MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với các chiến lược phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, Nhà nước ta luôn quan tâm và đẩy mạnh việc thực
hiện chính sách, pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Dưới
góc độ pháp luật hình sự, Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng
hình sự (BLTTHS) Việt Nam hiện hành đã có chương riêng quy định
về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội, về thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm
tội cũng như thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ
yếu nhằm bảo vệ một cách tốt nhất lợi ích của người dưới 18 tuổi, giáo
dục giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
công dân có ích cho xã hội.
Biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp lý quan trọng của
luật tố tụng hình sự, là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng
chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để
kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị
can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để bảo đảm thi
hành án hình sự. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất lớn
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự và hiệu quả cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ chính trị, xã hội, nhất là quyền
cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác, đặc biệt, đối với những người là người dưới 18 tuổi.
Do địa vị pháp lý và đặc điểm nhân thân của người dưới 18 tuổi, là
người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đủ 18 tuổi, việc áp dụng
1
các biện pháp ngăn chặn đối với họ không chỉ đơn thuần là hạn chế
một số quyền tự do của họ để bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án
hình sự mà còn liên quan đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, nên việc áp dụng biện pháp ngăn chặn thường tác động,
ảnh hưởng đến các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền là
những vấn đề dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng hoặc dễ gây phản ứng
trong dư luận xã hội.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người dưới 18 tuổi là một trong
những vấn đề phức tạp của tố tụng hình sự (TTHS), đã và đang có rất
nhiều ý kiến tranh luận khác nhau về lý luận cũng như thực tiễn cần
được thống nhất và làm rõ. Với tính chất đặc biệt, trong BLTTHS năm
2003, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được quy định tại
Chương XXXII, Phần thứ bảy (Thủ tục đặc biệt). Thủ tục này đóng vai
trò quan trọng trong việc giải quyết những vụ án hình sự có người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi; qua thực
tiễn thi hành, đã phát huy hiệu lực, hiệu quả, góp phần tích cực trong
đấu tranh, xử lý tội phạm người dưới 18 tuổi.
Nghiên cứu thực tế những năm qua việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong cả nước nói
chung cũng như địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nói riêng
còn những hạn chế nhất định, dẫn đến hậu quả bỏ lọt tội phạm, làm
oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
(XHCN) trong TTHS, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân, nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân…Vì vậy, nắm vững các biện pháp ngăn chặn
quy định trong BLTTHS là điều cần thiết, giúp các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy ra, đồng thời
nâng cao hiệu quả trong việc ngăn chặn người dưới 18 tuổi phạm tội,
phục vụ đắc lực hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
2
Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành đến nay, chế
định những biện pháp ngăn chặn là một mảng đề tài được nhiều nhà
khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau với phạm vi nghiên cứu phủ quát từ rộng đến hẹp.
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu đã phân tích và làm
sáng tỏ được vấn đề liên quan đến biện pháp ngăn chặn áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội ớ các góc độ nghiên cứu khác
nhau giúp cho tác giả luận văn xây dựng và hoàn thiện các ý tưởng
khoa học trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên cho đến nay
vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu trực diện về những kết quả
đạt được cũng như vướng mắc trong quá trình áp dụng các biện pháp
ngăn chặn cụ thể đối với người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng của việc áp
dụng biện pháp này.
Do đó, tác giả có thể khẳng định đề tài luận văn của mình
không trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã được công bố từ trước
đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật TTHS về các biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội và khảo sát thực trạng áp dụng các biện pháp
này trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, luận văn đưa ra hệ thống
3
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn
chặn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phân tích, làm rõ quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Làm rõ thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, xác định những hạn chế và nguyên nhân
của hạn chế trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
- Đưa ra hệ thống giải pháp góp phần bảo đảm áp dụng đúng
các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định
của pháp luật TTHS và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về
các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định của BLTTHS
Việt Nam về những biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên mà không nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự
nước ngoài về vấn đề này.
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực tiễn áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian khảo sát: Luận văn nghiên cứu số liệu về các
biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được áp
4
dụng từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
nhà nước pháp quyền, về chính sách nhân đạo đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, về vấn đề cải cách tư pháp, về công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm và các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng hệ thống
phương pháp phổ biến hiện nay trong nghiên cứu khoa học như: phân
tích, tổng hợp, thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia để làm cách thức
tiếp cận đề tài. Các biện pháp này quan hệ biện chứng hỗ trợ nhau trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần nhận thức toàn diện,
sâu sắc về các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội. Làm rõ được những bất cập khi áp dụng các biện pháp
ngăn chặn so với quy định trong BLTTHS năm 2003. Đưa ra kiến nghị
nhằm hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS về việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Qua đó,
nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân nhất là đối với người dưới 18 tuổi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn này nếu được ứng dụng vào
trong thực tiễn sẽ rút ngắn khoảng cách giữa quy định của pháp luật và
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trên thực tiễn; là tài liệu cho các cán bộ thực tiễn đang công
tác tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án
(TA) trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội được chính xác, khách quan.
5
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Quy định của pháp luật TTHS hiện hành về các
biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn
áp dụng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội và các biện
pháp ngăn chặn đối với họ
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Định nghĩa khoa học về người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi
các đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự.
1.1.2. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.2.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Khái niệm biện pháp ngăn chặn như sau: Biện pháp ngăn chặn
là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền
được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc
người bị nghi là phạm tội nhằm kịp thời ngăn chặn họ thực hiện tội
6
phạm hoặc khi có căn cứ họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án.
1.1.2.2. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội như sau: Biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự do người có
thẩm quyền được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với bị can, bị
cáo hoặc người bị nghi là phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
nhằm kịp thời ngăn chặn họ thực hiện tội phạm hoặc khi có căn cứ họ
sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để đảm bảo thi hành án.
1.2. Các yêu cầu và ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Các yêu cầu của việc quy định các biện pháp ngăn
chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Trong những năm gần đây, tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện ngày càng gia tăng về số lượng, đa dạng về loại tội, tính chất
và mức độ nghiêm trọng ngày càng cao. Đặc biệt độ tuổi người dưới
18 tuổi phạm tội ngày càng thấp. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người dưới 18 tuổi là một trong những vấn đề phức tạp của TTHS.
Pháp luật tố tụng hình sự phải thể hiện mức độ ưu tiên để hướng
tới bảo đảm một cách tốt nhất lợi ích của người dưới 18 tuổi. Việc quy
định các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải
đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, việc quy định các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội phải dựa trên các tư tưởng pháp lý
tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại.
Thứ hai, việc quy định các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
7
người dưới 18 tuổi phạm tội phải dựa trên cơ sở thể chế hóa chủ trương,
chính sách của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa yêu cầu của Hiến
pháp, nội luật hóa các quy định có liên quan của các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.
Thứ ba, việc quy định các biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phải dựa trên những luận chứng khoa học thể hiện sự kết
hợp hài hòa giữa khoa học pháp lý với các ngành khoa học khác. Để
đảm bảo quyền lợi của người dưới 18 tuổi thì việc quy định các biện
pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phải ứng dụng các thành
tựu khoa học khác như khoa học tâm lý, sinh lý người dưới 18 tuổi, xã
hội học về người dưới 18 tuổi.
1.2.2. Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
- Việc áp dụng đúng đắn biện pháp ngăn chặn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội góp phần đảm bảo cho hoạt động của các cơ
quan có thẩm quyền được thực hiện thuận lợi, việc chứng minh vụ án
đạt kết quả tốt, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống
tội phạm.
- Áp dụng đúng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội góp phần bảo đảm việc thực hiện dân chủ, tôn trọng các
quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ, góp phần quan
trọng trong việc bảo vệ quyền con người trong TTHS nói chung cũng
như quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội.
- BLTTHS quy định các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn
chặn nói chung tại Điều 79 BLTTHS, cũng như áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi nói riêng tại Điều 303 BLTTHS
là nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm và đảm bảo cho quá
trình giải quyết vụ án được tiến hành một cách thuận lợi.
- Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi
8
phạm tội nhằm góp phần bảo đảm trật tự xã hội, bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, đồng thời trấn áp một
cách mạnh mẽ, kiên quyết đối với tội phạm.
- Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi
cũng góp phần vào việc không để người dưới 18 tuổi tiếp tục phạm tội,
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án.
1.3. Các đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội bao gồm: Bắt, Tạm giữ, Tạm giam, Cấm đi khỏi nơi cư
trú, Bảo lĩnh, Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm và Giám sát
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
BLHS năm 1999 từ Điều 69 đến Điều 77 là những quy định
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều 12 BLHS đã định rõ tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi. Điều 69 quy
định những nguyên tắc cơ bản về xử lý những hành vi phạm tội của
người dưới 18 tuổi, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải thận
trọng khi xử lý phải xác định rõ tính chất nguy hiểm của hành vi phạm
tội, lấy biện pháp giáo dục, phòng ngừa là chính và chỉ áp dụng hình
phạt khi cần thiết, không tử hình và phạt tù chung thân đối với người
9
dưới 18 tuổi phạm tội. Tại các điều 70, 71, 72, 73, 74 nêu lên các biện
pháp tư pháp, các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội đã thể hiện sự coi trọng công tác phòng ngừa, lấy giáo dục thuyết
phục là chính trong đó có biện pháp tư pháp, giáo dục, phòng ngừa do
TA quy định gồm giáo dục tại địa phương, đưa vào trường giáo
dưỡng. Đây là những căn cứ pháp lý để tiến hành tổ chức các hoạt
động phòng ngừa, không để tội phạm xảy ra và khi đã xảy ra phải điều
tra, xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cho đúng pháp luật.
Cùng với các quy định của BLHS 1999, BLTTHS 2003 cũng
dành toàn bộ Phần thứ bảy, Thủ tục đặc biệt và Chương XXXII quy
định thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội bao gồm: Bắt, Tạm giữ, Tạm giam, Cấm đi khỏi nơi cư
trú, Bảo lĩnh, Đặt tiền hoặc tài sản có gí trị để bảo đảm và Giám sát đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội.
2.1.1. Quy định về bắt người dưới 18 tuổi phạm tội
* Bắt bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi để tạm giam
* Bắt người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp khẩn cấp
* Bắt người dưới 18 tuổi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
2.1.2. Quy định về tạm giữ người dưới 18 tuổi phạm tội
Tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được áp
dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú, hoặc đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã.
Trong thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn bị tạm giữ được trừ
vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày
tạm giam.
2.1.3. Quy định về tạm giam người dưới 18 tuổi phạm tội
10
Tạm giam đối với người dưới 18 tuổi là biện pháp ngăn chặn
áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phạm
tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm mà BLHS
hiện hành quy định hình phạt trên 2 năm tù và có căn cứ cho rằng
người đó có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội. Theo quy định của BLTTHS, áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải kết
hợp các điều 80, 88 với Điều 303, theo đó người dưới 18 tuổi phạm tội
chỉ bị tạm giam theo loại tội tương ứng với độ tuổi.
2.1.4. Quy định về cấm đi khỏi nơi cư trú người dưới 18 tuổi
phạm tội
Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người dưới 18 tuổi là biện pháp
ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo
giấy triệu tập của CQĐT, VKS, TA.
2.1.5. Quy định về bảo lĩnh người dưới 18 tuổi phạm tội
Bảo lĩnh đối với người dưới 18 tuổi là biện pháp ngăn chặn
được các cơ quan THTT áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để thay thế biện
pháp tạm giam nhằm đảm bảo không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm
tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm sự có mặt của họ
theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT.
Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có ít nhất hai người và là thân
thích của bị can, bị cáo. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị
cáo là thành viên của tổ chức mình.
Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có tư cách đạo đức tốt, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật. Việc nhận bảo lĩnh, phải có xác nhận của
chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó
làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lãnh phải có xác
11
nhận của người đứng đầu tổ chức.
Cá nhân hay tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam
đoan thì phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan, trường hợp
này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
2.1.6. Quy định về đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
người dưới 18 tuổi phạm tội
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đối với người dưới
18 tuổi là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam do
CQĐT, VKS, TA áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo nhằm đảm
bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT.
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Tổng quan người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2012 đến năm 2016 tại
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng thể hiện qua bảng thống kê sau:
Bảng 2.1. Số đối tượng phạm tội trên địa bàn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng (2012 – 2016)
Đối tượng là người
Đối tượng là người
Tổng số đối
đủ 18 tuổi
dưới 18 tuổi
tượng bị xử lý
Năm
hình sự
Số đối
Tỷ lệ %
Số đối
Tỷ lệ %
(1)
tượng (2)
(2)/(1)
tượng (3)
(3)/(1)
2012
115
108
93,9
7
6,1
2013
129
121
93,8
8
6,2
2014
143
140
97,9
3
2,1
2015
112
103
92
9
8
2016
132
123
93,2
9
6,8
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016)
Với tỷ lệ nêu trên, đối tượng người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
12
bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, so với cả nước còn ở mức thấp.
Tuy nhiên, qua số liệu trên chúng ta có thể thấy tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện đang là vấn đề nan giải và đang có xu
hướng gia tăng không chỉ ở địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
mà còn ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước.
2.2.2. Tổng quan kết quả biện pháp bắt người
Bảng 2.2. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tại quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng (2012-2016)
Tổng số đối Tổng số đối
Số đối
Số đối
tượng đủ 18 tượng đủ 18
tượng tượng dưới
tuổi và dưới tuổi và dưới Tỷ lệ dưới 18 18 tuổi bị Tỷ lệ
18 tuổi bị áp
% tuổi bị xử áp dụng
%
Năm 18 tuổi bị
xử lý về
dụng biện
lý về
biện pháp
hình sự
pháp bắt
hình sự
bắt
2012
2013
2014
2015
2016
(1)
(2)
(2)/(1)
(3)
(4)
(3)/(4)
115
129
143
112
132
17
38
51
28
48
14,38
29,46
35,66
25
36,36
7
8
3
9
9
4
2
1
5
2
57
25
33,33
55,55
22,22
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016)
Thực tế áp dụng biện pháp này tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng cho thấy, sau thực hiện lệnh bắt khẩn cấp, vẫn có tình trạng
CQĐT không báo ngay cho VKS mà tiếp tục ra quyết định tạm giữ rồi
mới gửi đồng thời lệnh bắt khẩn cấp và quyết định tạm giữ cho VKS
cùng cấp phê chuẩn. Hoặc cũng có trường hợp CQĐT ra lệnh bắt khẩn
cấp, tạm giữ vẫn không gởi hồ sơ cho VKS mà hết hạn tạm giữ mới
gửi quyết định gia hạn tạm giữ cùng lệnh bắt và quyết định tạm giữ
cho VKS xét phê chuẩn. Trong những trường hợp này, rõ ràng CQĐT
13
đặt VKS vào tình thế sự việc đã rồi, hạn chế vai trò kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKS.
2.2.3. Tổng quan kết quả áp dụng biện pháp tạm giữ
Bảng 2.3. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tại quận Cẩm
Lệ, thành phố Đà Nẵng (2012-2016)
Năm
Tổng số
đối tượng
đủ 18 tuổi
và dưới 18
tuổi bị xử
lý về hình
sự
Tổng số đối
tượng đủ 18
tuổi và dưới
18 tuổi bị áp
dụng biện
pháp tạm
giữ
Tỷ lệ
%
(1)
(2)
(2)/(1)
(3)
(4)
(3)/(4)
115
129
143
112
132
19
40
56
30
54
16,52
31
39,16
26,79
40,9
7
8
3
9
9
4
2
1
2
2
57
25
33,33
22,22
22,22
2012
2013
2014
2015
2016
Số đối
Số đối
tượng
tượng
dưới 18
dưới 18
tuổi bị áp
tuổi bị
dụng biện
xử lý về
pháp tạm
hình sự
giữ
Tỷ lệ
%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016)
Thực tế áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn quận cho thấy
việc tạm giữ hình sự đối với trường hợp phạm tội quả tang do người
dưới 18 tuổi gây ra chủ yếu ở các nhóm tội xâm phạm sở hữu, sức
khỏe và xâm phạm an ninh trật tự chiếm tỷ lệ cao. Tạm giữ hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực
lượng kiểm tra, xác minh kịp thời về vụ việc phạm tội xảy ra, trên cơ
sở đó có những quyết định đúng đắn trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn.
14
2.2.4. Tổng quan kết quả áp dụng biện pháp tạm giam
Bảng 2.4. Số bị can bị áp dụng biện pháp tạm giam tại quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng (2012-2016)
Tổng số
Tổng số đối
đối tượng tượng đủ
đủ 18 tuổi 18 tuổi và
và dưới 18 dưới 18 tuổi
Năm
tuổi bị xử bị áp dụng
lý về hình biện pháp
sự
tạm giam
2012
2013
2014
2015
2016
Tỷ lệ
%
Số đối
tượng
dưới 18
tuổi bị
xử lý về
hình sự
Số đối
tượng
dưới 18
tuổi bị áp
dụng biện
pháp tạm
giam
Tỷ lệ
%
(1)
(2)
(2)/(1)
(3)
(4)
(3)/(4)
115
129
143
112
132
62
83
103
71
99
53,91
64,34
72,03
63,39
75
7
8
3
9
9
4
4
2
7
2
51,14
50
66,67
77,78
22,22
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016)
Với số liệu thống kê trên, chúng ta thấy số người dưới 18 tuổi
phạm tội bị áp dụng biện pháp tạm giam là 19 đối tượng, chiếm 52,77
% trong tổng số 36 đối tượng. Tỷ lệ này cao hơn so với các biện pháp
ngăn chặn khác như biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, biện pháp bảo
lĩnh.
Trên cơ sở đối tượng bị bắt để tạm giam thì việc áp dụng biện
pháp này là ổn định, ít bị thay đổi biện pháp ngăn chặn. Đa số đối
tượng được chuyển từ tạm giữ lên để tạm giam. Qua đó cho thấy
CQĐT đã có chế độ quản lý theo dõi, kiểm tra đôn đốc kịp thời, kết
hợp việc kiểm tra của VKS về chế độ tạm giữ theo quy định.
2.2.5. Tổng quan kết quả áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú
15
Bảng 2.5. Số bị can bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng (2012-2016)
Năm
Tổng số đối
Tổng số đối
tượng đủ 18 tượng đủ 18 tuổi
tuổi và dưới 18 và dưới 18 tuổi
tuổi bị xử lý về bị cấm đi khỏi
hình sự
nơi cư trú
Tỷ lệ
%
Số đối
Số đối tượng
tượng dưới dưới 18 tuổi bị
18 tuổi bị
áp dụng biện
xử lý về
pháp cấm đi
hình sự
khỏi nơi cư trú
Tỷ lệ
%
(1)
(2)
(2)/(1)
(3)
(4)
(3)/(4)
2012
115
53
46,09
7
3
42,86
2013
129
46
35,66
8
4
50
2014
143
40
27,97
3
1
33,33
2015
112
41
36,61
9
2
22,22
2016
132
33
25
9
7
77,78
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016)
Qua bảng thống kê cho thấy các cơ quan có thẩm quyền đã quan
tâm đến việc thay đổi biện pháp ngăn chặn, trong đó không áp dụng
biện pháp có tính nghiêm khắc cao chuyển sang áp dụng biện pháp cấm
đi khỏi nơi cư trú để cho người bị áp dụng thấy được sự khoan hồng,
tính nhân đạo của Nhà nước và có tác dụng động viên đối với họ.
2.2.6. Tổng quan kết quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh
Bảng 2.6. Số đối tượng phạm tội bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng (2012-2016)
Năm
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng số đối
Tổng số đối
tượng đủ 18 tượng đủ 18 tuổi
tuổi và dưới và dưới 18 tuổi bị
18 tuổi bị xử
áp dụng biện
lý về hình sự
pháp bảo lĩnh
(1)
115
129
143
112
132
(2)
2
4
4
1
3
Số đối
Số đối tượng
tượng dưới dưới 18 tuổi
Tỷ lệ % 18 tuổi bị
bị áp dụng
xử lý về
biện pháp
hình sự
bảo lĩnh
(2)/(1)
1,74
3,1
2,8
0,9
2,27
(3)
7
8
3
9
9
(4)
0
0
0
1
1
Tỷ lệ
%
(3)/(4)
0
0
0
11,11
11,11
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016)
16
Qua nghiên cứu các nội dung này, chúng tôi cho rằng việc quy
định những điều kiện áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo
còn chung chung, chưa cụ thể, chưa thật đầy đủ, gây khó khăn hoặc dễ
dẫn đến tùy tiện, có thể nảy sinh những tiêu cực hoặc thiếu vô tư của
người có thẩm quyền áp dụng.
2.2.7. Tổng quan kết quả áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng buộc một người phải đưa ra khả năng kinh tế hiện
có của mình để gắn trách nhiệm với hoạt động TTHS bảo đảm cho
việc không gây khó khăn cản trở quá trình điều tra hoặc có thể bỏ trốn.
Đây là một trong những biện pháp ngăn chặn mới được ghi nhận trong
BLTTHS năm 2003.
Việc áp dụng đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là cần
thiết, song các cơ quan có thẩm quyền cũng mới chỉ có hướng dẫn về
việc đặt tiền để bảo đảm, chưa có hướng dẫn cụ thể về việc đặt tài sản
có giá trị để bảo đảm.
2.3. Những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi tại quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng và nguyên nhân
2.3.1. Những vi phạm, sai lầm
Trên thực tế việc xác định căn cứ để áp dụng các trường hợp
bắt cụ thể còn lúng túng, có lúc trở nên sai phạm hay quá lạm dụng,
không tuân thủ những quy định của Điều 303 BLTTHS.
Sau khi thực hiện Lệnh bắt khẩn cấp, vẫn có tình trạng CQĐT
không báo ngay cho VKS mà tiếp tục ra quyết định tạm giữ rồi mới
gửi đồng thời Lệnh bắt khẩn cấp và Quyết định tạm giữ cho VKS cùng
cấp phê chuẩn...
Giữa CQĐT và VKS không thống nhất về hồ sơ, tài liệu liên
quan đến việc bắt khẩn cấp để trình VKS phê chuẩn.
17
Trường hợp đối tượng dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng
bị bắt quả tang nhưng không thể tạm giữ, tạm giam, được cho tại ngoại
chờ kết quả thẩm định, định giá tài sản… Các đối tượng này tuy là
người dưới 18 tuổi nhưng đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật, bất
hợp tác, nhưng các cơ quan tố tụng vẫn không thể tạm giữ, tạm giam
vì vướng Điều 303 Bộ luật TTHS là một điều bất hợp lý và gây nhiều
khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.
Việc tạm giữ hành chính và tạm giữ tố tụng còn lẫn lộn dẫn
đến không phân hóa được đối tượng giam giữ hoặc quá tải ở nhà tạm
giữ; còn có trường hợp tạm giữ người dưới 18 tuổi cùng với đối tượng
đã đủ 18 tuổi.
Đối với biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, thực tế vẫn để xảy ra
trường hợp người nhận bảo lĩnh vi phạm cam kết để bị can bỏ trốn, ảnh
hưởng đến hiệu quả của việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong TTHS.
2.3.2. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm
Thứ nhất, các quy định của BLTTHS còn nhiều vấn đề bất
cập, chưa đồng bộ, chưa thống nhất, còn chồng chéo gây khó khăn cho
việc áp dụng.
Thứ hai, do sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các cơ quan THTT.
Thứ ba, do hạn chế về nhận thức, năng lực, kỹ năng nghiệp vụ
của người THTT.
CHƯƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp
ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
3.1.1. Yêu cầu của nguyên tắc pháp chế XHCN
Pháp chế là một nguyên tắc Hiến định. Trong tố tụng hình sự,
18
khi mà quan hệ tố tụng chủ yếu là quan hệ quyền lực thì yêu cầu bảo
đảm pháp chế được đặt ra trước hết và chủ yếu đối với các cơ quan có
thẩm quyền THTT và người có thẩm quyền THTT. Trong bất kỳ lĩnh
vực nào thì pháp chế đều có nghĩa là bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp,
nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tuân theo những căn
cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục là yêu cầu số một. Thủ tục pháp lý
chặt chẽ luôn luôn được coi là yếu tố cốt lõi của chế độ pháp quyền
bởi đó là lá chắn hữu hiệu để bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
3.1.2. Yêu cầu của nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội
Để bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Công ước quốc tế về
quyền trẻ em, đảm bảo việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội được
khách quan, chính xác, nhân đạo, thể hiện đúng đắn chính sách hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong tình hình mới, bảo vệ tốt
hơn quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi, đáp ứng được các chuẩn
mực quốc tế, các quy định về thủ tục tố tụng nói chung và về các biện
pháp ngăn chặn nói riêng trong BLTTHS phải được hoàn thiện để giải
quyết tốt những yêu cầu nói trên.
3.1.3. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền của người
dưới 18 tuổi
Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
là tư tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013.
Quyền con người, đặc biệt là quyền của người dưới 18 tuổi là
những giá trị xã hội cao nhất có ý nghĩa xã hội to lớn về nhiều mặt, do
vậy đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền THTT và người có thẩm quyền
THTT phải có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ một cách có hiệu quả.
Đây cũng chính là yêu cầu cốt lõi bảo đảm áp dụng đúng các biện
pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
19
3.1.4. Yêu cầu phòng, chống tội phạm
Tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm mọi hành vi
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác,
kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội là chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cơ
quan nhà nước mà nòng cốt là các cơ quan bảo vệ pháp luật. Các cơ
quan tiến hành tố tụng phải làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm về áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung và đối với
người dưới 18 tuổi nói riêng mới góp phần đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm có hiệu quả.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp
ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
3.2.1. Bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLTTHS năm
2015 về các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Thứ nhất, Tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu BLTTHS năm
2015, đặc biệt về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố
tụng hình sự nói chung và về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế đối với người dưới 18 tuổi nói riêng để các cơ quan có thẩm quyền
THTT và người có thẩm quyền THTT thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo đúng yêu cầu đổi mới của
BLTTHS năm 2015.
Thứ hai, Xây dựng các văn bản hướng dẫn về các quy định
biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để việc áp
dụng chế định này được chính xác, thống nhất, bảo vệ một cách tốt
nhất quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi.
Thứ ba, Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật luôn luôn được
tiến hành thường xuyên, liên tục, phù hợp với định hướng công tác phổ
20
biến, giáo dục pháp luật mà Đảng đã đề ra. Phổ biến, giáo dục pháp luật
chính là sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân biết, để giám sát.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật
BLTTHS năm 2015 đã thể chế hóa đầy đủ, sâu sắc chủ trương
cải cách tư pháp của Đảng, Hiến pháp năm 2013, thể hiện sự công
tâm, khách quan, vì cuộc sống bình yên của nhân dân, vì những giá trị
văn minh, tiến bộ của nền tư pháp. BLTTHS năm 2015 đã khắc phục
những hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến mục tiêu chống bỏ lọt tội
phạm và chống làm oan người vô tội của BLTTHS năm 2003. Những
nội dung mới của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự có sự tiến bộ về nhận thức cũng như kỹ thuật lập
pháp. Những bất cập trong quy định về các biện pháp này của
BLTTHS năm 2003 về cơ bản đã được khắc phục theo hướng rõ ràng
hơn về thẩm quyền, chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục, bảo đảm hơn
quyền con người của những người tham gia tố tụng và phù hợp hơn
với thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu bước đầu quy định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, chúng
ta nhận thấy: Điều 419 BLTTHS năm 2015 quy định: Thời hạn tạm
giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba
thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên. Chúng tôi cho rằng
quy định như trên còn mang tính chất cào bằng đối với những người
dưới 18 tuổi nói chung, chứ chưa có sự xem xét ưu tiên đối với từng
độ tuổi của người dưới 18 tuổi.
Mặt khác, BLTTHS năm 2015 đi vào thực tiễn chắc chắn sẽ
phát sinh những vướng mắc, bất cập mới, đó là chưa kể những biến
đổi của đời sống xã hội sẽ làm cho những quy định của pháp luật
không còn phù hợp. Do vậy cần có sự tiếp tục hoàn thiện pháp luật
một cách kịp thời, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển
21
của xã hội.
3.2.3. Nâng cao năng lực và nhận thức của những người có
thẩm quyền THTT
Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm
luôn là mong mỏi của Bác Hồ lúc sinh thời. Giao nhiệm vụ theo tư
tưởng của Bác là phải dân chủ, rõ nhiệm vụ, đề cao tinh thần trách
nhiệm, phát huy tính sáng tạo của cán bộ.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ tư pháp vẫn đang trong tình trạng
thiếu hụt, và trong tương lai gần chúng ta chưa thể đáp ứng ngay nhu
cầu về số lượng cán bộ, do đó tất yếu phải nâng cao trình độ, kỹ năng,
nghiệp vụ của cán bộ tư pháp để áp dụng hiệu quả các biện pháp ngăn
chặn đối với người dưới 18 tuổi nói riêng, cũng như để giải quyết các
vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung. Cần thiết phải có sự
phối hợp giữa Bộ Công an, VKS nhân dân tối cao, TA nhân dân tối
cao để có chương trình đào tạo thích hợp cho Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán về đặc điểm tâm sinh lý người chưa thành niên, về kỹ
năng áp dụng các biện pháp ngăn chặn và kiến thức về đấu tranh
phòng chống tội phạm là người chưa thành niên. Để làm tốt công tác
này cần chú ý các vấn đề về xây dựng chương trình bồi dưỡng, chuẩn
bị đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, xác định các đối tượng cần bồi
dưỡng, tập huấn, chuẩn bị về kinh phí thực hiện bồi dưỡng…
3.2.4. Nâng cao năng lực của Luật sư, trách nhiệm của các
tổ chức bảo vệ người dưới 18 tuổi
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc cơ bản
của BLTTHS. “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa...” Việc người bào chữa tham gia tố tụng
không chỉ để thực hiện việc bào chữa mà còn góp phần cùng các cơ
quan THTT xác định sự thật vụ án, tìm đến chân lý khách quan vụ
việc, xác lập một kênh giám sát đối với các cơ quan tư pháp. BLTTHS
năm 2015 quy định khá cụ thể về vấn đề bào chữa của người dưới 18
22
tuổi. Đồng thời BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định đầy đủ hơn các
quyền khi tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức của
người dưới 18 tuổi. Để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người dưới 18
tuổi, nhất thiết phải nâng cao năng lực của Luật sư, trách nhiệm của
các tổ chức bảo vệ người dưới 18 tuổi.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát đóng vai trò quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và đối với việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi nói riêng. Kiểm
tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước là yêu cầu tất
yếu. Quyền lực không được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ sẽ bị
tha hóa, lạm quyền. Thiếu kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong tố tụng
hình sự càng dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng hơn, bởi lẻ đây là
lính vực liên quan trực tiếp đến công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm; đồng thời toàn bộ quá trình đó đụng chạm đến những quyền
thiêng liêng nhất, đến sinh mệnh, quyền tự do của con người. Do đó
phải đặc biệt quan tâm thiết lập các cơ chế nhằm kiểm tra, giám sát,
kiểm soát nghiêm ngặt và toàn diện hoạt động tư pháp. Quy định mọi
hoạt động của của các cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều cơ chế, trong
đó cơ chế tự kiểm tra bên trong mỗi hệ thống và cơ chế kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan tố tụng cần được tăng cường.
KẾT LUẬN
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất
và tâm thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án, do đó tùy theo
lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân mà họ cần được bảo
vệ theo đúng quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng hình sự. Việc
23
áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi là một vấn đề
nhạy cảm. Từ những đặc điểm đặc thù của việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những quy định của
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, luận văn tập trung nghiên cứu và làm rõ nội dung
sau đây:
1. Luận văn đã nghiên cứu, phân tích, luận giải và làm rõ khái
niệm biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, các
yêu cầu và ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
2. Đối chiếu với những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn,
trên cơ sở nghiên cứu luật thực định luận văn đã chỉ ra những điểm bất
cập trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
3. Luận văn đã nghiên cứu và làm rõ thực tiễn áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại quận Cẩm
Lệ, thành phố Đà Nẵng, chỉ ra những vi phạm, sai lầm trong quá trình
áp dụng những biện pháp này và nguyên nhân của nó.
4. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, luận văn đã đề xuất các yêu cầu,
các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
5. Các yêu cầu mà luận văn đưa ra tập trung vào việc đảm bảo
nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người, yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm; các giải pháp mà luận văn đưa ra tập trung vào
việc quán triệt, hướng dẫn áp dụng pháp luật, tiếp tục hoàn thiện pháp
luật tố tụng hình sự, về yếu tố con người và cơ chế bảo đảm thực hiện.
24