Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH THÁI

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ
ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH THÁI

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ
ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN MINH ĐỨC

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” đây là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Thái


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ƯU
ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ ........................................................................................................... 7
1.1. Khái quát về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ ..................................................................................................................... 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ......................................................... 12
1.3. Nội dung pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ ........................................................................................... 18
1.4. Quá trình hình thành pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ ................................................................................ 20

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ
TRỢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DNVVN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............ 26
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ ................................................................................ 26
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Đà Nẵng ........................................... 39
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DNVVN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .............................................. 66
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
DNVVN từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng....................................................... 66
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối
với DNVVN từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ................................................ 68


3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng............................. 70
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ..... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN

: Doanh nghiệp

DNVVN


: Doanh nghiệp vừa và nhỏ

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư có tầm quan trọng chiến lược trong sự
tăng trưởng kinh tế và mang lại những tác động tích cực đến KT-XH của mỗi
quốc gia, mỗi địa phương. Với mục tiêu góp phần tạo dựng môi trường pháp
lý ngày càng thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh và cộng đồng
DN, đẩy mạnh thu hút đầu tư cho sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, Việt Nam luôn chú trọng xây dựng các chính sách ưu đãi
đầu tư và hỗ trợ đầu tư nhằm tạo ra một khung pháp lý hoàn thiện và phù hợp.
Hiện nay, theo thống kê của Cục Phát triển DN - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
ở Việt Nam có hơn 600.000 DNVVN đang hoạt động. Khối DN này đóng góp

khoảng 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân sách và chiếm khoảng 35%
vốn đầu tư của cộng đồng DN nói chung, thu hút hơn 05 triệu việc làm và
đóng góp gần 50% vào tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc gia hằng năm. Số tiền
thuế và phí mà các DNVVN tư nhân đã nộp cho Nhà nước đã tăng 18,4 lần
sau 10 năm. Trong đó, tại thành phố Đà Nẵng số lượng DNVVN chiếm 96%
trong tổng số DN đăng ký, đóng góp vào GDP khoảng 45% và giải quyết
khoảng 60% lao động toàn thành phố.
Mặt khác, thành phố Đà Nẵng là một trung tâm kinh tế của miền Trung
và Tây Nguyên, đang từng bước khẳng định địa vị của mình không chỉ ở Việt
Nam mà cả trên trường quốc tế. Sự phát triển KT-XH của Đà Nẵng thời gian
qua bên cạnh sự nỗ lực không biết mệt mỏi của chính quyền Đà Nẵng thì
cũng cần khẳng định vai trò vô cùng to lớn của các DNVVN trên địa bàn đã
nhận được nhiều sự ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ phía thành phố thông
qua các chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư tiến bộ, phù hợp. Điều này
không chỉ làm cho thành phố Đà Nẵng phát triển mà còn là bài học kinh

1


nghiệm cho các địa phương trong cả nước học tập cách thức hoạt động của Đà
Nẵng về thu hút đầu tư.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu
tư đối với DNVVN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã nảy sinh một số hạn
chế, bất cập và cần phải được giải quyết kịp thời như: quy định áp dụng mức
thuế suất thuế thu nhập DN đối với DNVVN đầu tư vào các địa bàn, lĩnh vực
ưu đãi đầu tư; bất cập trong xác định vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, đặc
biệt khó khăn để có thể được hưởng ưu đãi đầu tư. Các bất cập liên quan đến
chính sách hỗ trợ đầu tư như: hỗ trợ cho DNVVN tiếp cận vốn vay, hỗ trợ tài
chính đổi mới công nghệ, hỗ trợ DNVVN để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và trình độ quản lý DN... Tất cả các bất cập, hạn chế trên đang trở thành

vấn đề “nhức nhối”, gây ra không ít những khó khăn và trong một chừng
mực nào đó đã cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN. Xuất
phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về ưu đãi đầu
tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm
Luận văn Thạc sĩ Luật học, nhằm đáp ứng những yêu cầu cả về lý luận và
thực tiễn đang đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Kể từ khi Luật Đầu tư năm 2005 và Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực
thi hành đã có rất nhiều bài viết, tạp chí khoa học pháp lý nghiên cứu về ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN có thể các tác giả tiếp cận dưới
giác độ kinh tế hoặc pháp lý. Các công trình nghiên cứu dưới giác độ kinh tế
có thể kể đến đó là: Luận văn Thạc sĩ: “Hoàn thiện chính sách phát triển
DNVVN ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phạm Minh Tuấn,
năm 2005, Viện quản lý kinh tế - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
Luận văn Thạc sĩ: “DN công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thực trạng và giải pháp phát triển” của tác giả Nguyễn Thanh Bình, năm

2


2005, Viện quản lý kinh tế - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; cuốn
chuyên khảo “Phát triển DNVVN, kinh nghiệm nước ngoài và phát triển
DNVVN ở Việt Nam” do đồng tác giả Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hòa, Hà
Nội 2001... Mặt khác, nghiên cứu dưới giác độ pháp lý về ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ đầu tư đối với DNVVN cũng có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Luận văn Thạc sĩ: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư ở Việt Nam” của tác giả Lê
Thị Lệ Thu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006; Luận văn Thạc sĩ:
“Pháp luật của Việt Nam về ưu đãi đầu tư với thực tiễn ở tỉnh Quảng Ngãi”
của tác giả Phạm Thị Thanh Ngọc, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008;
Khóa luận tốt nghiệp: “Các biện pháp ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư theo
Luật Đầu tư 2005 và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Giang” của tác giả Đoàn

Thị Thúy Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011; Khóa luận tốt
nghiệp: “Các biện pháp ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2005 và
thực tiễn áp dụng tại tỉnh Nghệ An” của tác giả Nguyễn Thị Trà, Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2012 và bài báo: “Chủ trương, chính sách phát triển
DNVVN” của Ths. Trần Thị Lưu Tâm, Ths. Phạm Thị Liên Ngọc, đăng trên
tạp chí Tài chính kỳ I tháng 6/2016...
Tuy nhiên, mỗi bài viết chỉ đề cập dưới phương diện lý luận, nhìn nhận ở
các góc độ khác nhau và nghiên cứu ở các địa phương khác nhau. Cho đến
nay chưa có công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách tập trung
và đầy đủ vấn đề pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
Việt Nam về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, Luận văn kiến nghị những giải pháp nhằm

3


hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ đầu tư đối với DNVVN theo pháp luật Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ đầu tư đối với DNVVN;
- Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về ưu đãi đầu
tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN, từ đó đối chiếu với lý luận để đánh giá
thực trạng pháp luật về vấn đề nghiên cứu;
- Tìm hiểu thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư
và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; xác định

những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện và rút ra nguyên nhân của
các hạn chế, bất cập đó;
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn luận giải và kiến
nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định
pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật và thực
trạng thực hiện các quy định về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
DNVVN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì vậy, trong khuôn khổ giới hạn của luận văn Thạc sĩ Luật học việc
nghiên cứu đề tài chủ yếu tập trung trong các vấn đề sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
đối với DNVVN;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về ưu đãi
đầu tư đối với DNVVN mà chủ yếu là tập trung vào chính sách ưu đãi về

4


thuế, ưu đãi về địa bàn đầu tư, lĩnh vực đầu tư. Chính sách hỗ trợ đầu tư đối
với DNVVN thông qua các hỗ trợ cơ bản như: hỗ trợ tài chính, tín dụng; hỗ
trợ công nghệ; hỗ trợ nguồn nhân lực và trình độ quản lý; hỗ trợ về thủ tục
hành chính;
- Tìm hiểu thực trạng thực hiện các quy định này của pháp luật Việt Nam
tại các cơ quan hữu quan và các DNVVN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng kể
từ khi Luật Đầu tư năm 2005 và Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành
cho đến nay, rút ra những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Để nghiên cứu đề tài, Luận văn đã vận dụng phương pháp luận về chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đồng thời, để đạt được mục đích đề ra Luận văn còn sử dụng phối kết
hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt trong Luận văn để
phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu
tư đối với DNVVN, phân tích thực trạng thực hiện các quy định trên làm cơ
sở lý luận của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN.
+ Phương pháp tổng hợp, đánh giá các số liệu thu thập được có liên quan
đến ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN làm cơ sở thực tiễn cho
việc đánh giá pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN ở
Việt Nam.
+ Phương pháp trao đổi, tham vấn thông qua việc trao đổi trực tiếp với các
cơ quan, tổ chức có liên quan, đặc biệt với các DNVVN trên địa bàn nghiên
cứu để nhận thức rõ hơn về vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở
lý luận về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN ở Việt Nam.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình khoa học ở trình độ Thạc sĩ nghiên cứu về ưu đãi
đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN ở cả phương diện lý luận và thực
tiễn. Do đó, kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ mang lại nhiều ý nghĩa, cụ
thể đó là:
- Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm luận cứ để

đề xuất, hoàn thiện những vấn đề lý luận về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối
với DNVVN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm nguồn tài
liệu phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của các đơn vị
đào tạo. Không dừng lại ở đó, dự kiến kết quả nghiên cứu của Luận văn có
thể làm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức và DN
Việt Nam khi thực hiện hoạt động ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với các
DNVVN trong khi những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn
đề trên còn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống.
7. Cơ cấu của Luận văn
Đề tài: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng” kết cấu gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết
luận. Nội dung được trình bày thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ đầu tư đối với DNVVN
Chương 2. Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối
với DNVVN tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi
đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI
ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1.1. Khái quát về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ

1.1.1. Quan niệm về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
Theo từ điển tiếng Việt thì ưu đãi “là việc dành cho những điều kiện,
quyền lợi đặc biệt hơn so với người khác”. Như vậy, có thể thấy ưu đãi có sự
phân chia đối lập quyền lợi giữa những đối tượng khác nhau, có thể dành cho
những đối tượng này những điều kiện cụ thể có lợi hơn mà với đối tượng khác
không thể có được, kết quả làm cho quyền lợi giữa các đối tượng không cân
xứng với nhau.
Theo định nghĩa Diễn đàn của Liên Hợp quốc về thương mại và phát
triển (UNCTAD) thì: “Khuyến khích đầu tư hay còn gọi ưu đãi đầu tư là các
biện pháp được Chính phủ sử dụng để thu hút đầu tư, hướng các dự án đầu tư
vào các ngành, các khu vực cần thiết hoặc ảnh hưởng đến tính chất của đầu
tư”. Có thể hiểu, ưu đãi đầu tư là tập hợp của nhiều biện pháp xúc tác rất đa
dạng và phong phú để thu hút đầu tư. Nhìn chung, trên thế giới ưu đãi đầu tư
có thể quy về hai nhóm chính: chính sách thuế khóa (tax policy) và chính sách
khác không phải thuế khóa (non – tax policy).
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một khái niệm thống nhất và chính thức về
ưu đãi đầu tư cũng như hỗ trợ đầu tư. Trong các văn bản pháp luật của Việt
Nam còn tồn tại song song nhiều thuật ngữ khác nhau như: “Ưu đãi đầu tư”,
“hỗ trợ đầu tư” được sử dụng trong Luật Đầu tư năm 2005 và Luật Đầu tư
năm 2014, “khuyến khích đầu tư” thì được sử dụng trong các văn bản pháp
7


luật về thuế... Tuy nhiên, những ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư đều được cụ thể
hóa bằng những quy định mang tính hiện thực và được xác định rõ trong các
văn bản pháp luật để nhà đầu tư xác định rõ, nắm bắt và thực hiện. Có thể thấy
rằng, ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư mang tính chất là một sự khẳng định đã
được luật hóa, là những cam kết rõ ràng về việc các nhà đầu tư được đối xử
một cách ưu đãi khi bỏ vốn vào một hoặc một số lĩnh vực, khu vực nhất định.
Khi các nhà đầu tư tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam, với chủ

trương phát triển kinh tế làm nòng cốt gắn liền với nghĩa vụ xã hội, Nhà nước
luôn khuyến khích các nhà đầu tư không chỉ trong nước mà nước ngoài sẽ
hưởng các ưu đãi đầu tư hoặc sẽ được hỗ trợ đầu tư nếu các nhà đầu tư đầu tư
vào các lĩnh vực mà Nhà nước quy định, đầu tư vào nơi có điều kiện KT-XH
khó khăn hoặc các ngành nghề thuộc danh mục ưu đãi đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên, cần xác định rằng, các ưu đãi này phải do Nhà nước quy định và
ban hành hoặc từng địa phương có những chính sách ưu đãi cụ thể nhưng
không được trái với các nguyên tắc của pháp luật, không một ưu đãi nào tự
các nhà đầu tư tự tạo ra cho mình hoặc các địa phương nhằm tạo điều kiện
phát triển KT-XH của địa phương mà ban hành các ưu đãi có lợi cho các nhà
đầu tư mà làm tổn hại đến mục đích của đầu tư.
Trên cơ sở đó, có thể rút ra định nghĩa về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
như sau: “Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là tất cả các chính sách do Nhà
nước ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hoặc tạo ra những lợi ích nhất
định cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài khi tiến
hành đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam mà theo quy định của pháp luật được
hưởng các ưu đãi đầu tư hoặc được hỗ trợ đầu tư trên cơ sở kết hợp hài hòa
giữa lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và lợi ích của các nhà đầu tư”.

8


1.1.2. Sự cần thiết của ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ
- DNVVN đóng góp vào tăng trưởng GDP, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo công ăn việc làm
Các DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số lượng
ngày càng nhiều và phân bố rộng khắp trong hầu hết các ngành, các lĩnh vực và
địa phương. Các DNVVN hiện nay đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm xã
hội, 31% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng

lượng vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực
DNVVN cũng thường cao hơn so với các DN khác. Điều đó chứng tỏ các
DNVVN có đóng góp lớn vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế.
Việc nhiều DN, chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại các vùng
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa sẽ làm giảm tỷ trọng ngành nông
nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp cho
việc chuyển dịch cơ cấu toàn bộ nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành
nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
Các DNVVN còn tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần xóa đói, giảm
nghèo. Việt Nam là một nước đang phát triển, có mật độ dân số cao, lực
lượng lao động tăng nhanh, quy mô vốn tích lũy nhỏ; vì vậy, phát triển
DNVVN ở nước ta là một lựa chọn đúng đắn trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các
DN lớn trong việc tạo ra việc làm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các DNVVN
cũng lại là những đối tượng tạo ra không ít việc làm cho xã hội.
- DNVVN làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Sự ra đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Với sự tồn tại của nhiều DN hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực sẽ làm
giảm tính độc quyền và buộc các DN phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục

9


đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Với tính linh hoạt của mình, các
DNVVN cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh thậm chí với các công ty lớn, các tập
đoàn xuyên quốc gia. Đồng thời, nhiều DNVVN đóng vai trò là vệ tinh cho
các DN lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động trong
sản xuất, làm tăng hiệu quả của chính các DNVVN cũng như của DN hợp tác.
- DNVVN gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình hoạt động, rất
cần đến sự ưu đãi và hỗ trợ từ phía Nhà nước

Quy mô vốn và năng lực tài chính của nhiều DN còn rất nhỏ bé, vừa kém
hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Do đó, tính khả thi của những định hướng
chiến lược mở rộng sản xuất, nâng cấp quy trình công nghệ bị hạn chế và làm
cho DN ít chủ động tính đến các phương án này. Hậu quả làm cho các
DNVVN dễ bị lún sâu hơn vào tình trạng tụt hậu.
Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu, triển
khai. Tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và
chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Nhiều DNVVN vẫn còn sử dụng
đan xen các thiết bị công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến tiên tiến; do vậy,
làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng
nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra.
Phần lớn các DN phải tự đào tạo tay nghề cho người lao động chứ không
phải lao động được đào tạo qua hệ thống trường dạy nghề tập trung điều này
dẫn đến chi phí cho đào tạo lao động cao, nhưng trình độ hiểu biết khoa học
kỹ thuật của lao động thấp. Năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và thấp,
chủ yếu là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém.
- Đội ngũ chủ DN, Giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều hạn
chế về kiến thức và kỹ năng quản lý, nhất là năng lực kinh doanh quốc tế
Khuynh hướng phổ biến là hoạt động theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn
chiến lược, thiếu các kiến thức trên các phương diện: quản lý tổ chức, phát

10


triển thương hiệu, chiến lược cạnh tranh... Khả năng tiếp cận thị trường kém,
đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. Khả năng quản lý tài chính yếu, ý thức
chấp hành các chế độ chính sách chưa cao, còn lúng túng trong việc liên kết,
nhất là liên kết trong cùng một hội ngành, nghề.
Như vậy, có thể nói rằng các DNVVN quá yếu ớt trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế: năng lực quản lý yếu, công

nghệ lạc hậu, vốn ít... Do đó, để các DN này phát huy được vai trò của mình
cần thiết phải có sự ưu đãi và hỗ trợ từ phía Nhà nước. Hơn nữa có nhiều vấn
đề mà DN không tự giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi,
xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào tạo nhân lực... Ngoài ra, còn
nhiều ưu điểm khác nếu được sự ưu đãi và hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm
bớt khó khăn cho DN, tạo điều kiện cho DN đứng vững trên thị trường và
phát triển thuận lợi. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, để DNVVN đứng
vững vươn lên, Nhà nước cần có các chính sách và các giải pháp hỗ trợ đắc
lực cho các DN này. Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có
lợi đối với các DN mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể
hiện trên các mặt:
- Trước hết, sự ưu đãi và hỗ trợ các DNVVN là cách thức để nuôi dưỡng
các nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Ưu đãi và hỗ trợ các DNVVN là một cách thức đầu tư gián tiếp của
Nhà nước. Thay vì Nhà nước phải đầu tư trực tiếp để thành lập mới các DN,
Nhà nước bằng việc ưu đãi và hỗ trợ cho các DN đã thành lập từ trước, đặc
biệt là các DN ngoài quốc doanh.
- Thông qua chính sách ưu đãi và hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát
triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn vì nó vừa huy động được tiềm năng sáng tạo
trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước.
- Bằng việc ưu đãi và hỗ trợ các DNVVN, Nhà nước cũng có thể giải
quyết được các vấn đề xã hội như thất nghiệp, tạo việc làm rất hiệu quả với
11


nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước có thể thông qua chính
sách ưu đãi và hỗ trợ để định hướng phát triển các DNVVN.
Tóm lại, việc Nhà nước thực hiện sự ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối
với các DNVVN là rất cần thiết bởi nó không chỉ mang lại lợi ích cho các DN
mà còn mang lại nhiều lợi ích cho Nhà nước và xã hội.

1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về ưu đãi đầu tư
và hỗ trợ đầu tư đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động thu hút đầu tư các nhà đầu tư của Nhà nước là một trong
những chiến lược quan trọng để phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Việc
tranh thủ nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng khi đất nước
đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trong bối cảnh đó,
thời gian qua để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đã
ban hành rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh về chính sách ưu đãi đầu tư
và hỗ trợ đầu tư đối với các DN nói chung trong đó có các DNVVN. Đây thực
chất là những chính sách ưu đãi đặc biệt mà Nhà nước dành cho các nhà đầu
tư nhằm khuyến khích họ bỏ vốn vào nhưng lĩnh vực, địa bàn mà khả năng
thu hút đầu tư còn hạn chế qua đó nhằm mục đích phát triển kinh tế và cân
bằng sự phát triển KT-XH trong những lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Trên cơ
sở đó, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN có thể
được hiểu như sau: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
DNVVN là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh
doanh của các DNVVN.”

12


Mục đích của pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
trước hết là nhằm thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn của họ đầu tư vào các lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh cụ thể. Việc hướng các quan hệ trong lĩnh vực đầu

tư theo một trật tự có định hướng, đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích cho
nhà đầu tư là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Nhà nước không chỉ quản lý hoạt động đầu tư bằng các nghị quyết, chủ
trương, đường lối mà cần phải cụ thể hoá các nghị quyết, chủ trương ấy thành
pháp luật, đảm bảo một hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư phát triển. Có
làm được điều này, Nhà nước mới có thể phát huy hết quyền lực và vai trò
quản lý của mình trong lĩnh vực đầu tư. Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư có hợp lý và hiệu quả thì mới đảm bảo được môi trường bình đẳng mà
ở đó các nhà đầu tư có thể phát huy hết năng lực của mình.
1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trên cơ sở khái niệm, có thể rút ra các đặc điểm của pháp luật về ưu đãi
đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN như sau:
- Thứ nhất, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
là công cụ để Nhà nước điều chỉnh hoạt động đầu tư. Nhà nước có thể và cần
phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau như chính
sách, kế hoạch đầu tư, đòn bẩy kinh tế, pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu
tư... Tuy nhiên, trong số các công cụ, biện pháp đó, pháp luật về ưu đãi đầu tư
và hỗ trợ đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng và mang những đặc điểm riêng,
bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật đó có khả năng triển khai
những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và
có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội.
- Thứ hai, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN là
công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gắn liền với Nhà nước và chỉ Nhà

13


nước mới sử dụng công cụ này. Nhà nước điều chỉnh mọi quá trình xảy ra
trong xã hội và hành vi của con người, trong đó có hoạt động đầu tư của các

DNVVN bằng quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được thực hiện bằng
một cơ chế thực thi pháp luật và nhờ có quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị
thực hiện ý chí của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục tùng bằng
cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà nước điều chỉnh
hoạt động đầu tư của các DNVVN bằng pháp luật. Do đó, chỉ có điều chỉnh
hoạt động đầu tư của các DNVVN bằng pháp luật thì quyền lực nhà nước mới
có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực.
- Thứ ba, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
phát sinh và phát triển phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của Nhà nước. Tuy
nhiên, sau khi pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN đã
được ban hành, các cơ quan nhà nước phải triệt để tuân thủ trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý đầu tư. Đây cũng là một trong những nội dung cơ
bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
- Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN, sự tồn tại của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
đối với DNVVN là một nhu cầu khách quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của
các quan hệ kinh tế. Đây là điểm khác biệt so với thời kỳ quan liêu, bao cấp,
vì ở thời kỳ này, sự tồn tại của pháp luật như một nhu cầu chủ quan bắt nguồn
từ những đòi hỏi của Nhà nước, là một phương tiện trong tay Nhà nước để
kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách duy ý chí.
Sự điều chỉnh hoạt động ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
bằng pháp luật phải bảo đảm cho hoạt động này vận động theo đúng những
quy luật khách quan, không thể áp đặt bằng ý chí chủ quan, duy ý chí. Bằng
pháp luật, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý để những nhà đầu tư

14


có thể tự chủ sản xuất kinh doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời
không làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác và toàn xã hội.

- Thứ năm, trong việc điều chỉnh quan hệ ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
đối với DNVVN, pháp luật quy định cho các bên tham gia một số quyền và
nghĩa vụ pháp lý nhất định. Đồng thời thiết lập cơ chế đảm bảo cho các quyền
và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện. Vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ
đầu tư do pháp luật điều chỉnh, các chủ thể phải có hành vi phù hợp với các
yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt động ưu đãi đầu tư và
hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN bằng pháp luật, không chỉ tác động tới các
hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư, mà còn tác động đối với toàn
xã hội nói chung.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ở Việt Nam, trong những năm qua với sự gia tăng nhanh chóng về
nguồn vốn đầu tư của các DN trong đó có rất nhiều DNVVN được thành lập
mới đã có những tác động tích cực đối với nền KT-XH, tạo nên sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Có được kết quả như vậy không ngoài
gì khác chính là xuất phát từ vai trò và việc phát huy tác dụng của các quy
định pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN của nước ta
trong thời gian qua. Có thể thấy, vai trò pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư đối với DNVVN thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
có vai trò to lớn trong việc thu hút vốn đầu tư. Mục đích của ưu đãi đầu tư và
hỗ trợ đầu tư trước hết là nhằm thu hút các dự án đầu tư vốn vào các lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh. Nhà nước ban hành các quy định pháp luật về ưu đãi
đầu tư và hỗ trợ đầu tư dựa trên các chủ trương, đường lối, chính sách về
hoạch định chiến lược phát triển kinh tế quốc gia theo từng giai đoạn. Từ đó,

15


tạo thành một hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư phát triển. Nhờ có các

quy định về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư nói chung và đối với các DNVVN nói
riêng mà dòng vốn sẽ tập trung vào địa bàn, lĩnh vực trọng yếu trong danh
mục khuyến khích đầu tư. Với vai trò này, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ đầu tư đối với DNVVN có ý nghĩa như một động lực thúc đẩy cải thiện
môi trường đầu tư, tạo sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư, giúp Nhà nước
huy động được những nguồn vốn dồi dào trong và ngoài nước.
- Thứ hai, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
giúp Nhà nước hoạch định cơ cấu kinh tế và rút ngắn khoảng cách vùng miền.
Các quy định về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư không áp dụng đồng đều cho tất cả
các địa bàn, ngành, lĩnh vực của nền kinh tế mà có những cấp bậc, mức độ
khuyến khích khác nhau. Tiêu chí cơ bản để phân chia mức độ ưu đãi ở các
ngành, các lĩnh vực, địa bàn kinh tế chính là ngành nào, lĩnh vực nào, địa bàn
nào cần thu hút nhiều vốn thì có nhiều ưu đãi đầu tư hơn. Do vậy, thông qua
chính sách ưu đãi Nhà nước có thể khắc phục được những mặt hạn chế trong
việc phát triển kinh tế cho từng ngành, lĩnh vực, địa bàn cụ thể và chủ động
cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng thích hợp. Một mặt tạo ra những lợi ích nhất
định cho nhà đầu tư, mặt khác giúp Nhà nước chuyển dịch cơ cấu kinh tế một
cách hợp lý và phát triển được các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn cần tập trung
đầu tư theo từng giai đoạn nhất định, từ đó phát triển đồng đều toàn bộ nền
kinh tế nói chung.
- Thứ ba, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
giúp cho các DNVVN tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và phương
pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Việc tiếp thu công nghệ và kỹ
năng quản lý hiện đại một cách nhanh chóng và hiệu quả không chỉ là nhiệm
vụ trước mắt mà còn là mục tiêu chiến lược. Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
giúp các các DNVVN có điều kiện tiếp nhận những công nghệ tiên tiến, hiện

16



đại trên thế giới, tận dụng được những lợi thế của nước đi sau, rút ngắn được
khoảng cách về khoa học kỹ thuật với các nước đi trước. Mặt khác, người lao
động của chúng ta làm việc tại các công ty nước ngoài sẽ được đào tạo lại,
đào tạo bổ sung để thích hợp và tiếp thu tác phong công nghiệp, kinh nghiệm
quản lý hiện đại của nước ngoài. Việc này sẽ dần tác động đến sự thay đổi
công nghệ, trang thiết bị, chất lượng sản phẩm, cơ chế hoạt động, kiến thức và
phương pháp quản lý của các DN trong nước, thúc đẩy cho các DN này đổi
mới để đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Thứ tư, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung cơ bản trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
giúp thu hút nguồn vốn đầu tư của các DN nói chung trong đó có các
DNVVN mà chủ yếu là các DN công nghiệp và dịch vụ công nghiệp; một mặt
góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng số GDP của các
ngành kinh tế tạo ra trên cả nước. Mặt khác, chúng ta thu hút được những dự
án có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao góp phần phát triển ngành nghề mới,
đa dạng hoá ngành nghề công nghiệp.
- Thứ năm, pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN
góp phần đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật đầu tư Việt Nam với
thông lệ quốc tế. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, hệ thống
pháp luật đầu tư nói chung cũng như các quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư
và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN nói riêng có vai trò quan trọng, nó không
chỉ có ý nghĩa tạo ra những lợi thế về cạnh tranh để thu hút được nhiều vốn
đầu tư mà xét trên góc độ khác nó còn là những chính sách, biện pháp cần
phải có. Việt Nam là một nước mở rộng quan hệ đối ngoại nói chung và quan
hệ hợp tác thương mại nói riêng với rất nhiều quốc gia trên thế giới. Nhận

17



thức được vai trò của nhà đầu tư trong phát triển kinh tế đất nước, chúng ta đã
ký kết và tham gia nhiều Hiệp định có liên quan đến lĩnh vực ưu đãi, hỗ trợ
đầu tư. Điều này cũng tạo thuận lợi đáng kể cho các nhà đầu tư Việt Nam khi
đầu tư vào các nước khác, đồng thời cũng thu hút được nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam. Tất cả những Hiệp định này đều chứa đựng
những ràng buộc hoặc không ràng buộc Nhà nước Việt Nam trong việc ban
hành các biện pháp ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Việt Nam cũng tham gia
vào các tổ chức thương mại, các diễn đàn hợp tác kinh tế xuyên quốc gia, để
được sự công nhận và tồn tại trong cộng đồng ấy thì hệ thống pháp luật phải
có sự tương đồng nhất định. Theo đó, các quy định về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư cũng phải được đặt ra và hoàn thiện nhằm tạo ra một môi trường pháp
lý lành mạnh cho đầu tư kinh doanh.
1.3. Nội dung pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhận thấy vai trò to lớn của DNVVN và tầm quan trọng của việc ưu đãi
và hỗ trợ đầu tư DNVVN phát triển, nhiều quốc gia đã xây dựng các quy định
về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN và nhờ đó phát triển được kinh tế
một cách nhanh chóng, mạnh và vững chắc. Hiện nay ở Việt Nam, các quy
định pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN được đề cập
trong Luật Đầu tư năm 2014 và Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
của Chính phủ quy định về trợ giúp phát triển DNVVN. Theo đó, tại Khoản 1
Điều 3 của Nghị định số 56/2009/NĐ-CP đã đưa ra các tiêu chí để xác định
DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ như sau:

18


Bảng phân loại DNNVV của Việt Nam
DN siêu nhỏ

Khu vực

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

Số lao

Tổng

Số lao

Tổng

Số lao

động

nguồn vốn

động

nguồn vốn

động

10 người

20 tỷ đồng


từ trên

từ trên 20

từ trên

trở xuống

trở xuống

10 đến

đến 100 tỷ

200 đến

200

đồng

300

II. Công nghiệp

10 người

20 tỷ đồng

từ trên


từ trên

từ trên

và xây dựng

trở xuống

trở xuống

III. Thương

10 người

10 tỷ đồng

mại và dịch vụ

trở xuống

trở xuống

I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản

10 đến

20 đến 100 200 đến


200

tỷ đồng

300

từ trên

từ trên

từ trên

10 đến

10 đến 50

50 đến

50

tỷ đồng

100

(Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009)
Đồng thời, tại Khoản 1 Điều 15 Luật Đầu tư năm 2014 đã quy định
chính sách ưu đãi đầu tư đối với DNVVN tập trung chủ yếu vào hai vấn đề
chính là ưu đãi chính sách thuế suất thuế thu nhập DN, thuế nhập khẩu và
chính sách miễn, giảm tiền thuế đất, cụ thể:
a) Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập DN thấp hơn mức thuế suất

thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp;
b) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố
định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư;
c) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất.
Mặt khác, liên quan đến chính sách hỗ trợ đầu tư đối với DNVVN Nhà
nước cũng đã ban hành rất nhiều các văn bản để điều chỉnh vấn đề trên. Có
thể kể đến các văn bản đang có hiệu lực đó là: Luật Đầu tư năm 2014, Nghị
19


×