Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.85 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THANH HẢI

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI
BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 62.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tư liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Nếu có điều gì sai sót,
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Bùi Thanh Hải



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM....................................................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam......................................... 7
1.2. Nội dung bảo đảm quyền của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự 19
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của người bị tạm giữ trong tố tụng
hình sự ......................................................................................................... 26
Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI
DƯƠNG.......................................................................................................... 40
2.1. Tổng quan thực trạng bảo đảm quyền của người bị tạm giữ hình sự trên
địa bàn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.......................................... 40
2.2. Thực trạng thực hiện quyền con người của người bị tạm giữ hình sự
trên địa bàn thành phố Hải Dương tỉnh Hải Dương.................................... 45
2.3. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của người bị
tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hải
Dương.......................................................................................................... 52
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM................................................... 61
3.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ....... 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng pháp luật về bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam ............................................................................................................. 63
3.3. Giải pháp đối với thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị tạm

giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.............................................. 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

BPNC

: Biện pháp ngăn chặn

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên


QCN

: Quyền con người

THTT

: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số liệu giải quyết án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Dương .. 41
Bảng 2.2: Bảng thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ năm 2012 - 2016 43
Bảng 2.3: Bảng thống kê tình hình giải quyết người bị tạm giữ từ năm 2012 2016 ................................................................................................................. 44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm lo đến con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn

diện trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động nhà
nước là những quan điểm cơ bản được thực hiện trong các văn bản của Đảng.
Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, Đảng có những quan điểm chỉ đạo
về cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, đặc biệt tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02-6-2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” khẳng định “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư
pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu
bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm”[3]; Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cũng tiếp tục đặt ra nhiệm: “Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công
lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người” [12];
Hải Dương là thành phố đang trên đà phát triển về các mặt chính trị văn
hóa xã hội, nơi giao thương kinh tế tương đối tấp nập. Kéo theo với điều đó là
tình hình tội phạm trên địa bàn trong những năm vừa qua đã diễn ra tương đối
phức tạp. Đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ
chế độ, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân. Trong công cuộc đấu tranh
với tội phạm, một vấn đề không kém phần quan trọng là bảo vệ có hiệu quả
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó có người bị tạm giữ để
quyền và lợi ích của người bị tạm giữ không bị xâm hại, hạn chế những hành
vi vi phạm pháp luật từ phía cơ quan và người THTT. Bên cạnh những kết
quả đạt được, thực tiễn áp dụng cho thấy trong quá trình giải quyết VAHS
1


trên địa bàn thành phố Hải Dương, tình trạng cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
THTT xâm phạm đến các QCN đặc biệt là quyền của người bị tạm giữ vẫn
còn xảy ra. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có

bất cập, hạn chế của pháp luật, có trường hợp nhận thức người THTT còn
khác nhau. Do đó có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm QCN của người bị tạm
giữ có vai trò rất quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định trên thực tế,
góp phần chung vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện
nhiệm vụ xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương” làm luận văn cao học luật
là vấn đề mang tính cấp bách, thiết thực không những về mặt lý luận mà cả
thực tiễn đối với địa phương trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế vấn đề QCN và
bảo đảm QCN trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng
nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các mức độ và góc độ khác
nhau. Các công trình đó có thể tổng quan thành các nhóm sau đây:
Ở phạm vi nghiên cứu về QCN và bảo đảm QCN nói chung trong
TTHS, cụ thể có nhiều công trình đã công bố như: Sách chuyên khảo:“Quyền
con người”, năm 2015 do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, NXB Khoa học
xã hội [52]; sách chuyên khảo:“Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người”,
năm 2011 do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội [51];
sách: “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt
Nam” của tác giả Trần Quang Tiệp (2004) [36]; “Quyền con người, quyền
công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của GS.TS Trần

2


Ngọc Đường [16]; sách chuyên khảo“Quyền lực Nhà nước và quyền con
người” của PGS.TS. Đinh Văn Mậu [24].
Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có nhiều công trình về bảo vệ QCN

trong lĩnh vực tư pháp hoặc tư pháp hình sự được công bố. Trong số các công
trình này có: Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia “Bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của GS.TSKH. Lê Văn
Cảm [6]; báo cáo “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại Hội thảo về
Quyền con người trong tố tụng hình sự (do VKSND tối cao và Uỷ ban nhân
quyền Australia tổ chức tháng 3/2010) của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc [30]; bài
báo khoa học “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của PGS.TS Trần Văn Độ [14];
Các công trình trên các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo đảm QCN
trong tư pháp hình sự nói chung và trong TTHS nói riêng. Bước đầu đã đặt nền
móng cho việc đặt QCN lên hàng đầu. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình
khoa học nào tiếp cận một cách trọn vẹn, toàn diện, hệ thống, đồng bộ về vấn
đề bảo đảm QCN của người bị bắt theo pháp luật TTHS từ thực tiễn một địa
bàn nghiên cứu, cụ thể là tại thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề “Bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương)” cần tiếp tục được nghiên
cứu, để có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm QCN của
người bị tạm giữ không chỉ trên địa bàn thành phố Hải Dương, mà còn có thể
tham khảo áp dụng trên toàn quốc.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận
chung về bảo đảm QCN nói chung và thực tiễn áp dụng đối với người bị tạm

giữ trên địa bàn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương nói riêng. Qua đó,
phát hiện những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình thực hiện của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, để đưa ra những giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, phân tích tổng quát các vấn đề lý luận về QCN, quyền của người
bị tạm giữ, bảo đảm QCN đối với người bị tạm giữ.
Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật về bảo đảm QCN đối với
người bị tạm giữ để rút ra các vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện hành và
nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp luật liên quan.
Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
QCN đối với người bị tạm giữ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến QCN, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trong pháp luật
TTHS Việt Nam, những hạn chế, bất cập, khó khăn trong quy định của pháp
luật, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Ngoài ra, luận văn
còn nghiên cứu, phân tích thực tiễn bảo đảm QCN của người bị tạm giữ theo
pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Dương làm cơ sở cho
việc đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những
khía cạnh pháp lý của một số quy định của pháp luật về bảo đảm QCN đối với

người bị tạm giữ.
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực trạng áp dụng việc
bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Hải Dương, tỉnh
Hải Dương.
- Về thời gian khảo sát: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc bảo đảm
QCN của người bị tạm giữ trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như: phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy
nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa
học các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa làm rõ hơn về phương diện
lý luận về bảo đảm QCN theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay. Đề tài đã
phân tích, đánh giá, tổng hợp thực tiễn việc bảo đảm QCN của người bị tạm
giữ trên địa bàn thành phố Hải Dương. Qua đó, tìm ra những ưu điểm, hạn
chế, thiếu sót, khó khăn, vướng mắc khi thực hiện. Đồng thời kiến nghị một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS về
việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nhất là đối với người bị
tạm giữ.

5


Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ sung
lợi ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp luật mà còn cho các nhà nghiên

cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và
sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên
sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các CQĐT, VKS… trong quá
trình giải quyết VAHS được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hải Dương,
tỉnh Hải Dương
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

6


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI
BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao quý nhất của nhân
loại, song cũng là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa
học nghiên cứu. Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về QCN, song

quan điểm phổ biến cho rằng QCN là những đặc quyền bẩm sinh, vốn có của
mọi cá nhân: "Nhân quyền là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con
người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế"[39]. Một định nghĩa khác
của Văn phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) cũng
thường trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu, trong đó cho rằng: “Quyền con người
là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [27].
Quyền con người là những giá trị tự nhiên, vốn có của con người, tuy nhiên
nó chỉ thực sự có ý nghĩa và trở thành hiện thực khi nó được bảo đảm bằng pháp
luật. Học thuyết Nhân quyền tự nhiên cho rằng: “Con người có những quyền cố
hữu do tạo hóa ban tặng như quyền sống, quyền tự do, quyền tự do, quyền sở hữu;
quyền con người là thiêng liêng, cao quý và phải được sắp xếp cao hơn pháp luật
nhà nước; nhân quyền trao cho nhà nước vì vậy quyền lực nhà nước là có giới
hạn và nhà nước co nghĩa vụ đối với nhân dân”[30]. Theo lý luận chung đã

7


được thừa nhận ở đa số các quốc gia trên thế giới thì QCN có những thuộc
tính cơ bản sau đây:
- Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ
quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp
dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có
sự phân biệt đối xử vì bất kì lý do gì [44, tr.25].
- Tính đặc thù: Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng QCN nhưng
mức độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của
từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó
đang sống. Nhận thức được đặc điểm này cũng rất quan trọng đối với việc

chúng ta có cái nhìn khách quan về vấn đề nhân quyền ở mỗi quốc gia.
- Tính không thể bị tước bỏ: Trong quan niệm chung của cộng đồng
quốc tế, QCN không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi
bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có
những chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế QCN.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tất cả các QCN
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để
thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh
hưởng đến các quyền khác.
Quyền con người được xác định theo các lĩnh vực chủ yếu sau đây:
- Nhóm các quyền dân sự, chính trị: Đây là các quyền quan trọng của
con người, có liên quan đến sự tồn tại tự nhiên, tất yếu của con người trong xã
hội, liên quan đến mối quan hệ tự nhiên giữa con người với một thể chế chính
trị của xã hội đó, ví dụ như quyền sống, quyền tự do, quyền bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở,
bí mật thư tín, điện tín... Các quyền này theo quan điểm của các học giả tư sản
được coi là quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất của con người.
8


- Nhóm các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa: Đây là nhóm quyền
theo quan điểm của các nước xã hội chủ nghĩa được coi là quan trọng nhất và
nhóm các quyền này luôn gắn liền với một nhà nước cụ thể, được đảm bảo bởi
nhà nước. Các quyền này bao gồm: quyền lao động, quyền học tập, quyền an
sinh xã hội, các quyền về văn hoá, sáng tạo và hưởng thụ các thành tựu của
khoa học kỹ thuật…
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, để bảo đảm QCN, nhà
nước có ba nghĩa vụ cụ thể đó là:
Nghĩa vụ tôn trọng: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước không được tùy

tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hay gián tiếp, vào việc thụ
hưởng các QCN.
Nghĩa vụ bảo vệ: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải ngăn chặn sự
vi phạm QCN của các bên thứ ba.
Nghĩa vụ thực hiện: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải có những
biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các QCN [10].
Để thực hiện các nghĩa vụ về nhân quyền, các Nhà nước phải sử dụng
pháp luật. Là một phạm trù đa diện, xong QCN có mối liên hệ gần gũi hơn cả
với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù QCN là bẩm sinh, vốn có song
việc thực hiện các quyền vẫn cần có nhà nước và pháp luật. Hầu hết những nhu
cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được bảo đảm đầy đủ nếu không
được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi
các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức mà còn trở
thành những quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả
các chủ thể trong xã hội.
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Pháp luật ghi nhận các quyền
của con người được xã hội thừa nhận. Thông qua pháp luật, QCN được ghi
nhận và bảo vệ. Để bảo vệ QCN, pháp luật đưa ra những điều cấm và những
9


hành vi bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm
QCN. Quyền con người được pháp luật xác lập sẽ không thể bị tước bỏ, hạn chế
một cách tuỳ tiện vì được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và
cưỡng chế của xã hội, Nhà nước. Pháp luật là công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà
nước để bảo vệ thực hiện QCN. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật
có tính bắt buộc cứng rắn bằng cách xác lập những điều cấm mà bất cứ ai cũng
không được vi phạm. Đồng thời, pháp luật được bảo vệ thi hành bằng bộ máy
Nhà nước cùng với sức mạnh xã hội. Vì thế, các quy định của pháp luật về

QCN còn được bảo vệ bằng sự cưỡng chế của Nhà nước tránh mọi hành vi
xâm hại. Trên cơ sở của pháp luật, mọi hành vi vi phạm QCN, quyền công
dân đều phải được xử lý nghiêm minh.
Quyền con người và bảo đảm QCN luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu
của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực pháp luật, vấn đề quyền con người làm nền
tảng trong việc nghiên cứu và ban hành các quy phạm. Và trong lĩnh vực
TTHS cũng vậy, việc giải quyết VAHS không thể tách rời vấn đề bảo đảm
QCN, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu
TNHS đối với một người phải dựa trên những căn cứ luật định và phải do
những người, những cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục
mà pháp luật quy định để nhằm mục đích không để lọt tội phạm đồng thời
đảm bảo không làm oan người vô tội.
Bảo đảm quyền con người xét cho cùng chính là việc ghi nhận và thực
hiện những cam kết trong pháp luật quốc tế về các QCN vào trong pháp luật
mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm QCN nếu chỉ dựa vào quyền tự nhiên của
con người, bởi tự thân những quyền tự nhiên không thể tự mình vận hành
trong một xã hội rộng lớn ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc gia. Phải thông
qua Nhà nước, thì những cam kết quốc tế về QCN mới hình thành nên những
địa vị pháp lý của con người, đồng thời QCN chỉ được bảo đảm khi được quy
định bằng pháp luật và có cơ chế bảo đảm, vận hành bởi pháp luật. Do đó,
10


bảo đảm QCN là sự kết hợp địa vị pháp lý và địa vị thực tế của con người
trong xã hội, là một trong những biểu hiện tự do xã hội, trách nhiệm và tính
tích cực công dân. Các quyền kinh tế, chính trị, xã hội chưa phải là cơ sở để
thực hiện quyền và tự do của con người. Chúng chỉ trở thành những bảo đảm
QCN qua hình thức pháp lý và những nỗ lực tổ chức bảo đảm thực hiện của
Nhà nước. Bảo đảm QCN của người bị buộc tội là đảm bảo cho những người
đó có địa vị pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực hiện tội

phạm, bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ thực
hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định.
Tuy nhiên, bảo đảm QCN trong TTHS không chỉ là sự ghi nhận về mặt
pháp lý các QCN trong TTHS, bảo vệ và bảo đảm thực thi các quyền đó trong
quá trình giải quyết các VAHS. Bảo đảm QCN của người phải là sự bảo đảm
cho các chủ thể mang quyền được thực hiện đầy đủ và hợp pháp các quyền
được đề cập trong các quy định của pháp luật.
Quyền con người của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam
trong TTHS được thể hiện cụ thể trong các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ
được pháp luật TTHS ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Bảo đảm QCN trong hoạt động tạm giữ cũng là bảo đảm QCN trong
TTHS và là một lĩnh vực có tính chất đặc thù của bảo đảm QCN nói chung.
Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ là việc ghi nhận các QCN và thực thi
trong hoạt động tạm giữ trong TTHS. Thực hiện tốt việc bảo đảm QCN trong
hoạt động tạm giữ là đóng góp có hiệu quả cho việc bảo đảm QCN trong
TTHS và bảo đảm QCN nói chung.
Bảo đảm QCN trong hoạt động tạm giữ là nhiệm vụ của Nhà nước. Nhà
nước trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp lý của mình cần có cơ chế phù hợp
để ghi nhận và bảo đảm thực thi QCN. Các quy phạm pháp luật về QCN,
quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị tạm giữ chưa phải là cơ sở để các

11


QCN được thực thi mà cần phải có những bảo đảm ràng buộc pháp lý của
Nhà nước.
Để bảo đảm QCN trong hoạt động tạm giữ bên cạnh việc củng cố và
tăng cường các bảo đảm QCN nói chung, còn phải bảo đảm các yếu tố mang
tính đặc trưng riêng như:
- Xây dựng được hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động

tạm giữ trên cơ sở các tiêu chí quốc tế về QCN và phù hợp với yêu cầu bảo
đảm QCN ở Việt Nam;
- Có các giải pháp thực thi có hiệu qủa các QCN được quy định trong
hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tạm giữ;
- Hình thành cơ chế giám sát bảo đảm QCN trong hoạt động tạm giữ.
Tóm lại, khái niệm bảo đảm QCN của người bị tạm giữ có thể được hiểu:
“là việc tạo ra các điều kiện, yếu tố cần và đủ để quyền con người của người bị
tạm giữ được ghi nhận và bảo đảm thực thi có hiệu quả trong quá trình áp dụng
các biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong TTHS".
1.1.2. Khái niệm người bị tạm giữ
Trong TTHS Việt Nam, người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng có
quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án. BLTTHS năm 2015 đưa ra
khái niệm về người bị tạm giữ như sau: “Người bị tạm giữ là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định
truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định
tạm giữ”[34]. Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự, đó
là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, trường
hợp phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, và đối
với họ đã có quyết định tạm giữ. Mặc dù, họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng
trên thực tế họ vẫn phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan đã tạm giữ họ. Họ bị
hạn chế một số quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các câu hỏi của
cán bộ điều tra.
12


Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự bao
gồm: bị can, bị cáo, người đã bị kết án nhưng bỏ trốn, người đang chấp hành
án bỏ trốn nhưng bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội ra đầu
thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ. Do đó, pháp luật coi người bị tạm
giữ là người tham gia TTHS, có các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ

theo quy định của pháp luật.
Hay nói cách khác, người bị tạm giữ là người bị nghi đã thực hiện tội
phạm và đối với họ đã có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền. Để
trở thành người bị tạm giữ cần có đủ hai điều kiện:
+ Điều kiện về nội dung: khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
người mà bị người khác có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy
và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm và thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó bỏ trốn; người mà thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc
nơi ở nên cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;
người bị phát hiện đang thực hiện tội phạm; người có lệnh truy nã hoặc người
tự thú, đầu thú sau khi thực hiện tội phạm.
+ Điều kiện về hình thức: đối với người đã có quyết định tạm giữ của
người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS. Theo quy định của Điều
117 và Điều 110 BLTTHS năm 2015 thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT
các cấp, người chỉ huy Quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương,
người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, người chỉ huy tàu bay,
tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng hoặc Chỉ huy
trưởng vùng Cảnh sát biển là những người có thẩm quyền ra quyết định tạm
giữ [34].
Từ những phân tích ở trên, theo quan điểm của tôi có thể đưa ra khái
niệm khoa học về người bị tạm giữ như sau: Người bị tạm giữ là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định
13


truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định
tạm giữ của người có thẩm quyền tố tụng; có quyền và nghĩa vụ nhất định
theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất, là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp:

Là khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hay sau khi người đó thực hiện tội phạm rồi bỏ
trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. Người bị tạm giữ trong trường hợp
này là người chưa bị khởi tố về hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn
cấp nhằm ngăn chặn kịp thời tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, tiêu hủy
chứng cứ, cản trở hoạt động điều tra của người thực hiện tội phạm và được áp
dụng trong những trường hợp cấp bách. Từ đó, tạo điều kiện cho CQĐT có thẩm
quyền có đủ thời gian thu thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định tính chất,
mức độ của hành vi, nhân thân của người bị tạm giữ. Đồng thời để đảm bảo các
quyền tự do cá nhân của con người, Điều 110 BLTTHS năm 2015 đã quy định
một cách rõ ràng, cụ thể các trường hợp giữ khẩn cấp như sau:
+ Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo
dõi hoặc kiểm tra xác minh các nguồn tin biết người đó (một người hoặc
nhiều người) đang bí mật tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên cần phải bắt ngay trước khi tội phạm
được thực hiện. Việc bắt người này cần phải đảm bảo hai điều kiện: Một là,
có căn cứ khẳng định một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện
tội phạm. Hai là, tội phạm đang chuẩn bị được thực hiện là tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chuẩn bị thực hiện tội
phạm, còn một khoảng thời gian nhất định với việc thực hiện tội phạm, nên
không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần phải truy cứu
14


TNHS. Người bị giữ trong trường hợp này, thường phải bị tạm giữ vì khi
quyết định giữ khẩn cấp CQĐT đã có căn cứ để xác định rằng người đó đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

+ Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại
nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực
hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn. Đây là
trường hợp tội phạm đã xảy ra, nhưng người thực hiện tội phạm không bị bắt
ngay. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm.
Nếu CQĐT xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn thì ra lệnh bắt
khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này cần phải đảm bảo hai điều
kiện: Một là, phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông
thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Việc xác nhận
phải mang tính chất khẳng định, chứ không thể “hình như”, hoặc “nhìn giống
như” người đã thực hiện tội phạm. Hai là, xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn.
+ Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở
người hoặc tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Đây là trường hợp cơ
quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người đó thực
hiện tội phạm, nhưng qua việc phát hiện thấy có dấu vết của tội phạm ở người
hoặc tại chỗ ở của người mà người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn việc người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì người đó bị bắt khẩn
cấp. Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau: Một là,
khi thấy dấu vết tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội
phạm. Việc tìm thấy dấu vết của một tội phạm chỉ được coi là một điều kiện để
bắt khẩn cấp. Hai là, cần ngăn chặn ngay việc người bị nghi thực hiện tội
phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Khi có căn cứ cho rằng người bị nghi thực
15


hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì cơ quan có thẩm quyền ra lệnh
bắt khẩn cấp.

Thứ hai, là người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang:
Khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi
phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần thiết phải điều tra, xác minh. Điều 111
BLTTHS năm 2015 quy định những trường hợp phạm tội quả tang bao gồm:
+ Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đây là trường hợp tội phạm đã bắt đầu được thực hiện, đang diễn ra và chưa
kết thúc trên thực tế, đang gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ. Việc người đang thực hiện tội phạm bị phát hiện hay không, tùy
thuộc vào đặc điểm của cấu thành tội phạm, bối cảnh xảy ra tội phạm; khả
năng, kiến thức, vị trí công tác của người phát giác sự kiện phạm tội.
+ Trường hợp hợp thứ hai: Người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì
bị phát hiện. Đây là trường hợp người phạm tội vừa thực hiện hành vi phạm
tội xong, chưa kịp chạy trốn, chưa kịp cất giấu tang vật hoặc đang cất giấu
tang vật, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị
người khác phát hiện. Vì vậy, khi bắt người phạm tội vừa thực hiện hành vi
phạm tội xong, chưa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ người phạm tội
phải xảy ra không gián đoạn về mặt thời gian.
+ Trường hợp thứ ba: Người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi
bắt. Trong trường hợp phạm tội quả tang này, người phạm tội đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và
bị đuổi bắt. Trong trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn
thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội, tránh bắt nhầm người không
thực hiện tội phạm. Nếu việc đuổi bắt bị gián đoạn về mặt thời gian so với hành
vi chạy trốn thì không được xem là bắt quả tang mà có thể bắt theo trường hợp
khẩn cấp.
16


Thứ ba, là người bị bắt theo quyết định bị truy nã:

Trước đây, Sắc luật số 002-SLt ngày 18/6/1957 quy định, người đang
bị truy nã là một trường hợp phạm pháp quả tang mà người công dân nào
cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan có thẩm quyền nơi gần nhất vì có
quan niệm không chính xác khi cho rằng: người đang bị truy nã là người phạm
tội quả tang. Trong BLTTHS năm 2015, người phạm tội quả tang và bắt người
đang bị truy nã được phân biệt rõ ràng. Bởi vì, người đang bị truy nã là người đã
thực hiện hành vi phạm tội, đã bị cơ quan Công an ra quyết định (hoặc lệnh) truy
nã. Theo quy định tại quy chế về công tác truy nã của Bộ Công an thì những
người thuộc diện cơ quan Công an phải ra lệnh truy nã gồm: Bị can bỏ trốn hoặc
không biết đang ở đâu; Bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; Phạm nhân
trốn trại.
Thứ tư, là người phạm tội tự thú, đầu thú:
Tự thú là việc một người sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng
hành vi đó vẫn chưa bị phát hiện, hoặc người thực hiện hành vi đó vẫn chưa bị
phát hiện. Nhưng sau một thời gian, có thể do bị lương tâm cắn rứt, do hối hận
về hành vi của mình... người đó đã tự ra trước cơ quan chức năng trình diện và
khai nhận về hành vi phạm tội của mình hoặc hành vi phạm tội của mình và
đồng bọn.
Thứ năm, là đối với họ phải có quyết định tạm giữ:
Bên cạnh điều kiện cần là một người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
người phạm tội tự thú, đầu thú thì điều kiện đủ để họ trở thành người bị tạm
giữ là đối với họ phải có quyết định tạm giữ. Nếu một người bị bắt trong các
trường hợp nêu trên hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú mà không có quyết
định tạm giữ thì cũng không phải là người bị tạm giữ. Do đó điều kiện đủ này
điều kiện quan trọng và quyết định một người có phải là người bị tạm giữ hay
không trong quá trình tham gia TTHS. Khi họ đã có quyết định tạm giữ và
17



tham gia vào quá trình TTHS thì người bị tạm giữ có quyền và nghĩa vụ nhất
định theo quy định của pháp luật.
Tạm giữ là BPNC của TTHS được các cơ quan THTT áp trong quá
trình giải quyết VAHS. Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng
được qui định tại chương VII và một số điều, ở các chương khác của
BLTTHS 2015. Những BPNC được áp dụng với mục đích ngăn chặn không
cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội
tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Đồng thời, việc áp dụng các BPNC còn
nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án
như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu huỷ chứng
cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người
làm chứng, bảo đảm sự có mặt của bị can, bị án khi có yêu cầu của cơ quan
THTT... Đối tượng bị áp dụng các BPNC là bị can, người phạm tội quả tang
hoặc người mà cơ quan THTT có tài liệu, chứng cứ nghi là họ phạm tội. Khi
áp dụng BPNC các cơ quan có thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi,
giới hạn cũng như thủ tục mà Luật TTHS qui định. Ngoài các đối tượng kể
trên không ai có thể bị áp dụng các BPNC, mọi hành vi áp dụng BPNC không
đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm
pháp luật, người có hành vi vi phạm tuỳ theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý
kỷ luật hoặc truy cứu TNHS. Thẩm quyền áp dụng BPNC là những người
THTT có thẩm quyền của các CQĐT, VKS hoặc những người có chức vụ
trong các cơ quan khác được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng, công
dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả tang, bắt người theo lệnh truy
nã. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng, chức năng nhiệm
vụ của các cơ quan, Luật TTHS qui định cho cơ quan đó được áp dụng tất cả
hay một số các BPNC và trong phạm vi, giới hạn cũng như theo thủ tục của
Luật TTHS.
18



1.2. Nội dung bảo đảm quyền của người bị tạm giữ trong tố tụng
hình sự
Nội dung đầu tiên là bảo đảm QCN của người bị tạm giữ trong TTHS
trước hết thể hiện trong việc phải bảo đảm các quyền công dân chung của họ:
Các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và các văn
bản pháp luật khác như Luật bầu cử, Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ… Là
công dân, người bị bắt có quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền được
pháp luật quy định, trừ các trường hợp BLTTHS quy định khác nhằm đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ TTHS. Phải nói rằng, trong khoa học luật TTHS nói chung
và trong giai đoạn điều tra nói riêng, vấn đề bảo đảm quyền công dân của
người tham gia tố tụng chưa được chú ý nhiều. Trong nghiên cứu về “Bị can
và bảo đảm quyền của bị can trong BLTTHS 2003, thực trạng và định hướng
hoàn thiện”, vấn đề này đã được TS. Nguyễn Duy Hưng phát hiện: “Những
quy định của pháp luật TTHS hiện hành chưa đề cập nhiều đến khía cạnh các
quyền công dân của một người đang bị truy cứu TNHS với tư cách bị can”
[21, tr.201]. Các quyền của bị can được quy định trong pháp luật TTHS phần
lớn được đề cập trên phương diện quyền tố tụng và ít được đề cập trên
phương diện quyền công dân. Tuy nhiên, với tư cách là đối tượng của khoa
học luật TTHS, việc nghiên cứu bảo đảm quyền công dân của người bị bắt, bị
tạm giữ, bị can cần được đặt trong bối cảnh các hoạt động TTHS được thực
hiện để giải quyết vụ án.
Tố tụng hình sự là cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của cơ
quan THTT, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan
Nhà nước khác và các tổ chức xã hội để giải quyết vụ án theo quy định của
pháp luật TTHS. Hay nói cách khác, TTHS là hoạt động khởi tố, điều tra
VAHS của CQĐT, hoạt động truy tố người phạm tội ra trước tòa án của VKS,
hoạt động xét xử VAHS của Tòa án và hoạt động thi hành bản án, quyết định
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án [53, tr.786]. Trong giai
19



đoạn điều tra, việc áp dụng các BPNC trong đó có biện pháp tạm giữ là rất
cần thiết để phục vụ cho việc chứng minh VAHS. Vì vậy, để đạt được mục
đích của tố TTHS, pháp luật TTHS của bất kỳ một quốc gia nào cũng có quy
định về những biện pháp cưỡng chế tố tụng, các hành vi, quyết định tố tụng
đụng chạm đến quyền, lợi ích của công dân. Hay nói cách khác, cưỡng chế
TTHS, khả năng ảnh hưởng của hoạt động TTHS tới các QCN của công dân
là tất yếu.
Để bảo đảm QCN trong TTHS nói chung, QCN của người bị tạm giữ
trong TTHS nói riêng dưới góc độ quyền công dân, thể hiện chủ yếu thông
qua các nguyên tắc TTHS trong đó có các nguyên tắc ảnh hưởng trực tiếp tới
BPNC bắt người trong giai đoạn điều tra. Trong khoa học luật TTHS, các
nguyên tắc TTHS được phân chia thành các nhóm khác nhau để nghiên cứu,
bao gồm: 1/ Các nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong hoạt động tố tụng; 2/
Các nguyên tắc liên quan đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án; 3/
Các nguyên tắc thể hiện tính dân chủ trong hoạt động tố tụng và 4/ Các
nguyên tắc bảo đảm QCN của người tham gia tố tụng.
Trong số các nguyên tắc TTHS cơ bản được quy định trong BLTTHS,
các nguyên tắc thuộc nhóm thứ tư thể hiện rõ nhất quan điểm của người làm
luật liên quan đến bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị bắt trong
TTHS nói chung và đặc biệt là trong giai đoạn điều tra. Mặc dù họ là những
đối tượng hoặc có khả năng bị áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất
là TNHS nhưng những quyền cơ bản, thân thiết nhất như: quyền được tôn
trọng về nhân phẩm, quyền không bị tra tấn, đánh đập khi bị giam giữ, bị
chấp hành án phạt tù... và những quyền tư pháp để được xét xử công bằng, để
được điều tra khách quan trong quá trình tố tụng.. vẫn phải được tôn trọng và
bảo đảm [8, tr.25]. Cụ thể đó là: nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân (điều 4), nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật (điều 5), nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm

20


×