẬN
1. Di tích Đầu Rằm là một di tích thời đại Kim khí ở vùng duyên
hải Đông Bắc, gồm hai lớp văn hóa riêng biệt: lớp sớm (niên đại 3.400 –
3.000 BP) có tính chất là một di chỉ - xưởng, lớp muộn (niên đại 2.700 –
1.800 BP) có tính chất là một di chỉ - xưởng - mộ táng, chứa một khối
lượng lớn các di tích, di vật. Di tích ở Đầu Rằm chủ yếu là đống rác bếp
và mộ táng. Di vật ở đây có những nét đặc trưng tùy giai đoạn. Giai đoạn
sớm cos tính chất di chỉ - xưởng, chủ yếu là chế tác đồ trang sức bằng đá
nephrite. Đồ gốm giai đoạn sớm mang yếu tố của gốm xốp Tràng Kênh
chiếm tỉ lệ chủ đạo, những yếu tố khác như gốm Phùng Nguyên, Mán
Bạc, Hoa Lộc chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Di vật giai đoạn muộn gồm một số hiện
vật đá, đồ đồng chiếm số lượng lớn. Đồ gốm giai đoạn muộn mang phong
cách gốm Đông Sơn muộn giai đoạn Đường Cồ.
2. Cách tổ chức xã hội của cư dân Đầu Rằm có sự khác biệt, tùy
mỗi giai đoạn cụ thể. Ở giai đoạn sớm, người Đầu Rằm chôn người chết ở
ngay trong nơi cư trú, sự phân tầng xã hội chưa cao và chưa có sự phân
hóa rõ ràng giữa các ngành nghề. Sang giai đoạn muộn, nhóm cư dân ở
đây đã có một cơ cấu xã hội khá chặt chẽ với sự phân bố không gian sống
được quy hoạch rõ ràng. Ở giai đoạn này, sự phân hóa giàu nghèo đã xuất
hiện, tuy nhiên chưa thấy bóng dáng của tầng lớp rất giàu hay “thủ lĩnh” ở
đây. Có thể đã có nhiều cuộc xung đột giữa cư dân Đầu Rằm với các
nhóm cư dân khác.
23


×