Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hải dương, tỉnh hải dương (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.78 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THANH HẢI

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI
BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG,
TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành

: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH THỊ MAI

Phản biện 1: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ


Phản biện 2: PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội

hồi

giờ

ngày tháng năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm lo đến con người, tạo điều kiện cho con người phát
triển toàn diện trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong
các hoạt động nhà nước là những quan điểm cơ bản được thực hiện
trong các văn bản của Đảng. Để nâng cao chất lượng hoạt động tư
pháp, Đảng có những quan điểm chỉ đạo về cải cách tổ chức và hoạt
động của cơ quan tư pháp, đặc biệt tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ chính trị ngày 02-6-2005 “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” khẳng định “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư
pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải
là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa,
trong việc đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020.

Hải Dương là thành phố đang trên đà phát triển về các mặt
chính trị văn hóa xã hội, nơi giao thương kinh tế tương đối tấp nập.
Kéo theo với điều đó là tình hình tội phạm trên địa bàn trong những
năm vừa qua đã diễn ra tương đối phức tạp. Đấu tranh phòng, chống
tội phạm là nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống
bình yên cho nhân dân. Trong công cuộc đấu tranh với tội phạm, một
vấn đề không kém phần quan trọng là bảo vệ có hiệu quả quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trong đó có người bị tạm giữ để quyền
và lợi ích của người bị tạm giữ không bị xâm hại, hạn chế những
hành vi vi phạm pháp luật từ phía cơ quan và người THTT. Bên cạnh
những kết quả đạt được, thực tiễn áp dụng cho thấy trong quá trình
giải quyết VAHS trên địa bàn thành phố Hải Dương, tình trạng cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền THTT xâm phạm đến các QCN đặc biệt
1


là quyền của người bị tạm giữ vẫn còn xảy ra. Những vi phạm đó xảy
ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp
luật, có trường hợp nhận thức người THTT còn khác nhau. Do đó có
thể nói nghiên cứu việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ có vai
trò rất quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định trên thực tế, góp
phần chung vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện
nhiệm vụ xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương”
làm luận văn cao học luật là vấn đề mang tính cấp bách, thiết thực
không những về mặt lý luận mà cả thực tiễn đối với địa phương trong
giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở phạm vi nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền
con người nói chung trong tố tụng hình sự, cụ thể có nhiều công trình
đã công bố như: Sách chuyên khảo: “Quyền con người”, năm 2015
do GS,TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội. Sách
chuyên khảo: “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người”, năm
2011 do GS, TSVõ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội.
Sách:“Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam”,
năm 2010, Nxb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh. Sách: “Bảo vệ
quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
của tác giả Trần Quang Tiệp (2004), “Quyền con người, quyền công
dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của GS.TS. Trần
Ngọc Đường; sách chuyên khảo “Quyền lực Nhà nước và quyền con
người” của PGS.TS. Đinh Văn Mậu;
2


Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề “Bảo đảm quyền
con người của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam (trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương)”
cần tiếp tục được nghiên cứu, để có những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ không
chỉ trên địa bàn thành phố Hải Dương, mà còn có thể tham khảo áp
dụng trên toàn quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu
lý luận chung về bảo đảm quyền con người nói chung và thực tiễn áp
dụng đối với người bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Hải Dương,
tỉnh Hải Dương nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau: Một là, phân tích tổng quát các vấn đề lý luận về quyền con
người, quyền của người bị tạm giữ, bảo đảm quyền con người đối với
người bị tạm giữ. Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật về bảo đảm
quyền con người đối với người bị tạm giữ để rút ra các vướng mắc,
hạn chế của pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập
trong thực thi pháp luật liên quan. Ba là, đề xuất các kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người đối với người bị
tạm giữ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến quyền con người, bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ trong pháp luật TTHS Việt Nam, những
3


hạn chế, bất cập khó khăn trong quy định của pháp luật, những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu
sắc những khía cạnh pháp lý của một số quy định của pháp luật về
bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực trạng áp
dụng việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trên địa
bàn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
- Về thời gian khảo sát: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc
bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong thời gian từ năm 2012
đến năm 2016.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng các phương
pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp
diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã
hội học để tổng hợp các tri thức khoa học các vấn đề tương ứng được
nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa làm rõ hơn về
phương diện lý luận về bảo đảm quyền con người theo pháp luật
TTHS Việt Nam hiện nay. Đề tài đã phân tích, đánh giá, tổng hợp
thực tiễn việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trên địa
bàn thành phố Hải Dương.
4


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của người
bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành
phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ
Quyền con người là những giá trị tự nhiên, vốn có của con người,
tuy nhiên nó chỉ thực sự có ý nghĩa và trở thành hiện thực khi nó được bảo
đảm bằng pháp luật.
- Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người thể hiện
ở chỗ quyền con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người,
không phân biệt màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành
phần xuất thân.
- Tính đặc thù: Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng
quyền con người nhưng mức độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ
5


thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền
thống văn hóa xã hội mà người đó đang sống.
- Tính không thể bị tước bỏ: Trong quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ
hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ
quan và quan chức nhà nước.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tất cả
các quyền con người có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện
tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia.
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, để bảo đảm
quyền con người, nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể đó là:

Nghĩa vụ tôn trọng: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước
không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp
hay gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người.
Nghĩa vụ bảo vê: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải
ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba.
Nghĩa vụ thực hiện: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải
có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các
quyền con người.
Như vậy, có thể hiểu bảo đảm quyền con người chính là việc
nhà nước, thông qua pháp luật, ghi nhận và quy định các biện pháp
ngăn ngừa và xử lý những hành vi vi phạm các quyền con người bằng
bộ máy cưỡng chế của mình.
Bảo đảm quyền con người xét cho cùng chính là việc ghi
nhận và thực hiện những cam kết trong pháp luật quốc tế về các QCN
vào trong pháp luật mỗi quốc gia.
Tóm lại, khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị tạm
giữ có thể được hiểu: “là việc tạo ra các điều kiện, yếu tố cần và đủ để
6


quyền con người của người bị tạm giữ được ghi nhận và bảo đảm thực
thi có hiệu quả trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm
giữ trong TTHS".
1.1.2. Khái niệm người bị tạm giữ
Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình
sự bao gồm: bị can, bị cáo, người đã bị kết án nhưng bỏ trốn, người
đang chấp hành án bỏ trốn nhưng bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
người phạm tội ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ.
Thứ nhất, là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp:
Thứ hai, là người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang:

Thứ ba, là người bị bắt theo quyết định bị truy nã:
Thứ tư, là người phạm tội tự thú, đầu thú:
Thứ năm, là đối với họ phải có quyết định tạm giữ:
1.2. Nội dung bảo đảm quyền của người bị tạm giữ trong tố
tụng hình sự
Nội dung đầu tiên là bảo đảm QCN của người bị tạm giữ
trong TTHS trước hết thể hiện trong việc phải bảo đảm các quyền
công dân chung của họ: Các quyền cơ bản của công dân đã được quy
định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác như Luật bầu cử,
Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ… Là công dân, người bị bắt có
quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền được pháp luật quy
định, trừ các trường hợp BLTTHS quy định khác nhằm đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ TTHS.
Thứ hai, bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ
trong TTHS từ góc độ này là đảm bảo cho người bị tạm giữ có địa vị
pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực hiện tội
phạm, bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ
thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định.
7


Một là, quy định đúng đắn, hợp lý về nội dung và thực hiện
các nguyên tắc TTHS đặc biệt là các nguyên tắc có liên quan một
cách mật thiết đến quyền của người bị tạm giữ trong TTHS vụ án
hình sự; Hai là, quy định hợp lý địa vị tố tụng của người bị bắt; quy
định cụ thể, rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm của CQĐT trong trường
hợp áp dụng BPNC tạm giữ trong TTHS; Ba là, quy định đúng đắn
chứng cứ và quá trình chứng minh trong TTHS đặc biệt là chứng
minh được các căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ của các cơ quan có
thẩm quyền trong giai đoạn điều tra. Bốn là, quy định cụ thể, hợp lý

điều kiện và thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nói
chung, các BPNC nói riêng. Đây là điều kiện tiên quyết và vô cùng
quan trọng trong việc đảm bảo QCN của người bị tạm giữ trong
TTHS. Bởi lẽ nếu các điều kiện và thủ tục tạm giữ người không được
quy định chính xác và chặt chẽ rất khó có thể đảm bảo được QCN
của chủ thể bị áp dụng BPNC tạm giữ. Năm là, quy định các thủ tục
tạm giữ người trong TTHS nói chung và trong giai đoạn điều tra nói
riêng cụ thể, dân chủ, công khai; Sáu là, quy định đầy đủ và chặt chẽ
hậu quả tố tụng, chế độ trách nhiệm đối với các quyết định oan, sai đối với
người bị tạm giữ trong TTHS v.v…
* Như vậy, việc phân biệt bảo đảm quyền công dân và bảo
đảm quyền tố tụng của người bị tạm giữ trong TTHS chỉ là tương đối
để phân tích về mặt lý luận.
1.3. Các yếu tố đặc trưng và các yếu tố bảo đảm thực hiện
quyền của người bị tạm giữ
* Các yếu tố đặc trưng của bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ
- Yếu tố hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người
trong TTHS
8


+ Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm QCN
trong hoạt động tạm giữ. Các nguyên tắc cơ bản của TTHS nhằm bảo
đảm QCN trong hoạt động tạm giữ. Trình tự giải quyết vụ án hình sự
nhằm bảo đảm QCN trong hoạt động tạm giữ. Quyền của người bị
tạm giữ. Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người có thẩm
quyền tạm giữ.
Có thể nói, pháp luật bảo đảm QCN trong TTHS là yếu tố
đầu tiên rất quan trọng để các bảo đảm QCN khác được thực hiện bởi

vì không có pháp luật thì không có quyền.
- Yếu tố tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức liên
quan tới hoạt động tạm giữ.
Thứ nhất, đối với các cơ quan tiến hành TTHS:
Cơ quan điều tra: Điều tra là khâu đột phá, quyết định sự thành
bại của toàn bộ tiến trình TTHS, CQĐT có nhiệm vụ áp dụng mọi quy
định biện pháp do luật TTHS quy định nhằm xác định sự thật khách
quan của VAHS, bảo vệ QCN. Các biện pháp do CQĐT thực hiện theo
quy định pháp luật rất đa dạng nhưng có điểm chung là đều ảnh hưởng
trực tiếp tới các QCN. Trên thực tế, CQĐT còn được áp dụng các biện
pháp nghiệp vụ của riêng ngành mình nhằm giải quyết VAHS nên khả
năng vi phạm QCN dễ xảy ra.
Thứ hai, đối với các cơ quan, tổ chức khác tham gia vào
TTHS:
Tổ chức luật sư, tổ chức giám định trong TTHS: TTHS mang
tính chất xã hội sâu sắc, nó không chỉ thể hiện chức năng bảo vệ mà
còn bộc lộ chức năng xã hội của Nhà nước.
- Yếu tố cơ chế phối hợp trong hoạt động tạm giữ trong
TTHS là một quá trình liên tục bao gồm nhiều giai đoạn khác
nhau.
9


+ Mối quan hệ nội tại giữa các cơ quan tổ chức tham gia
TTHS, chẳng hạn như mối quan hệ giữa CQĐT cùng ngạch, khác
ngạch với nhau, quan hệ giữa đoàn luật sư với văn phòng luật sư, mối
quan hệ giữa các tổ chức giám định, mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành TTHS.
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành TTHS với tổ chức
luật sư, tổ chức giám định. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành

TTHS, tổ chức luật sư, tổ chức giám định với các cơ quan khác của
Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội tham gia vào quá trình giải quyết
VAHS.
+ Yếu tố giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tạm giữ.
Để thực hiện tốt bảo đảm này, cần xác định rõ các vấn đề cơ
bản như cơ chế về chủ thể, phương thức thực hiện, các biện pháp bảo
đảm cho hoạt động này có hiệu lực trong thực tiễn cuộc sống.
+ Yếu tố xử lý vi phạm quyền con người trong hoạt động
bắt, tạm giữ, tạm giam.
Vi phạm quyền con người trong hoạt động tạm giữ cũng có
thể nảy sinh trong nội bộ dân cư, có cơ sở khách quan từ những mâu
thuẫn lợi ích. Loại vi phạm này cũng rất dễ xảy ra khi các bảo đảm
quyền con người khác không có hiệu quả như: Hệ thống pháp luật
yếu kém, tổ chức hoạt động của các cơ quan tổ chức tham gia TTHS
còn chồng chéo…
+ Yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật trong tố tụng hình sự
Bắt, tạm giữ, tạm giam đòi hỏi một khối lượng cơ sở vật chất
kỹ thuật rất lớn. Đó là trụ sở làm việc, công cụ phương tiện làm việc,
trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ, tiền
lương, tiền thù lao cho những người tham gia giải quyết VAHS.
10


Việc quyền con người, quyền công dân nói chung được ghi
nhận và thực hiện phụ thuộc nhiều vào bản chất nhà nước, chế độ
chính trị, trình độ dân chủ, cũng như phụ thuộc vào các vấn đề khác
của cả hạ tầng cơ sở và thượng tầng xã hội trong từng xã hội cụ thể,
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.


*Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của người bị tạm giữ
Việc QCN, quyền công dân nói chung được ghi nhận và thực
hiện phụ thuộc nhiều vào bản chất nhà nước, chế độ chính trị, trình
độ dân chủ, cũng như phụ thuộc vào các vấn đề khác của cả hạ tầng
cơ sở và thượng tầng xã hội trong từng xã hội cụ thể, trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Như trên đã đề cập, QCN trong TTHS nói chung
và quyền của người bị tạm giữ nói riêng thể hiện mối quan hệ pháp lý
giữa nhà nước và công dân trong việc giải quyết VAHS. Việc quy
định và bảo đảm thực hiện QCN của người bị tạm giữ trong TTHS
cũng bị tác động bởi rất nhiều nhân tố, trong đó, yếu tố chính trị, tư
tưởng, trình độ dân chủ đóng vai trò quyết định, tiếp đó là các vấn đề
pháp lý với hình thức, mô hình TTHS và các quy định của cụ thể của
pháp luật TTHS và các vấn đề liên quan khác.
1.3.1. Các bảo đảm về chính trị
Vấn đề quyền con người được TTHS bảo vệ như thế nào
cũng phản ánh trình độ dân chủ của Nhà nước và pháp luật, nó xuất
phát từ các cơ sở: cơ sở chính trị - và cơ sở xã hội. Cơ sở chính trị là
vấn đề lợi ích nhà nước, lợi ích giai cấp, cơ sở xã hội của trách nhiệm
này là vai trò của nhà nước đối với sự ổn định xã hội và trách nhiệm
với dân tộc, với công dân.
1.3.2. Bảo đảm về pháp lí
Mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm xác định rằng việc kiểm
soát được tình hình, diễn biến của tội phạm, phát hiện và xử lý
11


nghiêm khắc, trấn áp có hiệu quả hành vi phạm tội là chức năng quan
trọng nhất của TTHS. Điều đó không có nghĩa rằng để trấn áp tội phạm
(mục đích) thì có thể vi phạm các quyền con người trong TTHS.
1.3.3. Các bảo đảm khác

Việc bảo đảm quyền con người trong TTHS cần phải có một
hệ thống đồng bộ những điều kiện bảo đảm, trong đó thiết chế nhà
nước hoàn chỉnh và được tổ chức hợp lý theo tiêu chí của nhà nước
pháp quyền, quan trọng nhất là được tổ chức theo nguyên lý phân
quyền cần được xác định là điều kiện then chốt. Bộ máy nhà nước
phải hoạt động hiệu quả, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền công dân,
QCN. Đặc biệt trong số đó cần phải có hệ thống tư pháp hoàn chỉnh,
nhất là hệ thống tòa án ngày càng đa dạng, độc lập.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG,
TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Tổng quan thực trạng bảo đảm quyền quyền của
người bị tạm giữ hình sự trên địa bàn thành phố Hải Dương, tỉnh
Hải Dương
Thành phố Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm tỉnh, phía bắc giáp
huyện Nam Sách, phía đông giáp các huyện Kim Thành và Thanh Hà,
phía tây giáp huyện Cẩm Giàng, phía nam giáp huyện Gia Lộc, phía
đông nam giáp hai huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ. Thành phố Hải
Dương nằm cách Thủ đô Hà Nội 57 km về phía tây, cách thành phố Hải
Phòng 45 km về phía đông.

12


Trong những năm vừa qua, tình hình an ninh trật tự, an toàn
xã hội trên địa bàn thành phố Hải Dương diễn ra tương đối phức tạp,
nhiều vụ việc nổi cộm về an ninh trật tự đã xảy ra, điển hình như vụ
giết người xảy ra theo kiểu xã hội đen của đối tượng Cường Phố Nối,

hoặc các vụ án mua bán trái phép chất ma túy xảy ra trên địa bàn
thành phố đã bị triệt phá. Trong giai đoạn 2012 – 2016 các cơ quan
THTT đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử hàng trăm vụ án với hàng
nghìn bị can các loại.Đây là số lượng công việc tương đối lớn, trong
đó có áp dụng các BPNC thường xuyên được áp dụng trong các giai
đoạn tố tụng. Về diễn biến của tình hình tội phạm ta thấy, mức biến
động không quá lớn, và có xu hướng gia tăng cả về số vụ lẫn số bị
can. Với số VAHS giải quyết trên, các cơ quan THTT của thành phố
Hải Dương đã tích cực, chủ động đảm bảo chất lượng giải quyết, đảm
bảo QCN của người tham gia tố tụng trong đó quan trọng là bảo đảm
bảo quyền của người bị buộc tội.
2.2. Thực trạng thực hiện quyền con người của người bị
tạm giữ hình sự trên địa bàn thành phố Hải Dương tỉnh Hải
Dương
2.2.1. Những kết quả đạt được
Thực tiễn áp dụng các BPNC nói chung trong đó có biện
pháp ngăn chặn tạm giữ trong những năm vừa qua do các cơ quan
THTT thành phố Hải Dương tiến hành đã đóng góp lớn vào công tác
đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội. Đồng thời cũng bảo đảm được quyền con
người của những người bị áp dụng BPNC tạm giữ, chưa để xảy ra
trường hợp nào bắt, tạm giữ trái pháp luật.
2.2.2. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc

13


Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế
trong công tác thực hiện việc tạm giữ hình sự trên địa bàn Thành phố
Hải Dương như: Vẫn còn tình trạng người bị tạm giữ bị tạm giữ quá

hạn do hết hạn tạm giữ nhưng không có quyết định gia hạn tạm giữ
của cơ quan ra quyết định tạm giữ hoặc quyết định tố tụng khác thay
thế: năm 2014, 2015 có 02 người bị tạm giữ quá hạn.
Bên cạnh những trường hợp trả tự do có căn cứ theo quy
định của pháp luật, trong thực tế còn thể hiện số người bị tạm giữ sau
trả tự do để chờ xử lý sau. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, đối với
những trường hợp trả tự do này, thường không có căn cứ điều luật
quy định cụ thể.
Thứ nhất, về căn cứ để tạm giữ người. Thứ hai, về thủ tục tạm
giữ đối với người bị tạm giữ. Thứ ba, về thời hạn tạm giữ đối với người
bị tạm giữ. Thứ tư, về việc đảm bảo quyền của người bị tạm giữ. Thứ
năm, về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ. Thứ sáu, về
bảo đảm quyền khiếu nại về quyết định tạm giữ, quyết định, hành vi
tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của
người tạm giữ.
2.3. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con
người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam trên địa bàn thành phố Hải Dương.
2.3.1. Yếu tố cơ sở pháp pháp lý và triển khai hướng dẫn
pháp luật về thực hiện quyền con người của người bị tạm giữ theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Hiện nay, khung pháp lý cho hoạt động bảo vệ QCN của
người bị tạm giữ trong TTHS tương đối hoàn chỉnh. Địa vị pháp lý
của người bị tạm giữ được quy định xuất phát từ bản chất của việc
tạm giữ là cách ly người bị nghi thực hiện tội phạm một cách cấp
14


thiết trong một thời gian ngắn. Quyền của người bị tạm giữ được quy
định liên quan đến hai yếu tố cấu thành của tạm giữ: tính có căn cứ

của việc tạm giữ và tính hợp pháp của thủ tục tạm giữ. Quy định của
pháp luật là yếu tố cơ sở pháp lý về thực hiện QCN của người bị tạm
giữ, trong thực tiễn quy định về quyền và bảo đảm thực hiện quyền
của người bị tạm giữ còn bất cập, cụ thể là:
- Quy định về thời hạn tạm giữ theo Điều 87 BLTTHS năm
2003
- Về bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa
- Về quyền từ chối người bào chữa
- Về quyền, nghĩa vụ của người bào chữa
- Về nghĩa vụ của cơ quan, người tiến hành tố tụng

2.3.2. Yếu tố về mặt tổ chức, cơ chế thực hiện quyền
con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam
Đối với hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về mặt tổ
chức, cơ chế thực hiện QCN của người bị tạm giữ bao gồm các quy
định: Về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của CQĐT, VKS đây là các cơ
quan nhà nước trực tiếp thực việc bảo đảm các QCN trong hoạt động
tạm giữ; các quy định về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan THTT,
của người tiến hành tố tụng. Trong đó, phải xác định đầy đủ, cụ thể
các quyền và nghĩa vụ của những người THTT, trách nhiệm của họ
trong việc bảo đảm việc thực hiện các quyền của người tham gia tố
tụng.
Trong hoạt động tạm giữ cơ quan THTT, người tiến hành tố
tụng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ riêng của mình do luật định,
nhưng phải trên cơ sở các nguyên tắc: bảo đảm tính khách quan, toàn
15



diện, đầy đủ, đúng pháp luật để tránh việc lạm quyền, lộng quyền, vi
phạm pháp luật từ phía các cơ quan tư pháp và người đại diện của các
cơ quan này. Từ đó, nhằm đạt mục đích chung là bảo vệ lợi ích nhà
nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Các cơ quan tham gia vào hoạt động tạm giữ như CQĐT,
VKS với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền khác nhau nhưng có
chung một mục đích là bảo đảm chất lượng, hiệu quả của việc giải
quyết các vụ án theo quy định của pháp luật. Vì vậy, cần phải có cơ
chế phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, cũng như cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan tư pháp và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội
trong việc thời gian vào lĩnh vực hoạt động này. Cơ chế phối hợp này
phải bảo đảm tính chặt chẽ, thông suốt, hỗ trợ cho nhau trong công
việc, đồng thời phải có sự chế ước lẫn nhau trên cơ sở trách nhiệm
được phân công.
Chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ của
VKS cũng là yếu tố đảm bảo cho việc áp dụng các BPNC phát huy
được tác dụng trong ngăn ngừa tội phạm và đảm bảo các hoạt động tố
tụng được tiến hành thuận lợi, không để xảy ra oan, sai. Tuy nhiên
trong thời quan qua, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại nơi
tạm giữ, tạm giam ở Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương không
được tiến hành một cách thường xuyên và đều khắp. Vì vậy, các vi
phạm chưa được khắc phục kịp thời, cho nên VKS chưa phát huy
được hết vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác tạm giam.
Về cơ chế giám sát đối với việc bảo đảm QCN trong hoạt
động tạm giữ là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước liên quan
trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người - là lĩnh vực có tính
16



nhạy cảm cao. Cho nên, đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ, để các
hoạt động trong lĩnh vực này luôn được thông suốt, đúng pháp luật
bảo đảm tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc
giám sát đối với hoạt động tạm giữ cần phải phát huy được đông đảo
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tham gia. Trong
đó, cần xác định rõ các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của "người
giám sát", của "người chịu sự giám sát", việc giải quyết các vướng
mắc trong hoạt động này v.v...
2.3.3. Yếu tố về mặt nhận thức, năng lực thực hiện các chủ
thể thực hiện quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam
Thực tế cho thấy, mặt nhận thức, năng lực thực hiện các chủ
thể quyền con người ở nước ta còn nhiều hạn chế, dẫn đến những
hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân,
đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền và một số cơ quan tư pháp.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
3.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về
bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam
Quyền con người vừa có tính phổ biến nhưng cũng có tính
đặc thù. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người dù muốn
hay không cũng không thể được thực hiện ngay lập tức. Nó phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
17



Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền con người cũng phải
phù hợp với quy định trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về QCN là một yêu cầu tất
yếu khách quan nhằm bảo đảm cho hoạt động này diễn ra theo đúng
định hướng của Đảng, Nhà nước ta.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về QCN phải thể hiện được
tư tưởng, làm cho pháp luật về QCN phát huy hiệu quả trên thực tế.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng pháp
luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
Thứ nhất, về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ. Khi
nghiên cứu địa vị pháp lý, từ góc độ bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ và bản chất pháp lý của hoạt động tố tụng hình sự,
có một vấn đề đặt ra cần được giải quyết, đó là người bị tạm giữ có
quyền bào chữa hay không? Theo chúng tôi, người bị tạm giữ trong
trường hợp chưa bị khởi tố hình sự là người mới chỉ bị nghi thực hiện
tội phạm. CQĐT ra quyết định tạm giữ, để ngăn chặn người đó tiếp
tục phạm tội hoặc phạm tội mới, để có điều kiện thuận lợi xác minh
làm sáng tỏ hành vi phạm tội. Do đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy
định Điều 59 về quyền của người bị tạm giữ như sau:
“a) Được biết lý do mình bị tạm giữ và theo tội danh nào;
b) Được giải thích quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời khai;
d) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

18



đ) Tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho mình;
e) Quyền tư vấn pháp luật;
g) Quyền im lặng;
h) Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
i) Được bồi thường thiệt hại do bị tạm giữ oan sai;
k) Được bồi thường thiệt hại do tài sản , đồ vật, tài liệu bị
mất mát hư hỏng do người tiến hành tốtung ̣ gây ra.
l) Gặp hoặc trao đổi trực tiếp qua điện thoại với người thân,
hoặc với người bào chữa để được tư vấn pháp luật khi không muốn
gặp trực tiếp.
n) Tiếp nhận, dùng đồ ăn, nước uống do người thân cung cấp
không bi ̣ hạn chế về số lần và thời gian tiếp nhận (nếu cóyêu cầu).
m) Măc ̣ quần áo thường phục riêng của mình khác với quần
áo của người chấp hành án”.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 cũng quy định về nghĩa vụ
của người bị tạm giữ một cách rất chung chung. Tại khoản 3 Điều 59
BLTTHS năm 2015, quy định về nghĩa vụ của người bị tạm giữ:
“Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ
theo quy định của pháp luật”.
Thứ hai, cần bổ sung cơ chế bảo đảm quyền chứng minh vô
tội của người bị tạm giữ trong TTHS.
Thứ ba, theo quy định tại Điều 59 BLTTHS năm 2015,
người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa cho mình nhưng BLTTHS hiện hành lại chưa quy định việc cơ
quan ra quyết định tạm giữ thông báo việc tạm giữ. Vì vậy, chúng tôi
đề nghị bổ sung thêm quy định:

19


Trong hạn 12 giờ kể từ khi bị tạm giữ cơ quan ra quyết định
tạm giữ phải thông báo cho gia đình người bị tạm giữ, chính quyền
xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giữ cư
trú hoặc làm việc. Trường hợp người bị tạm giữ yêu cầu mời người
bào chữa thì cơ quan ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho
người bào chữa (nếu họ mời đích danh) hoặc đoàn luật sư để giúp
người bị tạm giữ mời người bào chữa.
Thứ tư, cần bổ sung thêm những quy định bảo đảm các
quyền dân sự của người bị tạm giữ. Một trong những nguyên tắc cơ
bản của TTHS được ghi nhận trong BLTTHS là chỉ khi bị kết án
bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án thì một người mới
bị xem là có tội.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng cần hoàn thiện
các quy định về địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
bằng cách:
- Bổ sung các quyền được tôn trọng và bảo vệ quyền tự do
thân thể, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự theo quy định của
pháp luật;
- Bổ sung quyền được im lặng của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong TTHS.
- Bổ sung quyền được yêu cầu cơ quan, người tiến hành tố
tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm;
- Bổ sung trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng
bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng của
họ theo quy định của pháp luật; trách nhiệm áp dụng các biện pháp
cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
người tham gia tố tụng khi có yêu cầu;


20


3.2.2. Công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật về bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình
sự
- Hướng dẫn về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không
giam giữ như cấm đi khỏi nơi cư trú, cải tạo không giam giữ, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng
tăng cường áp dụng các biện pháp này.
- Hướng dẫn cụ thể, thống nhất về một số kỹ năng, thủ tục tố
tụng nhằm bảo đảm tốt hơn QCN của người tạm giữ, như trình tự, thủ
tục đăng ký bào chữa; sự tham gia của người bào chữa vào quá trình
tố tụng, nhất là trong giai đoạn tạm giữ.
3.3. Giải pháp đối với thực tiễn bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
3.3.1. Nâng cao nhận thức trình độ của Điều tra viên, Kiểm
sát viên
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tố tụng cho đội ngũ ĐTV, KSV. Những
người tiến hành tố tụng phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các quy
định của pháp luật liên quan đến bảo đảm QCN;
- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chính sách pháp
luật, nhất là chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người
phạm tội, quan điểm bảo đảm QCN trong Nhà nước pháp quyền
XHCN cho cán bộ cơ quan THTT các cấp;
- Đồng thời cũng cần phải có các quy định của pháp luật về
trách nhiệm cá nhân của người ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam,
trong các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật về bắt

người.

21


3.3.2. Hoàn thiện chế độ trách nhiệm đối với người tiến
hành tố tụng.
Chế độ trách nhiệm chưa được quy định rõ ràng, minh bạch,
được truy cứu chưa thật nghiêm minh đối với các vi phạm QCN của
người bị tạm giữ từ phía người tiến hành tố tụng. Chế tài tố tụng đối
với các vi phạm chưa rõ rang, thiếu cụ thể. Cho đến nay chúng ta có
Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do
người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra. Luật bồi thường
của Nhà nước được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ V Quốc hội
khóa 12 cũng chưa bao hàm các trường hợp oan, sai trong TTHS.
Mặc dù BLTTHS có các nguyên tắc quan trọng quy định người làm
trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật hoặc bị truy cứu TNHS (điều 12); quy định được bồi thường
thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền THTT gây ra (điều
30). Nhưng trên thực tế các quy định này ít được áp dụng. Việc truy
cứu TNHS ít được đặt ra, nếu đó không phải là hành vi cố ý; chế độ
kỷ luật mới được thực hiện ở mức độ hạn chế, chủ yếu là không bổ
nhiệm lại chức danh tố tụng nếu có nhiều sai sót nghiêm trọng; việc
bồi thường thiệt hại do sai hầu như chưa được thực hiện. Đặc biệt,
quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan THTT, người tiến hành tố tụng
liên quan đến QCN chủ yếu tập trung ở người lãnh đạo các cơ quan
THTT như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó
Viện trưởng VKS, trách nhiệm đó lại không gắn với hoạt động tố

tụng trực tiếp cho nên chế độ trách nhiệm không rõ ràng…

22


KẾT LUẬN
Bảo đảm QCN nói chung, QCN của người tạm giữ nói riêng
trong TTHS sự là vấn đề rộng và chưa được nghiên cứu nhiều trong
khoa học luật TTHS nước ta. Đây là một vấn đề khó nhưng rất quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn, nên tác giả đã quyết định chọn đề tài:
“Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương”. Với khả năng có hạn, tác giả đã cố gắng nghiên cứu và đạt
được một số kết quả khiêm tốn sau đây:
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ thêm một sốvấn đề lý luận
chung về quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ trong tố tụng hình sự;
Luận văn đã phân tích các quy định của BLTTHS đánh giá
thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong tố
tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra
những hạn chế, bất cập về bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ trong tố tụng hình sự;
Luận án đã đưa ra được số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và tăng
cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong họat
động tố tụng hình sự.
Thông qua việc nghiên cứu lý luận về bảo đảm QCN trong
của người bị tạm giữ việc phân tích thực trạng pháp luật, nghiên cứu
thực tiễn hoạt động tạm giữ tìm ra những bất cập và nguyên nhân của
chúng là cơ sở khoa học, thực tiễn quan trọng cho việc hoàn thiện

pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm QCN của người bị
tạm giữ trong TTHS. Trên cơ sở đó, để bảo đảm QCN của người bị
23


×