Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KIỀU VĂN NAM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM,
CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN THỊ MINH TUYẾT

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Trần Thị Minh Tuyết, Học viện Báo chí và tuyên
truyền. Các nhận định nêu ra trong luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm
túc, độc lập của tác giả luận văn, dựa trên sự tìm tòi nghiên cứu các tài liệu
khoa học đã được công bố, đảm bảo tính khách quan, khoa học và trung thực.
Tác giả luận văn

Kiều Văn Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1


Chương 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ ........ 11
1.1. Các khái niệm có liên quan ................................................................................ 11
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, phòng chống tham ô,
lãng phí ...................................................................................................................... 15
Chương 2. NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH TIẾT KIỆM,
ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG LÃNG PHÍ, THAM NHŨNG THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............................ 30
2.1. Yêu cầu khách quan của việc thực hiện tốt công tác tiết kiệm, chống lãng phí,
tham ô trong giai đoạn hiện nay ................................................................................ 30
2.2. Thực trạng công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng ở nước ta
trong giai đoạn đổi mới ............................................................................................. 39
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng
chống lãng phí, tham ô theo tư tưởng Hồ Chí Minh ................................................. 56
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 69


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa.

DCCH

Dân chủ cộng hòa.

NSNN


Ngân sách nhà nước.

PCTN

Phòng chống tham nhũng.

UBND

Ủy ban nhân dân.

UVBCHTƯĐ

Ủy viên Ban thường vụ Trung Ương Đảng

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc và nhà tư tưởng
lớn của dân tộc Việt Nam. Dù đã đi xa nhưng vẫn để lại cho dân tộc Việt Nam
một di sản quý giá là hệ thống tư tưởng của Người. Thấu hiểu giá trị to lớn
trong tư tưởng của Người, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam (năm 1991) đã tuyên bố tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với

chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam hành động của
Đảng ta.
Một nội dung nổi bật trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh chính là
thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí - một biểu hiện cụ thể của đạo
đức cách mạng. Qua tác phẩm cũng như hoạt động cách mạng, sinh hoạt đời
thường của Người, chúng ta thấy rõ cái mà Người ghét cay, ghét đắng, ghét
vào tận tâm là thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời
gian của nhân dân.
Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, đất nước ta rơi vào
cảnh “thù trong giặc ngoài” với muôn vàn khó khăn, phức tạp. Nhiệm vụ cấp
bách trong lúc này là bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng chế độ mới
nhưng muốn đạt được các mục đích đó thì phải xây dựng đạo đức mới, lối
sống mới, nếp sống mới. Người nhấn mạnh:“Chế độ thực dân đã đầu độc dân
ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc
chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói
xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng
ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu
nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi
đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực
hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” [44, tr.7]. Ngay sau đó, Người đã phát động
toàn dân thực hiện “Đời sống mới” vì cho rằng hoàn cảnh đất nước khó khăn,
1


“toàn dân ai cũng khó nhọc vất vả… thì càng phải thực hành đời sống mới là
Cần, Kiệm, Liêm, Chính” [45, tr.112]. Đặc biệt, Người luôn cho rằng “Kiệm”
là một phẩm chất căn cốt của đạo đức cách mạng, người cán bộ phải là tấm
gương luôn đi đầu trong phong trào toàn dân tiết kiệm. Dù trong thời chiến
hay thời bình thì sự nghiệp cách mạng Việt Nam đều gặp rất nhiều khó khăn,
tiềm lực kinh tế của đất nước rất hạn chế nên trong mọi thời điểm, để thực

hiện mọi công việc, tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô luôn là “quốc sách”.
Với một nhà tưởng lớn như Hồ Chí Minh, yêu cầu của thực tiễn khách quan
tất yếu phải trở thành nội dung tất yếu trong suy ngẫm của Người. Vì thế,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô là một nội dung quan trọng trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Nghiên cứu nội dung này trong tư tưởng của Người giúp chúng ta hiểu sâu
hơn về tư tưởng cũng như cuộc đời “trong như ánh sáng của Người”.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, trong 30 năm Đổi mới Đảng ta không
chỉ tìm các biện pháp “đánh thức” các tiềm năng của dân tộc mà còn luôn
nhấn mạnh chủ trương thực hành tiết kiệm để dồn sức xây dựng đất nước.
Nhờ đó, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, đưa đất nước ta
không chỉ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội mà còn trở thành
một nước có thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, chính khi kinh tế có sự
“khởi sắc nhất định” thì vấn đề lãng phí, tham nhũng lại nổi lên và trở thành
“quốc nạn”. Do đó, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng là vấn đề vô cùng
cấp bách hiện nay. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại
Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, trước hết là
người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị. Kiên quyết
phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động, phòng ngừa, không
để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham
2


nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng,
lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí” [22, tr.211].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII còn ghi rõ: “Tình trạng tham
nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức
tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với

Đảng và Nhà nước”[22, tr.185]. Quá trình CNH – HĐH đất nước sẽ được rút
ngắn đáng kể, sức mạnh phòng vệ đất nước sẽ được nâng cao, đời sống của
nhân dân sẽ được cải thiện nếu chúng ta tiêu diệt được “quốc nạn” tham
nhũng, lãng phí tràn lan hiện nay. Để chống thứ “giặc nội xâm” hết sức nguy
hiểm này thì cần có rất nhiều quyết tâm, nhiều giải pháp – những vấn đề mà
chúng ta có thể tìm thấy sự gợi mở trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhất là khi
Bộ Chính trị khóa XII đã cho ra đời Chỉ thị 05 về “Đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” thì tư tưởng Hồ Chí
Minh về thực hành tiết kiệm, phòng chống tham ô, lãng phí và cuộc đời giản
dị, trong sáng rất mực của Người càng là cơ sở lý luận và thực tiễn cho công
tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm ở nước ta hiện nay.
Đó là 2 lý do chính thúc đẩy tôi lựa chọn đề tài " Tư tưởng Hồ Chí
Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí ” làm đề tài luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự thất thoát do tham nhũng gây ra những tổn thất to lớn cả về vật chất
lẫn tinh thần của một quốc gia đang trên đà phát triển như Việt Nam nên vấn
đề tham nhũng và phòng chốngtham nhũng là đề tài thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạt động chính trị. Còn tư tưởng Hồ
Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thì ít được đề cập đến trong
những công trình chuyên biệt. Phần lớn các tác giả chỉ xem xét vấn đề này
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng mà cần, kiệm, liêm, chính
là những phẩm chất hàng đầu. Vấn đề chống tham nhũng hiện nay trên cơ sở
3


kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí đã được đề
cập đến trong các công trình sau đây.
2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hồ Chí Minh (1947): “Sửa đổi lề lối làm việc”. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ

''Bệnh tham lam - những người mắc bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên
lợi ích của Đảng, của dân tộc do đó mà chỉ ''tự tư tự lợi" dùng của công làm
của tư.
Hồ Chí Minh (1952): “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí,
chống bệnh quan liêu”. Người đã bàn về tham ô, lãng phí, khẳng định rằng
đây là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp.
Võ Thị Thúy Hà (1996): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh và
phòng chống tham nhũng”.Tác giả đã khái quát những quan điểm lớn của Hồ
Chí Minh về vấn đề thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô khi nước ta
mới giành được độc lập [26].
Đào Trí Úc (1996): “Tham nhũng, nhận diện từ khía cạnh pháp lý và
cơ sở pháp lý mới của đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta”.Trong công
trình này, tác giả đã nhìn nhận vấn đề tham nhũng từ góc độ pháp luật và trên
cơ sở đó xác định cơ sở pháp lý mới trong đấu tranh chống tham nhũng ở
nước ta hiện nay [63].
Vũ Quốc Hùng (2005): “Đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham
nhũng dưới ánh sáng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”. Bài báo được đăng
trên Tạp chí Cộng sản, tháng 9 năm 2005. Tác giả đã chỉ ra tình trạng tham
nhũng ở nước ta càng trầm trọng, gây nhiều tác hại đến nhà nước và đề ra một
số giải pháp khắc phục tình trạng này.
Bùi Mạnh Cường, Nguyễn Thị Tố Như (2005): “Về phòng, chống tham
nhũng”. Các tác giả đã tập hợp những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng; thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí và
quan liêu qua 3 giai đoạn: Trước ngày 2-9-1945, từ ngày 2-9-1945 đến tháng
4


9-1945, từ tháng 10-1945 đến tháng 7-1969 [12]. Công trình này giúp độc giả
dễ dàng tra cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh về đề tài phòng, chống tham
nhũng.

Đỗ Nhật Tân (2007): “Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng” đăng
trên Tạp chí Triết học, số 10 (197), tháng 10 - 2007. Trong bài viết này, tác
giả đã nêu một cách khái quát về thực trạng, quy mô và tác hại của tham
nhũng đối với sự phát triển của xã hội; về cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong thời gian qua ở nước ta. Theo tác giả, hiệu quả của công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta chưa cao là do liều lượng của các
biện pháp phòng, chống tham nhũng hiện còn chưa đủ mạnh, chưa nhằm
trúng khâu đột phá. Khâu đột phá đó, như quan niệm của tác giả, là cần trừng
phạt nghiêm những kẻ tham nhũng, đặc biệt với những kẻ tham nhũng là đảng
viên – cán bộ.
Hoàng Chí Bảo (2013): “Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh”. Tác giả đã
phân tích những đặc điểm nổi bật trong đạo đức Hồ Chí Minh cũng như trong
quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Do sinh thời Hồ Chí
Minh luôn coi chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội nên tác giả đi
sâu phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về mối nguy hại do chủ nghĩa cá
nhân mang lại và giải pháp tư dưỡng đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một trong những quan điểm và cũng là phẩm chất nổi bật của Hồ Chí Minh là
tiết kiệm, giản dị nên đay cũng là một nội dung chính mà tác giả đã đi sâu
phân tích. Nội dung của cuốn sách đã giúp người đọc nhận thức sâu sắc
những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh
để từ đó học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người [8].
Ban Nội chính Trung Ương (2016): “ Một số vấn đề lý luận – thực tiễn
30 năm đổi mới về phòng, chống tham nhũng, lãng phí (1986 – 2016)”.Công
trình này đã chỉ ra sự phát triển nhân thức của Đảng về phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh
5


nghiệm rút ra rồi đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Điều đặc biệt của công trình này là đã đặt

ra yêu cầu hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tham nhũng để chống
lại vấn nạn tham nhũng có yếu tố nước ngoài và đối phó với hiện tượng cá tội
phạm tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài [5].
Nguyễn Xuân Trường (2016): “Phòng, chống tham nhũng trong các
tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay”. Tác giả đi sâu phân tích
và nhận dạng tình trạng tham nhũng, lãng phí trong các tập đoàn kinh tế
Nhà nước và thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng ở đó. Trên cơ
sở đó, tác giả dự báo tình hình và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả trong
công tác phòng chống tham nhũng ở các tập đoàn kinh tế nhà nước ở nước
ta hiện nay [62].
Phạm Ngọc Hiền và Phạm Anh Tuấn (2016): “Hỏi - đáp về phòng,
chống tham nhũng”. Nhóm tác giả đã đưa ra nhận thức chung về tham nhũng,
tội phạm tham nhũng, thực trạng công tác phòng chống tham nhũng ở quốc tế
và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như phương hướng, nhiệm vụ,
mục tiêu, yêu cầu, giải pháp trong công tác phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay. Công trình này được viết dưới dạng hỏi và đáp nên nó cung
cấp cho người đọc những nhận thức cơ bản, sơ lược về một vấn đề trọng yếu
của đất nước [28].
Trần Thị Minh Tuyết (2016): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm”.
Trong bài báo này, tác giả đã phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò
của tiết kiệm đối với sự phát triển của đất nước cũng như đối với việc tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Tác giả đi sâu phân tích sự sáng tạo của Hồ Chí Minh
về nội dung của tiết kiệm, về đối tượng cần thực hành tiết kiệm cũng như
những giải pháp cần thực hiện để tu dưỡng phẩm chất này. Trên cơ sở khái
quát những nội dung chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm, tác giả

6


khẳng định tính thời sự, giá trị thực tiễn trong tư tưởng thực hành tiết kiệm

của Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay [58].
2.2. Các luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến
đề tài
- Lê Văn Cương (1993): “Tham nhũng ở nước ta hiện nay và biện pháp
khắc phục”, Luận án Tiến sĩ. Trong đề tài này,trên cơ sở phân tích thực trạng
tham nhũng ở nước ta, tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về bản chất, biểu
hiện, hậu quả và nguyên nhân của tham nhũng. Tác giả chỉ ra mối liên hệ giữa
tham nhũng và quyền lực, tham nhũng và cơ chế kinh tế - chính trị, tham
nhũng và phẩm chất cá nhân. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp để từng
bước đẩy lùi vấn nạn tham nhũng [11].
- Trần Công Phàn (2002): “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp
đấu tranh chống tội phạm tham nhũng”, Luận án tiến sĩ luật. Từ góc độ luật
pháp, tác giả đã đưa ra thực trạng và nguyên nhân của tội phạm tham nhũng,
từ đó đề ra các biện pháp đấu tranh chống lại bọn tội phạm này [56].
- Phạm Thị Huệ (2006): “Thanh tra và vấn đề phòng chống tham
nhũng”, luận văn. Trong luận văn của mình, tác giả đã đưa ra khái niệm tham
nhũng và vai trò của công tác thanh tra trong PCTN qua các thời kỳ lịch sử.
Từ đó, tác giả phân tích yêu cầu cần phải đổi mới công tác thanh tra để nâng
cao hiệu quả công tác PCTN [31].
- Kiều Thị Yến (2016): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham ô
và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, luận văn khoa học
Chính trị. Trong công trình này, tác giả làm rõ sự lên án gay gắt của Hồ Chí
Minh đối với vấn nạn tham ô và phân tích những giải pháp cơ bản của Người
về công tác phòng chống tham ô. Trên cơ sở phân tích quan điểm của Hồ Chí
Minh về phòng chống tham ô, tác giả xem xét sự vận dụng quan điểm của
Người vào công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay [64].

7



- Đề tài nghiên cứu khoa học do Bộ Công an chủ trì năm 2001: “Tham
nhũng và phòng chống tham nhũng trong xây dựng cơ bản”. Ngoài việc phân
tích những vấn đề lý luận về tham nhũng, đề tài đã đi sâu nghiên cứu những
dấu hiệu, nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi tham nhũng trong xây
dựng cơ bản và đề xuất các giải pháp phòng, chống. Đề tài nhiên cứu chủ yếu
trên cơ sở lý luận về tội phạm và khoa học điều tra hình sự để phân tích và
đưa ra giải pháp [9].
- Đề tài khoa học Ban Nội chính Trung ương năm 2003: “Tham nhũng
và giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài đã phân tích rõ
bản chất, đặc điểm, nguyên nhân và điều kiện thực hiện hành vi tham nhũng,
đồng thời luận chứng các giải pháp về PCTN [3].
- Ban Nội chính trung ương do SIDA tài trợ kết thúc năm 2005, dự án:
“Nghiên cứu đấu tranh chống tham nhũng”. Dự án nhìn nhận tham nhũng ở
góc độ nghiên cứu tình hình thực tế, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp trong
công cuộc PCTN [4].
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước năm 2006: “Luận cứ khoa
học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu
tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đến năm 2020” của Ban Thanh
tra Chính phủ. Đề tài luận chứng hết sức sâu sắc cơ sở lý luận – thực tiễn cho
việc hoạch định chiến lược PCTN ở Việt Nam [7].
Khi khảo sát tình hình nghiên cứu đề tài, học viên nhận thấy có rất ít công
trình đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh với cả 2 nội dung là “thực hành tiết
kiệm” và “chống tham ô, lãng phí”nên đây cũng là lý do để học viên quyết tâm
lựa chọn đề tài này mặc dù biết rằng việc triển khai đề tài là rất khó khăn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng
phí để từ đó đưa ra giải pháp về công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta.
8



3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số khái niệm có liên quan và nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về thực hành tiết kiệm, phòng chống tham ô, lãng phí.
- Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực
hành tiết kiệm, đấu tranh chống lãng phí, tham nhũng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm và thực trạng công tác
phòng chống lãng phí, tham nhũng ở nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, tham ô mà Hồ Chí Minh đã đề ra trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
- Hoạt động thực tiễn chống lãng phí, tham ô của Hồ Chí Minh.
- Thực trạng công tác thực hành tiết kiệm và phòng chống tham nhũng
ở nước ta từ năm 1986 đến 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra của đề tài, trong quá trình nghiên cứu,
tôi dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như quan điểm của Đảng, chính sách của nhà về công tác phòng
chống tham nhũng ở nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp khai thác văn bản, chú giải học, logic
và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch cùng các phương pháp
liên ngành để nghiên cứu đề tài.

9



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết
kiệm, phòng, chống lãng phí tham ô cũng như thực trạng của công tác này
trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ kết quả của quá trình nghiên cứu, luận văn cung cấp một số phương
hướng, giải pháp cho công tác thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng ở nước
ta hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề có liên quan cũng như cung cấp tư liệu
cho việc thực hiện chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII về học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, tham ô.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ
viết tắt, luận văn được cấu trúc thành 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thực
hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.
Chương 2: Nâng cao hiệu quả công tác thực hành tiết kiệm, đấu tranh
phòng chống lãng phí, tham nhũng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.

10


Chương 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ
ơ

1.1. Các khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm “Tiết kiệm” và “Thực hành tiết kiệm”
Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn đạo đức là gốc của người cách mạng và
Cần, Kiệm, Liêm, Chính là những phẩm chất hàng đầu. Người đã mở đầu tác
phẩm Đường Kách mệnh bằng phẩm chất “Cần kiệm” và trong Di chúc gửi
lại Người, cũng căn dặn cán bộ phải Cần kiệm liêm chính.
Coi tứ đức là những phẩm chất căn cốt của người cách mạng nhưng Hồ
Chí Minh đã xếp đặt các phẩm chất đó theo một trật tự rất hợp lý. Người đã
đặt chữ Cần, Kiệm lên trên bởi “có cần, có kiệm, không tiêu đến nhiều tiền,
anh em viên chức mới có thể trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể
được”[44, tr.182]. Ngược lại, nếu không biết kiệm, xa hoa, ăn chơi hưởng lạc
thì đương nhiên phải làm chuyện bất liêm, bất chính. Vì thế, tiết kiệm là
phẩm chất rất quan trọng của người cách mạng và Hồ Chí Minh nhiều lần bàn
về khái niệm này.
Theo Người, tiết kiệm là “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi”[46, tr.122]. Nói cách khác, tiết kiệm ở đây có thể hiểu là sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên, phát huy tổng lực sức mạnh của đất nước. Người biết
tiết kiệm nghĩa là người biết cân đối, tính toán các chi phí để đạt được hiệu
quả cao nhất theo nguyên tắc “1 giờ làm xong công việc của 2, 3 giờ. 1 người
làm bằng 2, 3 người. 1 đồng dùng bằng giá trị 2, 3 đồng” [46, tr.124].
Mặc dù sử dụng khái niệm Nho giáo nhưng chữ KIỆM của Hồ Chí
Minh cũng hết sức mới mẻ. Nếu trong văn hóa truyền thống, Kiệm là hà tiện,
căn cơ để làm giàu (“Buôn thuyền bán bè không bằng ăn dè, hà tiện”) thì với
Hồ Chí Minh,“tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn,

11



nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản
xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói
theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải tiêu cực”[47,
tr.352]. Người còn nói rõ: “Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ
không phải là tiết kiệm”[46, tr.123].
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Sản xuất phải gắn liền với tiết kiệm, nói
phải đi đôi với làm. “Thực hành tiết kiệm” là đưa tư tưởng tiết kiệm vào trong
thực tế, biến thành hành vi cụ thể chứ không dừng lại ở mức độ nhận thức.
Phải nói rằng, kiệm là một phẩm chất cá nhân và nó được thể hiện trong cuộc
sống sinh hoạt đời thường cũng như trong công việc nên cơ quan nào cũng
cần và có thể tiết kiệm, ai cũng có thể và cũng nên tiết kiệm. Chỉ có điều, tùy
thuộc vào công việc cụ thể mà mỗi người, mỗi cơ quan sẽ thực hành tiết kiệm
một cách khác nhau: Bộ đội tiết kiệm súng đạn; công nhân tiết kiệm máy
móc, nguyên liệu sản xuất; cán bộ hành chính tiết kiệm thời gian, giấy mực;
quân nhu tiết kiệm thực phẩm; thầy thuốc tiết kiệm bông băng, thuốc men,
đạo cụ; nông dân tiết kiệm con giống, phân bón, nước tưới; học sinh tiết kiệm
giấy, bút... Đặc biệt, ai cũng có thể tiết kiệm thời gian, sức lực và tiền bạc của
riêng mình.
1.1.2. Khái niệm “Lãng phí”
Theo Điều 2, Luật Thực hành tiết kiệm,chống lãng phí (2013) có thể
hiểu: “Lãng phí là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực
khác vượt quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ, nhưng chất
lượng đạt thấp hơn hoặc không đúng mục tiêu đã xác định”.
Lãng phí còn có nhiều cách hiểu khác như:
“Lãng phí” là hành vi sử dụng tài sản một cách quá mức, không có điều
độ, dẫn tới dư thừa của cải vào một việc nào đó.

12



“Lãng phí” là sử dụng tài sản không đúng cách, chưa mang lại hiệu quả
như mong đợi.
“Lãng phí” là chưa tận dụng hết nguồn tài nguyên nhân lực để phục vụ
cho công việc chung, chưa phát huy được tiềm năng của bản thân chủ thể,
vùng, hay tập thể.
“Lãng phí” là một khái niệm phức tạp, hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau. Ngoài nghĩa trên, “lãng phí” còn được hiểu là không sử dụng hết thời
gian vào thời lượng công việc, bớt xén thời gian lao động. Gọi là “lãng phí về
thời gian”. Đây cũng có thể nói là “ăn cắp” thời gian của Nhà nước.
Theo Hồ Chủ tịch, “lãng phí” có các biểu hiện sau:
-“Lãng phí sức lao động”: Việc gì ít người làm cũng được mà vẫn
dùng nhiều người. Do tính toán không cẩn thận điều động hàng trăm người
đến đến công trường nhưng chưa có việc làm hay nhiều người làm việc ít. Bố
trí nhân sự không đúng, “người quản lý quá nhiều, người trực tiếp sản xuất
quá ít”…
-“Lãng phí thì giờ”: Việc gì có thể làm trong một ngày, một buổi cũng
kéo dài đến mấy ngày.
-“Lãng phí tiền của”của Nhà nước, cơ quan và bản thân mình. Cụ thể
là: Các cơ quan sử dụng vật liệu một cách phí phạm; bộ đội không biết quý
trọng và giữ gìn quân trang quân dụng; nhân dân để đất bỏ hoang, đốt vàng
mã, bán trâu, cầm ruộng để đám cưới, ma chay… [47, tr.357].
- Lãng phí là mắc bệnh “phô trương hình thức”, gây tốn kém không cần
thiết. Hồ Chí Minh cho rằng “lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song
kết quả cũng tai hại cho nhân dân, cho chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham
ô”[47, tr.357]. Nó tai hại hơn bởi chỉ những cán bộ có chức có quyền mới có
thể tham ô nhưng bất kể con người nào, ở vị trí nào cũng dễ dàng lãng phí tiền
bạc, thời gian, sức lực của mình, của cơ quan và của xã hội nên sự thất thoát
do lãng phí mang lại còn lớn hơn tham ô.

13


Tóm lại, dấu hiệu lãng phí là không tận dụng thời gian, trí tuệ, công sức,
tiền bạc, của cải, năng lực của bản thân và tập thể để làm những việc ích nước,
lợi dân.
1.1.3. Khái niệm “Tham ô”, “Tham nhũng”
Tham ô theo định nghĩa của Hồ Chí Minh “là trộm cướp, là hành động
xấu xa nhất, tội lỗi nhất trong xã hội” [47, tr.357]. Tham ô cũng có rất nhiều
biểu hiện. Đối với cán bộ, tham ô là “Ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét
của nhân dân, ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung
của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình,… Đối với nhân dân,
tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” [47, tr.356].
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ dùng khái niệm tham ô chứ chưa dùng khái
niệm tham nhũng. Do tình hình thực tế hiện nay, chúng ta phải chống tham
nhũng nên cũng cần khảo sát khái niệm này.
Theo nghĩa rộng, “tham nhũng” là hành vi của bất kỳ người nào có
chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi [10, tr.76]. Theo Từ điển Tiếng
Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của
dân.Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống
tham nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó
là “sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng...”
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam (Luật phòng,
chống tham nhũng năm 2005) quy định: “tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi cá nhân” [37,
tr.8]. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong
các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các
cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham

nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích
14


hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài
sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý
trách nhiệm của người đứng đầu.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, phòng
chống tham ô, lãng phí
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của công tác thực
hành tiết kiệm
Nếu Nho giáo và văn hóa truyền thống nhìn thấy vai trò chủ yếu của
kiệm trong việc tạo ra sự tích lũy của cải vật chất cho từng cá nhân thì Hồ Chí
Minh đánh giá vai trò của KIỆM ở nhiều khía cạnh và phạm vi khác nhau. Bất
kể quốc gia nào muốn phát triển thì cũng phải có tiềm lực kinh tế mà tiền vốn
là yếu tố hàng đầu. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu các nước tư bản thường huy
động vốn bằng 3 cách chủ yếu là vay mượn nước ngoài, ăn cướp của các
thuộc địa và bóc lột nhân dân lao động thì Việt Nam không sử dụng những
phương thức đó vì nó trái ngược với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chỉ có cách là một mặt tăng gia sản xuất, một mặt tiết kiệm để tích
trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của ta.
Mặt khác, chúng ta phải tiết kiệm hơn các quốc gia khác vì cùng một
lúc ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, vừa đánh Mỹ ở miền Nam. Nhiệm vụ cách mạng nặng nề không cho
phép chúng ta làm hao tổn nguồn lực vốn đã ít ỏi của mình.
Ngoài mục tiêu kinh tế, tiết kiệm còn hướng tới mục tiêu chính trị là để
giữ vững sự độc lập, tự chủ. Hồ Chí Minh nói rõ: “Mỗi một người dân phải
hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do” [47, tr.553]. Sự duy lợi
trong quan hệ quốc tế là một điều hiển nhiên nên muốn có độc lập thực sự thì
chủ yếu ta phải dựa vào nội lực được tạo dựng bằng cách đẩy mạnh sản xuất

và thực hành tiết kiệm.

15


Hồ Chí Minh hết sức chú trọng vấn đề đạo đức nên Người còn xem xét
vai trò của KIỆM trong việc tu dưỡng đạo đức cá nhân cũng như xã hội.
Đối với mỗi cá nhân, KIỆM là một trong hệ giá trị đạo đức “Cần, kiệm,
liêm, chính“ mà nếu thiếu một trong 4 phẩm chất đó thì con người “không
thành người”. Quan trọng hơn, có KIỆM mới có LIÊM, có LIÊM mới có
CHÍNH. Tức là KIỆM là tiền đề, điều kiện để con người vươn tới sự
LIÊM, CHÍNH và trở thành “người hoàn toàn”. Đối với cả dân tộc thì Hồ
Chí Minh cho rằng, cách mạng là tiêu diệt cái xấu, xây dựng cái tốt và nếu
những cái xấu như lãng phí, tham ô, quan liêu còn tồn tại thì sự nghiệp
cách mạng chưa hoàn thành và cũng không thể hoàn thành vì đó chính là
những trở lực, rào cản to lớn.
Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: Khi Đảng ta là đảng cầm quyền thì đạo
đức của mỗi đảng viên không còn là vấn đề tư đức mà gắn với đó là uy tín của
Đảng và lòng tin của nhân dân. Nếu cán bộ không cần kiệm liêm chính “mà
muốn được lòng dân, thì cũng khó như bắc giây leo trời” [45, tr.240]. Vì thế,
thực hiện chữ kiệm không đơn thuần là việc tu thân mà còn là biện pháp
quan trọng của công tác xây dựng Đảng.
Hồ Chí Minh còn coi việc thực hành chữ kiệm sẽ tạo ra sức mạnh mềm
và sức hấp dẫn của một dân tộc. Câu nói của Người “một dân tộc biết cần,
kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân
tộc văn minh và tiến bộ” [46, tr.128] đã thể hiện điều đó.
Như vậy, xét trên quy mô dân tộc hay nhân loại, cá nhân hay tập thể,
KIỆM đều là nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững của chủ thể và đều
hướng tới mục tiêu cuối cùng là sự thành công của cách mạng, sự giàu mạnh
về mọi mặt của cả dân tộc chứ không chỉ là sự giàu có về vật chất của từng cá

nhân như trong quan niệm truyền thống.

16


1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung tiết kiệm
Hồ Chí Minh đã mở rộng tối đa nội dung của chữ kiệm so với văn hóa
truyền thống.
- Kiệm của cải, vật chất
Kế thừa quan điểm của ông cha, KIỆM đối với Hồ Chí Minh trước hết
là tiết kiệm của cải, vật chất. Việt Nam là một nước nghèo, ngân khố quốc gia
hạn hẹp nên nhà nước phải có chính sách tài khóa phù hợp để dồn tiền cho
sản xuất, đặc biệt cho những ngành quan trọng đối với quốc kế, dân sinh.
Nước nghèo thì đại bộ phận dân chúng cũng nghèo nên mỗi con người, mỗi
gia đình vừa phải cần cù, vừa phải tiết kiệm trong chi tiêu sao cho vừa đảm
bảo sinh hoạt tối thiểu, vừa có tích lũy để dần dần người nghèo thành đủ ăn,
người đủ ăn thì thành khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Như vậy, tiết
kiệm của cải suy cho cùng là biết chi tiêu, chi tiêu phải thấp hơn so với khả
năng cho phép để tạo ra sự tích lũy vật chất cho cá nhân cũng như xã hội.
Tiết kiệm của cải vật chất còn là biểu hiện của lòng yêu thương, tôn
trọng nhân dân. Người thường nói: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật
liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy,
chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân” [49, tr.145]. Trước hết, chúng
ta phải biết tiết kiệm của cải vật chất do dân làm ra.
Đối với Hồ Chí Minh, tiết kiệm còn là biết cách khơi thông nguồn vốn,
tiềm lực trong dân để phục vụ cho mục tiêu cao cả của cách mạng, không để
của cải trong dân là “vốn chết”. Quan điểm này của Người thể hiện rất rõ
trong chủ trương kêu gọi nhân dân hưởng ứng “Tuần Lễ Vàng” và tình
nguyện ủng hộ cho “Quỹ Độc Lập” mà Hồ Chí Minh đã phát động. Người
nói: “Muốn củng cố nền tự do độc lập, chúng ta cần sức hy sinh, phấn đấu

của toàn quốc đồng bào, cần sức quyên góp của nhân dân, nhất là những
nhà giàu có” [44, tr.16]. Kết quả là “chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân
cả nước đã quyên góp được 20 triệu tiền đồng và 370 kilôgam vàng” [44,
17


tr.600]. Phong trào “Tuần Lễ Vàng” ghi nhận sự tham gia tích cực của nhiều
nhà tư sản yêu nước như Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà, Ngô
Tử Hạ…
Những kết quả thu được từ “Tuần Lễ Vàng” cuối mùa thu Ất Dậu 1945
không chỉ có ý nghĩa to lớn về tài chính mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu
sắc. Lượng tiền, vàng mà nhân dân cả nước ủng hộ cho “Quỹ Độc Lập” là
nguồn lực tài chính quan trọng giúp Đảng và Chính quyền cách mạng tháo gỡ
tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”, tạo thế và lực để giải quyết từng bước các
nhiệm vụ cách mạng tiếp theo. Đồng thời, đây còn là cơ sở để cuối tháng
1/1946 chúng ta phát hành đồng tiền Việt Nam, bước đầu xây dựng một nền
tài chính độc lập. Mặt khác, những kết quả đó còn góp phần quan trọng nâng
cao uy tín của chính quyền cách mạng non trẻ trước quần chúng nhân dân và
bạn bè quốc tế, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy
tinh thần yêu nước của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là các nhà tư
sản dân tộc, các điền chủ yêu nước… để họ thực sự là “bầu bạn của cách
mạng”, qua đó đoàn kết mọi lực lượng tạo sức mạnh tổng hợp để củng cố, giữ
vững thành quả cách mạng. Đúng như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Tuần Lễ Vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thế giới biết:
Trong khi các chiến sĩ quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự
do, độc lập của nước nhà, thì đồng bào ở hậu phương nhất là những nhà giàu
có, cũng có thể hy sinh được chút VÀNG để phụng sự Tổ quốc” [44,tr.16].
Đây thực sự là bài học kinh nghiệm quý báu trong việc công tác dân vận, khai
thác nguồn vật chất trong dân vào những mục đích lớn của dân tộc. Mỗi lạng
vàng, từng đồng bạc Đông Dương khi đó chính là biểu hiện sâu sắc của tinh

thần yêu nước, biểu hiện sinh động cho trách nhiệm của công dân trước vận
mệnh quốc gia, dân tộc.
– Kiệm thời gian

18


KIỆM đối với Hồ Chí Minh còn là tiết kiệm thời gian bởi thời gian
cũng chính là tiền bạc, thậm chí thời gian còn quý hơn tiền bạc. Thời gian và
sự làm việc tích cực sẽ đẻ ra tiền bạc nhưng tiền bạc vẫn không thể mua được
thời gian, không thể kéo thời gian quay trở lại. Vì thế, nếu “ai đưa vàng bạc
vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại” [46,
tr.122]. Do tầm quan trọng của thời gian, mỗi người phải có trách nhiệm tiết
kiệm thời gian của mình cũng như thời gian của người khác. Muốn vậy, phải
giữ vững kỷ luật lao động trong 8 giờ vàng ngọc, phải sắp xếp công việc một
cách khoa học, sự phối hợp hành động giữa các cơ quan, bộ phận phải ăn
khớp, phải hạn chế việc họp hành kéo dài mà không hiệu quả do chương trình
chuẩn bị không kỹ lưỡng, người dự không chuẩn bị ý kiến đóng góp... Người
căn dặn cán bộ, công chức: “Từ Chủ tịch, Chính phủ cho đến người chạy
giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của
dân, làm việc cho dân... Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm.
Làm cho chóng, cho chu đáo. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt
để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”
[45, tr.122].
Kiệm thời gian còn là biết nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe, tạo ra nguồn
năng lượng mới để làm những việc tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.Sức khỏe là
một yếu tố rất quan trọng, một dân tộc khỏe là một dân tộc vững mạnh. Vậy
nên, ngoài những giờ làm việc một cách triệt để, mỗi người dân, người lao
động cần phải biết nghỉ ngơi, thư giãn, tham gia các hoạt động vui chơi giải
trí để tạo ra một giá trị mới khi ta quay trở lại làm việc. Đây chính là một nội

dung của việc tiết kiệm thời gian khi thời gian luôn được sử dụng cho các
hoạt động có ích, lành mạnh.
- Kiệm nhân tài, chất xám
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm nhân tài là “người tài đức, có thể làm
những việc ích nước lợi dân” [44, tr.501]. Kế thừa quan điểm của ông cha,
19


rằng “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, ngày 14/11/1945, hơn hai tháng sau
ngày đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, với bài viết “Nhân tài và kiến quốc” đăng trên báo Cứu quốc, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nay muốn giữ vững nền độc lập chúng ta phải đem
hết lòng hăng hái vào kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kiến
thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta
khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển,
càng thêm nhiều” [44, tr.114]. Để tránh việc thất thoát nhân tài do những định
kiến chính trị hẹp hòi, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ: “Việc dụng nhân tài, ta
không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe, miễn là không phản lại
quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung
thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta
cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì ta đặt ngay vào việc ấy” [44, tr.43].
Các bài viết trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “chiếu cầu hiền tài” đầu
tiên của chính quyền cách mạng Việt Nam. Khi sang Pháp đàm phán, Người
đã cố gắng thuyết phục một số trí thức nổi tiếng có tài và đức trở về tham gia
bảo vệ và kiến thiết đất nước, tiêu biểu là Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Phan
Huy Thông, Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh… Người còn
cảm hóa và lôi kéo nhiều tri thức cũ đi theo cách mạng, điển hình như Huỳnh
Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố…
Hồ Chí Minh còn vận động được nhiều các trí thức theo đạo công giáo
ra gánh việc nước như Linh mục Phạm Bá Trực, bác sĩ Vũ Đình Tụng…

Tư tưởng tiết kiệm nhân tài, “chất xám” của Hồ Chí Minh còn thể hiện
ở chỗ từ rất sớm Người đã có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Cuối
năm 1924, Người từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) và lập ra Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của tổ
chức này là đào tạo cán bộ nên Người đích thân tổ chức các lớp tập huấn và
còn lựa chọn những cán bộ trẻ xuất sắc gửi đi đào tạo tiếp ở những trường
20


huấn luyện của Quốc tế Cộng sản. Nhiều người trong số đó sau này đã trở
thành những nhà lãnh đạo xuất sắc của Ðảng như Trần Phú, Lê Hồng Phong,
Hà Huy Tập… Tính ra, từ năm 1925 đến năm 1938 “số lượng sinh viên Việt
Nam học tập trong ba trường cao đẳng Cộng sản khoảng 60 người. Đa số họ
theo học trong trường Đại học tổng hợp Cộng sản” [65]. Nhiều người đã trở
thành nhân tài của đất nước như Nguyễn Thế Rục (Phôn Sơn), Lê Hồng
Phong (Litvinôp), Nguyễn Khánh Toàn (Minim),Trần Văn Giàu (Hồ Nam)…
Năm 1941, khi về nước, Người đã chọn các đồng chí Hoàng Văn Thái,
Đàm Quang Trung, Vũ Lập, Hoàng Minh Thảo… đi học trường quân sự
Hoàng Phố để chuẩn bị cho công tác khởi nghĩa vũ trang. Trong những năm
từ 1950-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho mở một số trung tâm nghiên cứu
khoa học và cơ sở đào tạo bậc đại học và cao đẳng, điển hình là Trường Đại
học Y Dược (Việt Bắc); lớp Toán đại cương và các trường dự bị đại học, sư
phạm cao cấp (Khu IV); các trường khoa học cơ bản và sư phạm cao cấp
(Khu học xá trung ương, Quảng Tây, Trung Quốc) nhằm tạo dựng một lớp
người có đủ tài và đức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Trong suốt hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, mặc dù còn nhiều khó khăn và gian
khổ, Người vẫn chỉ thị việc tuyển chọn và gửi nhiều thanh niên, học sinh ưu
tú là những tài năng trẻ của Việt Nam sang Đông Âu, Liên Xô, Trung Quốc
để chuẩn bị cho công cuộc kiến thiết đất nước sau chiến tranh.
- Kiệm công sức và xương máu của nhân dân.

Với tình yêu con người tha thiết và sự coi trọng sức lực cũng như mạng
sống của con người, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải tiết kiệm
công sức và xương máu của nhân dân. Quan điểm này của Người “chứa đựng
những giá trị hết sức sâu sắc về: khoan thư sức dân; an dân; dưỡng dân trong
điều kiện cách mạng vô sản” [29, tr.10].
Nếu trước đây giai cấp bóc lột nghĩ ra trăm phương ngàn kế để bóc lột
tàn tệ sức dân và dẫn đến thảm cảnh “thành xây xương lính, hào đào máu
21


×