Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Các căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TUẤN

CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TUẤN

CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này
là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Đỗ
Đức Hồng Hà.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...........9
1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt ....................................................9
1.2. Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt .......................................17
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt
từ năm 1945 đến trước ngày Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực .......................21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......................................................29
2.1. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết
định hình phạt ............................................................................................................29

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ
quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng ............................................................47
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT .....................................60
3.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết
định hình phạt ............................................................................................................60
3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các căn cứ
quyết định hình phạt ..................................................................................................65
3.3. Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật Hình sự về
các căn cứ quyết định hình phạt ................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán


HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XXPT


: Xét xử phúc thẩm

XXST

: Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
2.1.

2.2.

2.3.

2.4.

2.5.

Tên bảng
Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của
TAND hai cấp tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 - 2016
Tổng số người bị kết án tại Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng từ 2011 - 2016 (sơ thẩm)
Tổng số người bị kết án tại các Tòa án nhân dân quận, huyện
thuộc thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 - 2016
Tổng hợp các hình phạt được áp dụng trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng từ năm 2011 - 2016
Bảng tổng hợp nhân thân người phạm tội qua việc xét xử
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 - 2016

Trang

48

48

49

50

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội
dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong
quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ chỉ Tòa án mới
có quyền quyết định hình phạt. Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [20, tr.54]. Tại Điều 26 Bộ
luật Hình sự năm 1999 quy định: “Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và
do Tòa án quyết định” [8, tr.26]. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc được
Nhà nước giao cho Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với
ngưới phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài Tòa án có quyền áp
dụng hình phạt. Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự lựa chọn loại hình

phạt phù hợp với mức hình phạt cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội của người
phạm tội.
Quyết định hình phạt là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
trong giai đoạn xét xử. Quyết định hình phạt là quá trình sử dụng kết quả điều tra, kết
quả truy tố, kết quả xét hỏi và tranh luận; là quá trình đối chiếu các tình tiết của vụ án
hình sự cụ thể với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể gắn liền với việc
đánh giá con người cụ thể đã thực hiện tội phạm để xác định một loại và một mức hình
phạt phù hợp nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt được
các mục đích của hình phạt: Cải tạo và giáo dục người bị kết án trở thành người có ích
cho xã hội, phòng ngừa tội phạm riêng và phòng ngừa tội phạm chung. Khi quyết định
một hình phạt không đúng pháp luật, không công bằng và không hợp lý thì không có
khả năng đạt được mục đích của hình phạt. Vì thế việc áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội có đạt được mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt được ở
mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt.

1


Thực tiễn xét xử cho thấy các cấp xét xử vẫn chưa phải tuân thủ và áp dụng
đúng các căn cứ quyết định hình phạt, vẫn còn nhiều sai sót dẫn đến các sai lầm trong
quyết định hình phạt và lựa chọn hình phạt. Hệ thống Tòa án hai cấp tại thành phố Đà
Nẵng trong hoạt động quyết định hình phạt cũng còn nhiều hạn chế, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại... Một số nguyên
nhân chính dẫn đến hạn chế là: Quy định của pháp luật còn nhiều bất cập; việc hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa đáp ứng kịp thời; kinh nghiệm và năng lực của
những người tiến hành tố tụng chưa đáp ứng với tình hình hiện nay...
Nhằm góp phần bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự và
phù hợp với thực tế tại địa phương, tác giả chọn đề tài “Các căn cứ quyết định hình
phạt theo luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn thạc

sỹ luật học. Đề tài này nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự trong quá
trình xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Để từ đó khắc phục những vướng mắc,
thiếu sót trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo quyết định hình phạt
đúng đối với người phạm tội, góp phần xây dựng pháp luật hình sự công bằng, nhân
đạo, dân chủ và công minh.
2. Tình hình nghiên cứu
Quyết định hình phạt đã được đề cập nhiều nhưng các căn cứ quyết định hình
phạt còn ít được quan tâm nghiên cứu trong khoa học luật hình sự. Vấn đề chủ yếu
được đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về quyết định hình phạt, như trong các
công trình nghiên cứu khác nhau dưới đây:
* Giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, đề tài
- PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Chương XVI - Quyết định hình phạt, Trong sách:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001, tái bản 2007, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chương XX - Quyết định hình phạt, trong sách: Luật
hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014.
- Đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Bảo vệ quyền con người
bằngcác quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
2


tronggiai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” do GS. TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.
TS. Nguyễn Ngọc Chí, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004;
- PGS. TS. Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005;
- PGS.TS. Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb. Lao
động Xã hội, Hà Nội, 2007;
- ThS. Đinh Văn Quế, Tìm hiểu hình phạt và quyết định hình phạt trong Bộ luật
Hình sự năm 1999, Nxb.Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000; v.v…

- Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2010), Quy định tội phạm
và hình phạt trong các văn bản pháp luật chuyên ngành - kinh nghiệm nước ngoài và
phương hướng đổi mới nguồn văn bản pháp luật hình sự Việt Nam, Chủ nhiệm đề tài:
TS. Đỗ Đức Hồng Hà.
* Luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nước
- Trần Thị Quang Vinh (2002), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình phạt
trong luật Hình sự Việt Nam, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), Nhân thân người phạm tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
- Phạm Thị Thanh Nga (2004), Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
việc định tội danh và quyết định hình phạt, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
luật Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Minh Khuê (2006), Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Bình (2010), Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Trần Mạnh Toàn (2011), Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Bích Huyền (2014), Nhân thân người phạm tội với việc quyết định
hình phạt từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3


- Chu Thanh Hà (2015), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về
nhân thân người phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
- Trịnh Thị Yến, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; v.v...

* Các công trình dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý
- GS.TSKH. Lê Cảm, Về bản chất pháp lý của quy phạm nguyên tắc quyết
định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật Hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 1/1989;
- Đinh Văn Quế (2001), Một số điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 1999 về hình
phạt và quyết định hình phạt, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp
luật, Số 2/2001, tr. 29-39.
- Nguyễn Hải Dũng (2007), Những vướng mắc từ lý luận và thực tiễn khi quyết
định hình phạt nhẹ hơn luật định, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số
3/2007, tr. 37-40, 62.
- Lê Thị Thanh Thủy (2005), Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết
định hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 19/2005, tr. 3-9.
- Đinh Văn Quế (2003), Quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên
phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 5/2003, tr. 6-8
- Lê Đăng Doanh (2003), Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình
sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 12/2003, tr. 15-16.
- Phạm Mạnh Hùng (2006), Một số vấn đề nhận thức và áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 16/2006,
tr. 29-34
- Đỗ Văn Chỉnh (2007), Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại
Điều 48 Bộ luật Hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 17/2007,
tr. 31-36
- Vũ Hồng Thiêm (2008), Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong quyết định hình phạt tồn tại và giải pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân
dân tối cao, Số 10/2008, tr. 34-37, 41.
4


- Đỗ Văn Chỉnh (2009), Các tình tiết tăng nặng phản ánh cách thức thực hiện tội
phạm và mức độ lỗi của người phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối

cao, Số 01/2009, tr. 22-28.
- Hồ Sỹ Sơn (2008), Những hạn chế trong các quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và hướng khắc phục, Tạp
chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 16/2008, tr. 2-4, 9.
- Nam Phương (2011), Áp dụng tình tiết định khung tăng nặng hay tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 10/2011, tr. 5759
- Nguyễn Hữu Minh (2014), Cần áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng hay
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối
cao, Số 19/2012, tr. 33-35,38.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập đến quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội cụ thể hoặc những vấn đề chung, mà chưa có
công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống nào về vấn đề lý luận cơ bản đồng
thời đánh giá toàn diện quy định Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành về các căn cứ
quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng các quy định đó trên một địa bàn cụ thể là
thành phố Đà Nẵng để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao chất lượng, hiệu quả quyết định hình phạt. Như vậy, các vấn đề lý luận và
thực tiễn trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt đòi hỏi phải được tiếp tục
nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu hơn để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật hình sự trong hoạt động xét xử.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về các căn cứ quyết định hình phạt, tác giả
nhận thấy cần có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về các căn cứ quyết định hình
phạt được quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 (nay là Điều 50 BLHS năm 2015).
Trên kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực tiễn vận dụng các căn cứ quyết định
hình phạt trong hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án hai cấp tại thành phố Đà Nẵng, để
đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến các căn
5



cứ quyết định hình phạt và hoàn thiện quy định về căn cứ quyết định hình phạt tại Điều
45 BLHS năm 1999 (Điều 50 của BLHS năm 2015). Đồng thời, qua đó góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và quyết định hình phạt
của Toà án nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt và đạt được mục đích của hình phạt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài cần làm rõ một số vấn đề để đạt được mục đích nghiên
cứu, đó là:
- Nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện một số vấn đề lý luận chung về các
căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong quá trình
xét xử vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để tìm ra những bất cập của pháp
luật hình sự hiện hành về các căn cứ quyết định hình phạt.
- Nghiên cứu những bất cập của pháp luật hình sự hiện hành, trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt trong xét xử các
vụ án hình sự của Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các căn cứ quyết định hình phạt theo luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu như
sau:
- Những vấn đề lý luận, quan điểm về quyết định hình phạt, căn cứ quyết định
hình phạt ở Việt Nam.
- Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về các căn cứ quyết định hình phạt.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Về thời gian trong 6 năm (2011- 2016).

6



5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước pháp quyền, quan điểm và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
về chính sách hình sự, vấn đề cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp đặc thù
của khoa học luật hình sự như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết định hình phạt, phân tích và
đánh giá nội dung quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành về các căn cứ
quyết định hình phạt. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định
này ở khía cạnh lập pháp hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng từ
thực tiễn xét xử.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Điểm mới quan trọng nhất của luận văn là đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo
đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt, bao gồm: Yêu cầu thực hiện đúng
các nguyên tắc quyết định hình phạt; yêu cầu của cải cách tư pháp; yêu cầu bảo vệ
quyền con người; yêu cầu thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội; yêu cầu về phòng
ngừa tội phạm; các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt
gồm: Ban hành các văn bản hướng dẫn, tập huấn thi hành BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về các căn cứ quyết định hình phạt. Mặt khác,
nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa

học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên.

7


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm có 03 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các

căn cứ quyết định hình phạt
Chương 2. Thực trạng và thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 về các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật Hình
sự về các căn cứ quyết định hình phạt.

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Cả Bộ luật Hình sự hiện hành, Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định cụ thể
thế nào là quyết định hình phạt. Các văn bản dưới luật cũng không đề cập đến khái
niệm quyết định hình phạt. Khái niệm này chỉ tồn tại trong lý luận và được đề cập đến
trong một số công trình nghiên cứu khoa học và có nhiều quan điểm khác nhau.
Tác giả Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa mang tính khái quát về quyết định
hình phạt như sau "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người

bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao
nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật Hình sự" [30, tr.3]. Định nghĩa này
đã chỉ ra nội dung quan trọng của quyết định hình phạt là một hoạt động của Toà án
đồng thời đó là việc Toà án lựa chọn hình phạt đồng thời chỉ ra căn cứ pháp lý của
quyết định hình phạt đó chính là các quy định của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, định
nghĩa này cho thấy chưa bao quát được hết hoạt động quyết định hình phạt. Vì quyết
định hình phạt là một hoạt động khá phức tạp bao gồm nhiều thao tác ngoài việc lựa
chọn loại hình phạt còn xác định mức hình phạt. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng hình
phạt áp dụng với “người bị kết án” là chưa chính xác. Bởi người bị kết là người đã có
bản án kết tội của Tòa án.
Trong khi đó, PGS.TS. Lê Văn Đệ thì cho rằng: "Quyết định hình phạt là sự lựa
chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với người phạm tội cụ thể" [19, tr.161]. Định nghĩa này đã chỉ ra cụ thể hai
thao tác quan trọng khi quyết định hình phạt là xác định loại hình phạt và xác định
mức hình phạt đồng thời chỉ ra tính chất pháp lý của của hoạt động quyết định hình
phạt, đối tượng bị áp dụng hình phạt là người phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, chưa thể chủ
thể thực hiện hoạt động áp dụng hình phạt là Toà án.

9


Cũng có quan điểm tiếp cận khái niệm quyết định hình phạt còn được tiếp cận
dưới góc độ của luật tố tụng hình sự. Theo đó: Quyết định hình phạt là một giai đoạn
rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Bộ luật Hình sự, là việc Tòa án lựa chọn
loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự tương ứng với
cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người phạm tội, thể hiện trong bản án buộc
tội [52, tr.183]. Trong định nghĩa này xem quyết định hình phạt là một giai đoạn trong
hoạt động xét xử là chưa phù hợp. Bởi nói đến giai đoạn xét xử trong tố tụng là nói
đến một giai đoạn đọc lập để Tòa án thực hiện hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, trước khi
lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể Toà án còn phải dựa vào các

căn cứ như xác định tội danh, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
nhân thân bị cáo… Những hoạt động này được thực hiện xuyên suốt quá trình xét xử
chứ không phải là một giai đoạn độc lập. Định nghĩa này cũng chỉ ra hình thức của
việc quyết định hình phạt đó chính là bản án buộc tội của Tòa án, nhưng trong tố tụng
hình sự thì chỉ có bản án chứ không có bản án buộc tội.
Ngoài ra, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội thì "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ
thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong
phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [25, tr.317].
Bên cạnh đó, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì định nghĩa: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định
mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ
thể" [46, tr.211]; v.v...
Do đó, để làm sáng tỏ một cách đầy đủ nội dung của khái niệm quyết định hình
phạt, cần xác định vị trí của quyết định hình phạt trong quá trình áp dụng các quy
phạm pháp luật hình sự. Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự là
một quá trình phức tạp gồm nhiều mặt được tiến hành thông qua các giai đoạn nhất
định như: Giải thích quy phạm pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của đạo luật hình
sự về không gian và thời gian, định tội danh và quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm
hình sự và xoá án tích.

10


Liên quan đến khái niệm quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hiện nay
đang có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của quyết định hình phạt:
Đó là quyết định hình phạt được hiểu theo nghĩa hẹp, nghĩa rộng của khái niệm
quyết định hình phạt. Theo đó, quyết định hình phạt còn bao gồm cả các hoạt động
như: Xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt
hay không, xác định khung hình phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong

phạm vi khung hình phạt hoặc dưới khung đó [24, tr.65-66].
Theo PGS.TS. Dương Tuyết Miên trong cuốn "Định tội danh và quyết định
hình phạt" thì nên coi miễn hình phạt thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt: "Người
phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng
chưa đến mức được miễn trách nhiệm hìnhsự" [26, tr.62]. Về nội dung pháp lý thì miễn
hình phạt là không buộc người phạm tội phải chịu hình phạt về tội mà họ đã phạm. Miễn
hình phạt phải thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt vì miễn hình phạt được thực hiện
sau khi Tòa án đã xác định xong tội danh và là bước đầu của quá trình xác định hình phạt.
Tác giả Dương Tuyết Miên cho rằng, đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự
cũng nên coi thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt, bởi những lý do sau:
Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội họ đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự được thực hiện sau khi Tòa
án đã xác định xong tội danh cho bị cáo nên không thể thuộc giai đoạn định tội danh.
Trên cơ sở định tội danh bị cáo đã phạm, Tòa án sẽ xem xét, nếu thấy không cần thiết
phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mà vẫn đảm bảo được các yêu cầu
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án sẽ tuyên bố miễn trách nhiệm
hình sự cho bị cáo [26, tr.62]. Học viên chia sẽ với quan điểm coi miễn hình phạt là
biện pháp xử lý trách nhiệm hình sự chỉ do Tòa án tiến hành trên cơ sở những căn cứ,
quy định của Bộ luật Hình sự. Miễn hình phạt cũng chỉ được tiến hành sau khi Tòa án
đã định tội danh xong đối với bị cáo. Vì thế, cần xác định miễn hình phạt phải thuộc về
giai đoạn quyết định hình phạt.
Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái niệm
quyết định hình phạt là việc xác định giai đoạn định khung hình phạt có thuộc về hoạt
11


động quyết định hình phạt hay không? Học viên cho rằng, cần xác định giai đoạn định
khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết định hình phạt, thuộc về hoạt
động quyết định hình phạt. Bởi lẽ, định khung hình phạt là việc làm được thực hiện

sau khi định tội danh xong, là hoạt động đầu tiên xác định giới hạn tối thiểu và tối đa
của hình phạt theo khung hình phạt được phép áp dụng trên cơ sở giới hạn luật định,
hình phạt cụ thể sẽ được quyết định. Mặt khác, việc định tội danh phải được thực hiện
trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không phải là các cấu thành tội phạm tăng
nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh xong các cơ quan tố tụng mới xác
định khung hình phạt, trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt thì Tòa án
đương nhiên không phải xác định khung hình phạt. Khi định khung hình phạt, Tòa án
dựa vào các tình tiết định khung và tình tiết giảm nhẹ. Do vậy, theo học viên nên xác
định định khung hình phạt thuộc về hoạt động quyết định hình phạt.
Hoạt động quyết định hình phạt có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, quyết định hình phạt là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự của Tòa án (cụ thể là HĐXX thực hiện) sau khi đã thực hiện định tội danh. Quyết
định hình phạt phải tuân thủ theo các nguyên tắc, các yêu cầu luật định mà chủ thể
thực hiện là Toà án, mà trực tiếp tiến hành là HĐXX. Do đó, quyết định hình phạt luôn
luôn là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân tiến hành trên cơ sở căn cứ vào các quy định của BLHS về quyết định hình
phạt đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể sau khi đã tiến hành định tội danh đúng
và chuẩn xác. Nếu định tội danh sai sẽ dẫn đến một nhiều hậu quả tiêu cực như: Không
bảo đảm tính công minh và đúng pháp luật của hình phạt do Tòa án quyết định; truy
cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, bỏ lọt người phạm tội và thậm chí xâm
phạm thô bạo đến danh dự, nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân... làm giảm
uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm” [12, tr.17-18].
Hai là, các căn cứ quyết định hình phạt có tính pháp lý bắt buộc Tòa án phải
tuân theo để hình phạt được quyết định đúng pháp luật. Trong mối quan hệ với quyết
định hình phạt, các căn cứ quyết định hình phạt chính là điều kiện tồn tại, là cơ sở
pháp lý bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật của hoạt động quyết định hình phạt.
12



Do đó, khi quyết định hình phạt, bắt buộc Tòa án phải luôn tuân thủ các căn cứ đã
được BLHS quy định nhằm đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách công
bằng, đúng pháp luật và đạt được mục đích của hình phạt.
Ba là, tuân thủ đúng các căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động quyết
định hình phạt là yếu tố quan trọng nhất để hình phạt được tuyên có khả năng đạt được
mục đích cao nhất của hình phạt. Quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt được các
mục đích của hình phạt. Với vị trí là cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt,
chính sự tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt mới bảo đảm cho hình phạt được
quyết định đúng, và quan trọng hơn còn là yếu tố quyết định để hình phạt đó có khả
năng đạt được mục đích của hình phạt ở mức cao nhất.
Trên cơ sở phân tích nội hàm khái niệm quyết định hình phạt, nội dung và đặc
điểm của hoạt động quyết định hình phạt, đồng thời kế thừa các quan điểm khoa học,
học viên cho rằng có thể khái niệm quyết định hình phạt như sau:
Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa
án mà trực tiếp là Hội đồng xét xử thực hiện thể hiện ở việc lựa chọn loại và mức hình
phạt cụ thể hoặc miễn hình phạt đối với người bị tuyên có tội theo trình tự thủ tục nhất
định đúng với quy định của Bộ luật Hình sự để đảm bảo đạt được mục đích của hình
phạt.
1.1.2. Nguyên tắc quyết định hình phạt
Trong Bộ luật Hình sự không quy định các nguyên tắc quyết định hình phạt
nhưng theo các quy định trong các điều luật cụ thể ta có thể đưa ra một số nguyên tắc
cơ bản. Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những vấn đề quan trọng của
của chế định quyết định hình phạt, bởi vì, việc quyết định hình phạt đúng pháp luật,
công bằng và hợp lý hay không tuỳ thuộc vào sự nhận thức và áp dụng các nguyên tắc
đó. Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng được thể hiện trong luật
hoặc do giải thích quy phạm pháp luật mà có. Quyết định hình phạt phải dựa vào các
nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Nội dung của nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án
phải tuân thủ nghiêm chỉnh, đầy đủ các quy định của pháp luật hình sự. Đây là nguyên

tắc rất quan trọng của quyết định hình phạt, bởi lẽ chỉ khi tuân thủ nguyên tắc này thì
13


mới đảm bảo được các nguyên tắc khác. Vi phạm nguyên tắc pháp chế sẽ vi phạm các
nguyên tắc khác và dẫn đến quyết định hình phạt không đúng, làm mất đi ý nghĩa của
quyết định hình phạt. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, chỉ áp dụng hình
phạt đối với hành vi phạm tội đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự. Điều 2
Bộ luật Hình sự đã quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được luật này quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn thể hiện ở
chỗ: Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của luật hình sự Các quy định có liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt [22, tr.114].
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi Tòa án khi quyết định hình phạt phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để áp
dụng và tuân thủ triệt để các quy định của luật hình sự về hình phạt cũng như quyết
định hình phạt. Nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự thể hiện trước hết sự khoan hồng
của Nhà nước, là việc đặt mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội lên mục đích
hàng đầu, là việc xem xét tất cả các đặc điểm tốt về nhân thân của người phạm tội theo
quy định của pháp luật hình sự, là việc xem xét kỹ lưỡng những đặc điểm tâm, sinh lý
cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định một loại hình phạt ở mức
độ cần thiết thấp nhất, vừa đủ đảm bảo mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa
chung, vừa đủ đảm bảo được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội, mục đích răn
đe, ngăn chặn người khác phạm tội và mục đích khuyến khích, động viên, giáo dục
quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm [22, tr.115].
Trong quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo thể hiện một cách tập trung
nhất ở chỗ khi quyết dịnh hình phạt Tòa án phải cân nhắc và có thái độ đúng đắn đối
với cả lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng lẫn với lợi ích của bị cáo trong một tổng
thể thống nhất, biện chứng, hài hòa và hợp lý.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt: Đây là nguyên tắc quan trọng trong quyết
định hình phạt, thể hiện ở chỗ: Khi quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào các

quy định của Bộ luật Hình sự, ý thức pháp luật, cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định cho bị cáo một loại và một mức
hình phạt cụ thể, phù hợp, tạo điều kiện cho việc đạt được mục đích của hình phạt.
14


Nguyên tắc này đòi hỏi, khi quyết định hình phạt, Toà án phải nhận thức rằng hình
phạt được áp dụng đối với một con người cụ thể với hoàn cảnh sống cụ thể, một tâm
sinh lý cụ thể. Do đó, mọi sự bình quân về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và
cào bằng về mặt nhân thân trong khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội đều
biểu hiện của sự vi phạm nguyên tắc cá thể hoá hình phạt. Nguyên tắc cá thể hóa hình
phạt thể hiện ở chỗ, loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với tội
phạm đã thực hiện và nhân thân người phạm tội [56, tr.393].
Nguyên tắc công bằng: Nguyên tắc công bằng là nguyên tắc của luật hình sự và
nó thể hiện trong việc quyết định hình phạt. Nguyên tắc công bằng đòi hỏi có sự tương
xứng giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc công bằng được hiểu
ở các phương diện sau: Ở mức độ lập pháp hình sự, mức độ chế tài của quy phạm pháp
luật và mức độ của việc quyết định hình phạt.
Một hình phạt được coi là công bằng khi nó xác định được sự tương xứng giữa
loại và mức hình phạt với mức độ nghiêm trọng của hành vi với nhân thân người phạm
tội và tất cả các tình tiết khách quan và chủ quan liên quan đến trường hợp phạm tội
này. Hình phạt đã tuyên phải tương xứng với tội phạm đã thực hiện, nghĩa là tội phạm
càng nghiêm trọng và trong những điều kiện khác tương tự nhau thì hình phạt càng
nghiêm khắc và ngược lại. Bên cạnh đó, khi quyết định hình phạt cần cân nhắc cả nhân
thân người phạm tội, vì mục đích của hình phạt là để tác động đến ý thức người phạm
tội cụ thể với các đặc điểm nhân cách khác nhau trong xã hội. Tất cả các yếu tố về tính
chất mức độ nguy hiểm, nhân thân người phạm tội, các tình tiết khác đều phải được
cân nhắc một cách biện chứng khi quyết định hình phạt mới đảm bảo được tính công
bằng [56, tr.394].

1.1.3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật
hình sự, do Tòa án có thẩm quyền thông qua HĐXX thực hiện sau khi đã định tội danh
và tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (các
hình phạt chính và bổ sung), mức hình phạt cụ thể trong phạm vi giới hạn của khung
hình phạt do luật định áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội, phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho
người phạm tội theo quy định của BLHS.
15


Quyết định hình phạt được hiểu là việc Tòa án lựa chọn một loại và mức hình
phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người thực hiện tội phạm bị kết
tội. Do vậy, quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và pháp
luật. Chỉ khi quyết định hình phạt được quyết định một cách chính xác và công bằng,
thì mục đích của hình phạt mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người
phạm tội, ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác [56, tr.386].
Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt.
Mục đích của hình phạt có đạt được hay không lại phụ thuộc vào việc quyết định hình
phạt của Tòa án. Quyết định hình phạt bảo đảm tính công minh, đúng pháp luật, tương
xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội là điều kiện bắt buộc để hình phạt được tuyên đạt được mục đích trừng
trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Qua đó, hình phạt cũng phát huy tác dụng giáo
dục, phòng ngừa chung đối với các thành viên khác trong xã hội.
Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả của
hình phạt. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Xây dựng pháp luật
hình sự; quyết định hình phạt; tổ chức thi hành án và tái hoà nhập cộng đồng; công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công dân. Trong tất cả các yếu tố này thì quyết
định hình phạt là yếu tố mang tính quyết định, quan trọng nhất.
Quyết định hình phạt đúng là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống hình

phạt. Trong quyết định hình phạt, việc Tòa án lựa chọn đúng loại và mức hình phạt,
kết hợp được giữa trừng trị với giáo dục người phạm tội, phù hợp với hoàn cảnh của
người phạm tội chính là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống hình phạt trong
thực tiễn. Quyết định hình phạt đúng sẽ làm cho mỗi hình phạt nói riêng và hệ thống
hình phạt nói chung thực sự là công cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng ngừa
tội phạm.
Quyết định hình phạt đúng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định hình phạt đúng sẽ tác
động đến ý thức của mỗi cá nhân để họ thấy sợ hình phạt mà không dám phạm tội và
quan trọng hơn là nhận thức được tính nghiêm minh của pháp luật để tự giác chấp
hành pháp luật [36, tr.10].

16


1.2. Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt
1.2.1. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt
Căn cứ, nếu định nghĩa dưới góc độ triết học, đó là những hiện tượng thể hiện
ra như một điều kiện cần thiết, một điều kiện để tồn tại một hiện tượng khác nào đó và
dùng để giải thích hiện tượng này. Do vậy, căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện
cần thiết, là tiền đề tồn tại của nguyên tắc quyết định hình phạt và được dùng để giải
thích làm sáng tỏ các nguyên tắc quyết định hình phạt và cả chế định quyết định hình
phạt nói chung.
Trong BLHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành luật đều chưa có định
nghĩa về căn cứ quyết định hình phạt mà chỉ quy định về nội dung của căn cứ quyết
định hình phạt. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý đã có một số tác giả đưa ra định
nghĩa về căn cứ quyết định hình phạt trong các công trình nghiên cứu riêng của mình.
Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc phân tích, so sánh, đối chiếu để đưa ra một
định nghĩa khoa học, có giá trị pháp lý cao về căn cứ quyết định hình phạt.
Tác giả Lê Cảm đã định nghĩa các căn cứ quyết định hình phạt như sau:

“Những căn cứ quyết định hình phạt là toàn bộ những yêu cầu có tính chất bắt buộc do
luật định mà Toà án phải nghiêm chỉnh tuân thủ khi quyết định hình phạt đối với
người phạm tội” [13, tr.24].
Hiện nay, có quan điểm của GS.TS. Võ Khánh Vinh về khái niệm này tương
đối hợp lý như sau: “Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính
nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc Tòa án
phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm [56, tr.386387]”.
Căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản buộc Tòa án phải tuân
theo khi quyết định hình phạt đối với tội phạm. Trước khi BLHS năm 1999 được ban
hành, thuật ngữ “căn cứ quyết định hình phạt” không được dùng trong các văn bản
pháp luật hình sự mà nó chỉ được dùng trong các bài viết, các công trình khoa học của
các tác giả hoặc các luật gia; các giáo trình trong các trường đại học, cao đẳng; các
thông tư, chỉ thị, các báo cáo tổng kết hoặc sơ kết của Tòa án nhân dân tối cao. BLHS
năm 1985 dùng thuật ngữ “nguyên tắc quyết định hình phạt” để nêu các nội dung mà
các nội dung đó chính là căn cứ quyết định hình phạt. Nhận rõ tính thiếu chính xác,
17


không có cơ sở khoa học của việc đồng nhất hai khái niệm “nguyên tắc” và “căn cứ”
quyết định hình phạt như quy định tại BLHS năm 1985, nên BLHS năm 1999 và
BLHS 2015 đã dùng thuật ngữ “căn cứ quyết định hình phạt” (Điều 45 BLHS năm
1999, Điều 50 BLHS năm 2015) thay cho thuật ngữ “nguyên tắc quyết định hình phạt”
(Điều 37 BLHS 1985). Theo Điều 45 BLHS năm 1999 (Điều 50 BLHS năm 2015), thì
khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách hiệm hình sự.
Nếu các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng chỉ đạo mang tính
chất chung thì các căn cứ quyết định hình phạt là những quy định cụ thể, được luật
thực định ghi nhận một cách rõ ràng để Tòa án áp dụng trong quá trình áp dụng hình
phạt. Các căn cứ quyết định hình phạt chính là những biểu hiện cụ thể của các nguyên

tắc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án đối với người
phạm tội, quyết định hình phạt đúng, công bằng và hợp lý là tiền đề, là điều kiện để
đạt được mục đích của hình phạt. Để quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng
và hợp lý đối với người phạm tội, Tòa án phải tuân theo các nguyên tắc quyết định
hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt.
Từ sự phân tích nêu trên, ta có thể nhận xét các căn cứ quyết định hình phạt có
bốn đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi được luật hình sự
quy định một cách rõ ràng, đầy đủ. Đó là những quy định tại Điều 45 của BLHS năm
1999 (nay là Điều 50 BLHS năm 2015) bao gồm: Các quy định của Bộ luật Hình sự;
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm
tội; các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, các căn cứ quyết định hình phạt có tính bắt buộc đối với Tòa án, nghĩa
là trong mọi trường hợp khi quyết định hình phạt, Toà án phải tuân theo các đòi hỏi đó
của pháp luật hình sự để lựa chọn loại và ấn định mức hình phạt cụ thể. Trong mối
quan hệ với quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt chính là điều kiện tồn
tại, là cơ sở pháp lý bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật của hoạt động quyết
định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, bắt buộc Tòa án phải tuân thủ triệt để

18


các căn cứ đã được BLHS sự quy định nhằm đảm bảo cho hình phạt được quyết định
một cách công bằng, đúng pháp luật.
Thứ ba, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi có tính nguyên tắc vì
đó là những biểu hiện, đòi hỏi của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Trên cơ sở
nguyên tắc quyết định hình phạt, nhà làm luật quy định những đòi hỏi cơ bản buộc Tòa
án phải tuân theo. Tính có nguyên tắc của các căn cứ quyết định hình phạt thể hiện tính
thống nhất, mối quan hệ chặt chẽ của các nguyên tắc quyết định hình phạt và các căn
cứ quyết định hình phạt. Khi quyết định hình phạt, Tòa án một mặt phải tuân theo các

nguyên tắc nhất định và đồng thời, phải dựa vào những căn cứ nhất định mới có đủ
điều kiện để quyết định ở mức độ lớn nhất, một hình phạt có khả năng đạt được các
mục đích của hình phạt.
Thứ tư, tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan trọng để hình
phạt được tuyên đạt được mục đích của nó theo luật định. Quyết định hình phạt đúng
là cơ sở để đạt được các mục đích của hình phạt. Điều đó cho thấy việc quyết định
hình phạt không phải được thực hiện một cách ngẫu nhiên cũng có thể đạt được các
mục đích của hình phạt mà nó phải được tuân thủ đúng các căn cứ quyết định hình
phạt đã được BLHS quy định. Với vị trí là cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định
hình phạt, chính sự tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt mới đảm bảo cho hình phạt
được quyết định đúng và quan trọng hơn còn là điều kiện quyết định để hình phạt đó
có khả năng đạt được các mục đích của hình phạt.
Trên cơ sở phân tích nội dung và đặc điểm của các căn cứ quyết định hình phạt,
dựa vào các kết quả nghiên cứu trong khoa học pháp lý hình sự của các nhà khoa học,
theo chúng tôi, có thể đưa ra khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt như sau: Các
căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi được quy định trong Bộ luật Hình sự có
tính bắt buộc đối với Tòa án khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm
nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
1.2.2. Ý nghĩa của căn cứ quyết định hình phạt
Từ khái niệm trên cho thấy các căn cứ quyết định hình phạt có những ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc xác định và quyết định mức hình phạt, khung hình phạt của Tòa
án cho người phạm tội, cụ thể:

19


×