Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.55 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THI SỸ

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ NHIỀU BẢN ÁN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THI SỸ

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ NHIỀU BẢN ÁN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN NAM

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ NHIỀU BẢN ÁN....... 7
1.1 Khái niệm, nguyên tắc và phân loại quyết định hình phạt ................... 7
1.2 Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án theo quy
định của Luật hình sự Việt Nam.................................................................. 22
Chương 2: THỰC TRẠNG QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƯỜNG HỢP CÓ NHIỀU BẢN ÁN, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................... 29
2.1 Tình hình xét xử các vụ án hình sự và xét xử các vụ án hình sự có
quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án.......................... 29
2.2 Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về quyết
định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án tại Thành phố Hồ Chí
Minh................................................................................................................ 42
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ
NHIỀU BẢN ÁN ........................................................................................... 57
3.1 Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt
và quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án..................... 57
3.2 Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyết định hình phạt đúng trong
trường hợp có nhiều bản án ......................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

NCTN

: Người chưa thành niên

NCTNPT

: Người chưa thành niên phạm tội

KSV

: Kiểm sát viên

TA

: Tòa án

TAND


: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao

THHP

: Tổng hợp hình phạt

TP

: Thẩm phán

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

VKS

: Viện kiểm sát

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong các nhiệm vụ
quan trọng của mọi quốc gia. Để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, Luật
hình sự đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào được coi là tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, có
thể bị áp dụng những chế tài nghiêm khắc là các hình phạt tùy thuộc vào tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Trong thực tiễn, một người có thể thực hiện nhiều hành vi phạm tội
nhưng không bị phát hiện và nhập vào xét xử trong cùng một vụ án hoặc một
người đang chấp hành một bản án hình sự mà lại bị xét xử về tội đã phạm
trước khi có bản án đó hoặc đã bị kết án mà còn phạm tội mới. Trong các
trường hợp này, để đánh giá toàn diện và đầy đủ về tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của các hành vi đã thực hiện và nhân thân người phạm tội,
TA phải quyết định hình phạt không phải đối với một tội mà phải quyết định
hình phạt chung về nhiều tội, không phải quyết định hình phạt đối với một
bản án mà phải quyết định hình phạt đối với nhiều bản án và buộc người bị
kết án phải chấp hành. Vì vậy, quyết định hình phạt trong trường hợp có
nhiều bản án là quy định quan trọng của BLHS, bảo đảm để Tòa án quyết
định hình phạt chung tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của các hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội của cả
nước, nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam bộ và Tây Nam bộ, gồm
có 24 quận, huyện với tổng diện tích khoảng 2095km2, và với dân số đến nay
khoảng 10 triệu người. Trong những năm vừa qua, dưới sự tác động của nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, kinh tế, văn hóa – xã hội, du lịch,
thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của

1


nhân dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, dưới góc độ tội phạm học,
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cũng tác động tiêu cực đến mọi mặt
đời sống xã hội, đặc biệt là tình hình tội phạm. Theo số liệu thống kê của
TAND Thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm toàn thành phố đưa ra xét xử
khoảng trên 9.000 vụ án hình sự với gần 12.000 bị cáo; trong đó, có một số vụ
án khi xét xử TA phải quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án.
Việc quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án trong thực tiễn
rất phong phú, đa dạng và cũng hết sức phức tạp. Nghiên cứu tình hình xét xử
các vụ án có quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án trong
những năm vừa qua của TAND hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy,
nhìn chung các TA quyết định hình phạt đúng các quy định của pháp luật
được các cấp, các ngành và nhân dân tin tưởng, ủng hộ. Tuy nhiên, cũng còn
một số vụ án do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc quyết định hình
phạt trong trường hợp có nhiều bản án còn vi phạm pháp luật, gây thiệt hại
cho bị cáo, ảnh hưởng đến uy tín của ngành Tòa án. Chính vì vậy việc lựa
chọn vấn đề “Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài
luận văn nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn là cần thiết, khách quan
hiện nay, nhằm chỉ ra những kết quả đạt được và thiếu sót, hạn chế về quyết
định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án để từ đó đề ra các giải pháp
khắc phục.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án được quy định
tại Điều 51 của BLHS 1999, đây là cơ sở pháp lý bắt buộc Hội đồng xét xử
phải áp dụng khi quyết định hình phạt đối với một người phạm cùng một tội
hoặc nhiều tội bị xét xử trong nhiều vụ án mà có các bản án khác nhau. Đây là
một chế định quan trọng, không chỉ là mối quan tâm của những người làm

công tác xét xử mà của cả những người làm nghiên cứu pháp luật, chính vì
2


vậy đã có nhiều công trình khoa học cũng như những bài viết của một số nhà
khoa học nghiên cứu vấn đề này. Có thể viện dẫn một số công trình, bài viết
điển hình sau đây như:
- GS. TS Võ Khánh Vinh (1990), Nguyên tác cá thể hóa việc quyết
định hình phạt, Tòa án nhân dân;
- GS. TS Võ Khánh Vinh (1995), Quyết định hình phạt trong Luật hình
sự Việt Nam trong sách, Tội phạm học luật hình sự và tố tụng hình sự, NXB
Chính trị quốc gia;
- GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (1995) Quyết định hình phạt theo Luật hình
sự Việt Nam, trong sách, Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Chính
trị Quốc gia;
- Trần Văn Sơn (1996), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Quyết định hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam;
- Dương Tuyết Miên (2003), Luận án Tiến sĩ Luật học, Quyết định hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam;
- TS Dương Tuyết Miên (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
- PGS. TS Cao Thị Oanh (2012), Giáo trình luật hình sự Việt Nam Phần chung, Nxb. Giáo dục Hà Nội;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung,
NXB Khoa học xã hội;
- Thân Mạnh Nhất (2015), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Tổng hợp hình
phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử ở các Tòa án Quân
sự Quân khu 1;
- Huỳnh Thị Thu Hương (2015), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng.


3


Điều này cho thấy việc nghiên cứu, hoàn thiện vấn đề quyết định hình
phạt trong trường hợp có nhiều bản án cả về lý luận và thực tiễn vẫn luôn là
vấn đề được các nhà khoa học quan tâm. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một
công trình nào nghiên cứu về vấn đề “Quyết định hình phạt trong trường hợp
có nhiều bản án theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh”. Vì vậy, đây là đề tài hoàn toàn mới, cần thiết phải nghiên cứu
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài của luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật và các giải pháp nhằm bảo đảm quyết định hình phạt đúng
trong trường hợp có nhiều bản án.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đây, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm
vụ:
- Nghiên cứu tài liệu quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều
bản án;
- Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt
trong trường hợp có nhiều bản án;
- Thu thập số liệu thống kê các bản án mà TA hai cấp Thành phố Hồ
Chí Minh đã giải quyết từ năm 2012 đến năm 2016 có quyết định hình phạt
trong trường hợp tổng hợp nhiều bản án.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp có
nhiều bản án ở Thành phố Hồ Chí Minh.

- Đưa ra một số kiến nghị và các giải pháp bảo đảm quyết định hình
phạt đúng trong trường hợp có nhiều bản án.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về quyết định hình phạt
trong trường hợp có nhiều bản án dưới góc độ Luật hình sự và thực tiễn quyết
định hình phạt của các TAND hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian từ 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về chính sách hình sự, tội phạm, hình phạt và công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm;
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tiễn dựa trên
những bản án, báo cáo tổng kết của TA hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu trực tiếp một số Kiểm sát viên, Thẩm phán có nhiều
kinh nghiệm trong công tác xét xử các vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ chỉ rõ những bất cập, những sai sót, không
thống nhất trong quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án. Điều

này có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn, góp phần hoàn thiện các quy
phạm về quyết định hình phạt và quyết định hình phạt trong trường hợp có
nhiều bản án.
5


Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cán bộ làm công tác xét
xử khi áp dụng pháp luật hình sự về tổng hợp hình phạt trong trường hợp có
nhiều bản án. Là tài liệu tham khảo cho những người làm công tác giảng dạy,
học viên cao học, sinh viên trong chuyên ngành tư pháp hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt
trong trường hợp có nhiều bản án
Chương 2: Thực trạng quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều
bản án và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm bảo đảm quyết định
hình phạt đúng trong trường hợp có nhiều bản án

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CÓ NHIỀU BẢN ÁN
1.1 Khái niệm, nguyên tắc và phân loại quyết định hình phạt
1.1.1 Khái niệm hình phạt và quyết định hình phạt
1.1.1.1 Khái niệm hình phạt

Mặc dù hình phạt luôn được con người biết đến như là một trong những
công cụ chủ yếu nhất để đấu tranh phòng chống tội phạm, tuy nhiên việc nhận
thức về những vấn đề liên quan đến hình phạt trong khoa học hình sự cho đến
bây giờ vẫn chưa được xem là đầy đủ và hoàn thiện. Vẫn chưa có một quan
điểm thống nhất về khái niệm hình phạt, cơ sở lý luận của hình phạt, mục
đích hình phạt… Vì vậy, rất khó xác định khi nào hình phạt được nhận thức
đúng với bản chất của nó, khi nào hình phạt được xem là đúng nghĩa của hình
phạt. Trong lịch sử lý luận Luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm hình phạt. Tuy nhiên, các quan điểm đó chủ yếu tập trung theo hai
hướng:
(1) hoặc coi hình phạt như là công cụ trả thù của Nhà nước;
(2) hoặc coi hình phạt như là công cụ để đấu tranh phòng ngừa tội
phạm.
Quan điểm coi hình phạt là sự trả thù của Nhà nước dựa trên cơ sở của
Học thuyết Trừng trị (Retributive doctrine) do Kant chủ trương với ý tưởng
công lý tuyệt đối. Theo quan điểm này, hình phạt được định nghĩa là sự đau
đớn (về thể chất hoặc tinh thần) hoặc sự bất lợi nhất định nào đó dành cho
người có hành vi phạm tội theo một bản án hoặc quyết định của TA.
Quan điểm coi hình phạt như là công cụ để đấu tranh phòng ngừa tội
phạm xuất phát từ nội dung của Học thuyết Phòng ngừa (Utilitarian doctrine)
do Cesar Beccaria khởi xướng. Theo đó, hình phạt được xem là một sự đau
đớn (về thể xác hoặc tinh thần) hoặc một sự mất mát nhất định mà TA bắt
7


người bị kết án là đã phạm tội phải gánh chịu nhằm mục đích trừng trị, qua đó
nhằm mục đích cải tạo và phòng ngừa.
Theo các nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam thì hình phạt được
xem xét dựa trên hai đặc trưng cơ bản:
Hình phạt, trước hết, được xem là sự cưỡng chế nghiêm khắc nhất của

Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội. Như vậy, nội dung của hình
phạt đã được đồng nhất với “biện pháp cưỡng chế của Nhà nước”.
Đặc trưng thứ hai của hình phạt thể hiện ở góc độ hiệu lực thi hành của
hình phạt. Hiệu lực thi hành của hình phạt trước hết ở hiệu lực pháp luật của
hình phạt. Cho đến trước khi BLHS năm 1999 ra đời, chưa có một khái niệm
mang tính pháp lý về hình phạt. Khái niệm này lần đầu tiên được ghi nhận
trong BLHS năm 1999, và trở thành một chế định của luật hình sự.
Tại Điều 26 BLHS năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do
Toà án quyết định”.
1.1.1.2 Khái niệm quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt được hiểu là việc TA lựa chọn một loại và mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một nội dung quan
trọng của quá trình áp dụng Luật hình sự. Điều này thể hiện ở chỗ chỉ có TA
mới có quyền quyết định hình phạt mà Hiến pháp và các luật có liên quan đã
ghi nhận. Theo đó, TA nhân danh Nhà nước, căn cứ vào quy định của Luật
hình sự, tuyên bố áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Điều này thể
hiện sự lên án của Nhà nước đối với người phạm tội về việc thực hiện tội
phạm. Quyết định hình phạt là một hoạt động pháp lý tố tụng hình sự được
tiến hành bởi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đây là một hoạt động pháp
lý tố tụng hình sự vì khi quyết định hình phạt, TA phải dựa vào kết quả của
8


các giai đoạn tố tụng khác nhau, kể cả hoạt động tố tụng của mình tại phiên
toà, bao gồm: kết quả điều tra của cơ quan Điều tra, kết quả buộc tội của Viện
kiểm sát, kết quả thẩm vấn, tranh luận tại toà của TA. Qua đó, TA đối chiếu
với các tình tiết của vụ án để xác định một loại và mức hình phạt cụ thể, phù

hợp nhất đối với người phạm tội nhằm đạt mục đích tối ưu của hình phạt được
áp dụng. Loại và mức hình phạt được quyết định áp dụng đối với người phạm
tội về hành vi phạm tội của họ được thể hiện trong bản án buộc tội của TA
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bản án này được tuyên bố một
cách công khai khi tuyên án.
1.1.2 Nguyên tắc quyết định hình phạt và nghiên tắc quyết định hình
phạt trong trường hợp có nhiều bản án
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong suốt quá
trình tố tụng hình sự. Bởi vì, suy cho cùng chúng ta quy định tội phạm là để
xác định rằng hành vi đó có tính nguy hiểm cho xã hội cao và xác định biện
pháp xử lý đối với hành vi đó bằng một hình phạt cụ thể. Tất cả các hoạt động
trong quá trình tố tụng hình sự cuối cùng cũng chỉ nhằm mục đích áp dụng
hình phạt tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền
đề và là điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng ngừa
chung và phòng ngừa riêng). Ngược lại, quyết định một hình phạt không đúng
đắn thì không thể đảm bảo mục đích hình phạt. Nếu hình phạt quá nhẹ sẽ làm
giảm ý nghĩa phòng ngừa của hình phạt, bởi lẽ nó sẽ làm phát sinh ý định
phạm tội, thái độ vô trách nhiệm và coi thường pháp luật. Nhưng hình phạt
quá nặng sẽ tạo tâm lý không công bằng, không hợp lý ở người bị kết án dẫn
đến thái độ oán hận, không tin tưởng pháp luật.
Hình phạt có đạt mục đích hay không và đến mức độ nào phụ thuộc vào
nhiều yếu tố (yếu tố lập pháp, áp dụng pháp luật...), trong đó, yếu tố áp dụng
pháp luật có vai trò rất quan trọng, bởi vì chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn
9


các cơ sở quyết định hình phạt trong từng trường hợp phạm tội cụ thể thì TA
mới có thể cho ra đời một hình phạt đúng đắn và có hiệu quả, khi đó, các yếu
tố về mặt lập pháp mới có ý nghĩa thực tiễn được.

Để có được một hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý, khi
quyết định hình phạt TA phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định - nguyên
tắc quyết định hình phạt. Thực ra, nguyên tắc quyết định hình phạt cũng là
các nguyên tắc của Luật hình sự. Tuy nhiên, quyết định hình phạt là một hoạt
động đặc thù và có vai trò cực kỳ quan trọng. Cho nên, vẫn tồn tại các nguyên
tắc quyết định hình phạt được triển khai một cách triệt để và cụ thể hoá thể
hiện tính đặc thù của hoạt động quyết định hình phạt. Các nguyên tắc quyết
định hình phạt là những tư tưởng, những nguyên lý chỉ đạo, xác định và định
hướng cho hoạt động của TA khi lựa chọn loại và mức hình phạt áp dụng đối
với người phạm tội. Nội dung của các nguyên tắc quyết định hình phạt được
quyết định bởi bản chất và mục đích của hình phạt.
Mặc dù các nguyên tắc quyết định hình phạt có tính độc lập tương đối
với các mục đích của hình phạt nhưng ở chừng mực nào đó, chúng cũng có
mối liên hệ với các mục đích của hình phạt và định hướng để đạt mục đích đó.
Việc cân nhắc các mục đích của hình phạt cho phép xác định được loại và
mức hình phạt nào trong trường hợp cụ thể là tối ưu cho việc thoả mãn mục
đích của hình phạt. Trong khi đó, việc tuân thủ các nguyên tắc quyết định
hình phạt sẽ đảm bảo cho hoạt động của TA được đúng đắn, tạo điều kiện để
đạt các mục đích của hình phạt. Điều đó thể hiện mối liên hệ biện chứng, tác
động lẫn nhau giữa bản chất, mục đích của hình phạt với các nguyên tắc quyết
định hình phạt.
Các nguyên tắc quyết định hình phạt có mối liên hệ mật thiết với các
nguyên tắc chung của Luật hình sự, nhưng với tư cách là các nguyên tắc đặc
thù trong hoạt động quyết định hình phạt, chúng vẫn có tính độc lập tương
đối. Điều này giúp ta xác định trong số các nguyên tắc chung của Luật hình
10


sự, các nguyên tắc nào đồng thời cũng định hướng trong quá trình quyết định
hình phạt.

Để trở thành các nguyên tắc quyết định hình phạt, nội dung của chúng
chẳng những thể hiện là sự chỉ đạo, định hướng cho việc áp dụng pháp luật
hình sự, được quy định trực hoặc gián tiếp trong Luật hình sự, phù hợp với
chính sách hình sự trong mỗi giai đoạn mà nội dung của nó phải là những tư
tưởng, định hướng cho hoạt động của TA trong quyết định hình phạt. Các
nghiên tắc quyết định hình phạt bao gồm:
1.1.2.1 Nguyên tắc quyết định hình phạt
Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế:
Nguyên tắc pháp chế XHCN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quyết
định hình phạt và là nguyên tắc có ý nghĩa hàng đầu của Luật hình sự nói
riêng và pháp luật nói chung. Tư tưởng chủ đạo của nguyên tắc này đòi hỏi
khi quyết định hình phạt đối với người bị kết án, TA phải tuân thủ triệt để các
quy định của Luật hình sự. Chỉ có thể áp dụng hình phạt đối với hành vi phạm
tội đã được quy định trong Luật hình sự.
Điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Việc Luật hình sự nước
ta bỏ “nguyên tắc tương tự” là một việc làm có ý nghĩa chính trị vô cùng to
lớn. Nó củng cố và tăng cường pháp chế XHCN, là cơ sở pháp lý vững chắc
của việc quyết định hình phạt. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này thể hiện ở
chỗ:
- Chỉ có thể áp dụng hình phạt đối với người có hành vi phạm tội được
quy định trong BLHS. Để tạo tiền đề cho việc đảm bảo nội dung này, đòi hỏi
phải định tội danh đối với hành vi phạm tội của bị cáo.
- Sau đó, trên cơ sở đánh giá nhiều tình tiết khách quan và chủ quan,
căn cứ vào những quy định có tính nguyên tắc của tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, TA quyết định một hình phạt có tính xác định, có căn
11


cứ và hợp lý. Tính xác định của hình phạt thể hiện ở chỗ, hình phạt phải cụ

thể về loại hình và thời hạn. Tính có căn cứ đòi hỏi TA phải nghiên cứu kỹ,
làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án để làm cơ sở cho việc quyết định hình
phạt. Tính hợp lý của hình phạt thể hiện trong số các hướng giải quyết khác
nhau, TA lựa chọn được một hình phạt đúng pháp luật và công bằng, đảm bảo
tinh thần của các nguyên tắc khác, nhất là nguyên tắc phân hoá trách nhiệm
hình sự.
- Xét về mặt tố tụng, nguyên tắc pháp chế XHCN yêu cầu TA là cơ
quan duy nhất nhân danh Nhà nước có quyền quyết định hình phạt đối với bị
cáo. Nên khi đó, TA phải tuân thủ những quy định về thủ tục hết sức chặt chẽ
và chỉ có thể tuyên những hình phạt được luật quy định.
Thứ hai, nguyên tắc nhân đạo:
Nhân đạo là sự thương yêu, quý trọng và bảo vệ con người. Nguyên tắc
này đòi hỏi TA khi quyết định hình phạt phải luôn luôn có ý thức áp dụng một
hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo mà không trái với luật. TA cần có thái
độ đúng đắn khi cân nhắc lợi ích của xã hội, Nhà nước và của người phạm tội
trong một tổng thể thống nhất biện chứng, hài hoà và hợp lý. Không thể nói
đến nhân đạo nếu khi quyết định hình phạt mà quá đề cao lợi ích của Nhà
nước, xã hội, hạ thấp, xem thường lợi ích của cá nhân hoặc ngược lại.
Nguyên tắc nhân đạo thể hiện thái độ của Nhà nước tập trung ở mục
đích của hình phạt là nhằm cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chứ
không nhằm mục đích trừng trị. Mục đích này đòi hỏi TA hết sức quan tâm,
xem xét đến nhân thân của bị cáo khi quyết định hình phạt.
Cần có thái độ nghiêm khắc với những tội phạm có tính nguy hiểm cho
xã hội cao không mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo. Tuy nhiên, trong
trường hợp này, nguyên tắc nhân đạo yêu cầu phải chọn một biện pháp
nghiêm khắc thích hợp, tuân theo một nguyên lý cơ bản là người phạm tội
cũng là con người và bất cứ người nào lầm đường, lạc lối đều có thể được cải
12



tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội. C.Mác viết “Cả lịch sử lẫn lý
trí đều xác nhận như nhau cái sự thật là: sự tàn nhẫn không đếm xỉa đến bất
kỳ sự khác biệt nào, làm cho sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vô hiệu, bởi vì
sự tàn nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là kết quả của pháp luật”. Việc
duy trì hình phạt tử hình ở một số nước không phải xuất phát từ lý luận cho
rằng, người bị kết án đã không còn khả năng cải tạo được nữa mà xuất phát từ
mục đích phòng ngừa chung của hình phạt.
Thứ ba, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt:
Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc
phân hoá trách nhiệm hình sự. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc này thể hiện ở
chỗ, TA dựa vào ý thức pháp luật của mình, dựa trên cơ sở những quy định
của luật hình sự, những tình tiết khác nhau của vụ án để quyết định một hình
phạt đảm bảo sự tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội. Hầu hết các quy định về hình phạt của phần chung BLHS thể hiện rất rõ
tư tưởng của nguyên tắc này. Chẳng hạn, quy định điều kiện áp dụng các loại
hình phạt, quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, phạm nhiều tội
và có nhiều bản án...Việc quy định chế tài trong phần các tội phạm BLHS
cũng thể hiện tư tưởng này khi quy định chế tài tuỳ nghi lựa chọn, khung hình
phạt rộng với nhiều loại hình phạt khác nhau cho phép TA trong từng trường
hợp cụ thể có thể lựa chọn một hình phạt đúng đắn nhất đối với bị cáo.
Bên cạnh đó, một số quan điểm còn cho rằng, ngoài ba nguyên tắc
chúng ta đã nghiên cứu còn có một nguyên tắc mà TA phải tuân thủ khi quyết
định hình phạt là nguyên tắc công bằng.Thật ra, nếu TA thấm nhuần ý thức
pháp luật, tư tưởng nhân đạo và cá thể hoá hình phạt thì tất sẽ quyết định một
hình phạt công bằng. Bởi vì, suy cho cùng tư tưởng công bằng cũng không
nằm ngoài sự đòi hỏi có được một hình phạt phải đúng pháp luật, tương xứng
với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh đúng dư luận
xã hội và có sức thuyết phục cao.
13



1.1.2.2 Các nguyên tắc đặc thù của việc quyết định hình phạt trong
trường hợp có nhiều bản án
Bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc chung khi quyết định hình phạt
thì việc quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án còn có các
nguyên tắc đặc thù của mình. Theo lý luận chung của Luật hình sự, các
nguyên tắc tổng hợp hình phạt để có hình phạt chung có thể là nguyên tắc
cộng toàn bộ, nguyên tắc cộng một phần và nguyên tắc thu hút. Trong mỗi
trường hợp cụ thể thì mỗi nguyên tắc được áp dụng một cách khác nhau.
Thứ nhất, nguyên tắc thu hút
Theo nguyên tắc thu hút, hình phạt chung là hình phạt nặng nhất trong
các hình phạt đã tuyên. Nguyên tắc này được áp dụng trong hai trường hợp.
- Một là, trường hợp không thể cộng được vì một hình phạt là loại hình
phạt nặng nhất trong hệ thống hình phạt hoặc đã ở mức cao nhất.
- Hai là, trường hợp có thể cộng được nhưng không cộng vì các hình
phạt khác so với hình phạt nặng nhất là không đáng kể.
Ví dụ: Như trong trường hợp một trong các bản án, người phạm tội giết
người theo đó hình phạt đối với từng tội danh của người đó của các bản án
khác là các mức thấp hơn như là hai năm tù cho hưởng án treo, 10 năm tù và
tử hình, thì khi tổng hợp hình phạt đối với người đó là tử hình. Ở đây hình
phạt chung cho người này được thu hút vào hình phạt tử hình, hình phạt tử
hình là cao nhất trong hệ thống hình phạt, khi cộng các hình phạt kia so với
hình phạt tử hình là không đáng kể.
Thứ hai, nguyên tắc cộng toàn bộ
Theo nguyên tắc cộng toàn bộ, hình phạt chung bằng tổng các hình
phạt đã tuyên. Điều kiện cho phép áp dụng nguyên tắc này là các hình phạt đã
tuyên phải cùng loại (hoặc có thể quy về cùng loại), đơn vị tính của hình phạt
cho phép cộng được và kết quả cộng không được vượt mức tối đa cho phép.

14



Nguyên tắc này được áp dụng khi thấy cần thiết và do vậy không thể áp
dụng nguyên tắc khác. Ví dụ như với trường hợp người phạm tội phạm tội
hiếp dâm và trộm cắp tài sản được xét xử ở hai bản án khác nhau, hình phạt
tương ứng với mỗi loại tội là 7 năm và 3 năm tù. Khi áp dụng nguyên tắc
cộng toàn bộ thì người này phải chịu hình phạt chung là 10 năm cho hai bản
án ứng với tội danh của mình.
Thứ ba, nguyên tắc cộng một phần
Theo nguyên tắc cộng một phần, hình phạt chung bằng hình phạt cao
nhất cộng với một phần của hình phạt còn lại. Nguyên tắc này được áp dụng
trường hợp không thể cộng được toàn bộ vì mới cộng một phần đã đạt mức
tối đa cho phép. Ví dụ như đối với người phạm tội bị tuyên 20 năm tù vì tội
giết người ở bản án thứ nhất và 15 năm tù về tội hiếp dâm trẻ em ở bản án thứ
hai thì khi tổng hợp hình phạt cho người phạm tội, người phạm tội chỉ phải
chịu hình phạt chung là 30 năm tù thay vì 35 năm như cộng toàn bộ.
Nguyên tắc cộng các hình phạt được thực hiện khi các hình phạt đó
cùng loại (hoặc có thể quy về cùng loại) và đơn vị tính có thể cộng được.
Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, các hình phạt đó là hình phạt tù có thời
hạn, hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tiền.
Nguyên tắc thu hút được áp dụng trong trường hợp hình phạt cao nhất
là chung thân hoặc tử hình. Những hình phạt này không thể cộng được với
bất cứ hình phạt nào khác và được coi là hình phạt chung.
Bên cạnh đó khi không thể áp dụng được ba nguyên tắc trên thì có
nghĩa là không tổng hợp để có hình phạt chung mà các hình phạt cùng được
chấp hành…đây có thể coi là nguyên tắc thứ tự.
Thứ tư, nguyên tắc cùng tồn tại
Nguyên tắc cùng tồn tại, có nghĩa là các hình phạt khác loại nhau như
hình phạt tù và phạt tiền, trục xuất… đều cùng được áp dụng.


15


Các nguyên tắc trên thể hiện rõ nét hình phạt tổng hợp phải tương xứng
với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đã thực hiện, đồng
thời thể hiện rõ nét tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam. Như trong
nguyên tắc cộng toàn bộ thì hình phạt thể hiện được hình phạt được tổng hợp
tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thực hiện,
tất cả các hình phạt áp dụng với từng tội đều được tổng hợp lại và buộc người
phạm tội phải chấp hành. Còn trong nguyên tắc cộng một phần và nguyên tắc
thu hút thì thể hiện rõ nét tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Trong nguyên tắc cộng một phần, khi thấy không cần thiết phải cộng
toàn bộ hình phạt mặc dù có thể cộng toàn bộ hoặc khi mới cộng một phần đã
đạt mức tối đa cho phép đã tạo cơ hội cho người phạm tội có được hình phạt
nhẹ nhất có thể áp dụng. Trong nguyên tắc thu hút, chỉ áp dụng hình phạt cao
nhất trong các hình phạt đã tuyên cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật
hình sự Việt Nam.
1.1.3 Căn cứ quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi, yêu cầu có tính bắt buộc
TA phải tuân theo khi quyết định hình phạt. Trong BLHS năm 1999 cũng như
các văn bản hướng dẫn thi hành luật đều chưa có định nghĩa về căn cứ quyết
định hình phạt mà chỉ quy định về nội dung của căn cứ quyết định hình phạt.
Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý đã có một số tác giả đưa ra định nghĩa về
căn cứ quyết định hình phạt trong các công trình nghiên cứu riêng của mình.
Theo tác giả Võ Khánh Vinh thì “Các căn cứ quyết định hình phạt là
những đòi hòi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do
giải thích luật mà có, buộc TA phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với
người thực hiện tội phạm”.
Tác giả Lê Cảm cho rằng: “Những căn cứ quyết định hình phạt là toàn
bộ những yêu cầu có tính chất bắt buộc do luật định mà TA phải nghiêm

chỉnh tuân thủ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội”.
16


Tác giả Đinh Văn Quế trong các tác phẩm của mình cũng định nghĩa:
“Căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản (là chỗ dựa) buộc TA
phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với tội phạm”.
Các định nghĩa này, nhìn chung đều đã chỉ ra được bản chất của căn cứ
quyết định hình phạt.
Để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động quyết định hình phạt,
Điều 45 BLHS năm 1999 quy định các căn cứ quyết định hình phạt mà TA
bắt buộc phải dựa vào khi quyết định hình phạt là:
1.1.3.1 Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự
Quy định của BLHS là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để TA định tội
danh và xác định khung hình phạt, yêu cầu đầu tiên của việc lựa chọn đúng
loại và mức hình phạt cụ thể. Việc quy định căn cứ quy định của bộ luật hình
sự nhằm đảm bảo tính thống nhất, đúng pháp luật khi áp dụng các quy phạm
pháp luật hình sự vào quyết định hình phạt. Nếu không dựa vào quy định của
BLHS sẽ dẫn đến việc tùy tiện hoặc lạm dụng các quy phạm pháp luật hình sự
khi quyết định hình phạt, đồng thời hình phạt được quyết định cũng khó có
thể tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội. Chính vì vậy, Điều 45 BLHS năm 1999 đã buộc Hội đồng xét xử phải căn
cứ vào quy định của BLHS, còn đối với ba căn cứ sau, Điều luật chỉ yêu cầu
cân nhắc. Theo đó, những quy định của BLHS về quyết định hình phạt bao
gồm:
+ Các quy định có tính định hướng chung cho việc quyết định hình
phạt: Nguyên tắc xử lý (Điều 3); Miễn trách nhiệm hình sự (Điều 19 và Điều
25); Mục đích của hình phạt (Điều 27); Các hình phạt (Điều 28); những quy
định về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng của từng hình phạt (từ Điều 29
đến Điều 40); Căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45); Nguyên tắc xử lý đối

với người chưa thành niên (Điều 69); Các hình phạt được áp dụng đối với
người chưa thành niên (Điều 71).
17


+ Các quy định cụ thể về quyết định hình phạt: Các tình tiết giảm nhẹ
TNHS (Điều 46); Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật (Điều
47); Các tình tiết tăng nặng TNHS (Điều 48); Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
(Điều 49); Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 50);
Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 51); Quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 52); Quyết định hình
phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 53); Miễn hình phạt (Điều 54).
+ Căn cứ vào quy định phần Các tội phạm của BLHS năm 1999 là căn
cứ vào điều luật về tội phạm cụ thể để xác định khung hình phạt chính và hình
phạt bổ sung áp dụng cho từng hành vi phạm tội mà điều luật về tội phạm quy
định. Dựa vào căn cứ này sẽ xác định được khung hình phạt là khung cơ bản,
khung tăng nặng, khung giảm nhẹ hay chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn
nếu bị cáo không được miễn TNHS hay miễn hình phạt.
1.1.3.2 Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm đã cho thấy các trường hợp
phạm tội diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp và không bao giờ giống nhau một
cách tuyệt đối, kể cả các trường hợp cùng phạm một tội cụ thể cũng luôn khác
nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Do đó, để quyết định hình
phạt đối với mỗi hành vi phạm tội cụ thể, luật bắt buộc Hội đồng xét xử phải
căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Đây là yêu cầu có tính chất quyết định đến khả năng đạt được các mục đích
của hình phạt. Việc quy định căn cứ này sẽ giúp cho Hội đồng xét xử có cơ sở
vững chắc và điều kiện để lựa chọn và quyết định hình phạt với mức độ cụ thể
tương xứng với hành vi phạm tội, đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc cá

thể hoá hình phạt trong quyết định hình phạt. Có như vậy mới đảm bảo được
sự bình đẳng, thống nhất, chính xác khi quyết định hình phạt đối với các
trường hợp phạm tội khác nhau về cùng một tội hay trong cùng một khung
18


hình phạt. Quyết định hình phạt là lựa chọn loại hình phạt cụ thể với mức độ
nhất định trong phạm vi khung hình phạt của điều luật về tội phạm đã quy
định. Việc nhà làm luật xây dựng các khung hình phạt khác nhau trong một
điều luật về tội phạm chính là sự phản ánh tương quan với tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Còn các mức độ khác nhau của hình
phạt trong giới hạn từ tối thiểu đến tối đa của mỗi khung hình phạt lại phản
ánh sự tương quan với các mức độ nguy hiểm khác nhau cho xã hội của hành
vi phạm tội.
Như vậy, tính chất nguy hiểm cho xã hội là cơ sở để xác định khung
hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội. Chúng tôi cho rằng khi quyết
định hình phạt nếu lại căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội là chưa khoa học và thiếu công bằng vì một tình tiết đã được sử
dụng làm yếu tố định khung hình phạt thì không thể được sử dụng một lần
nữa khi quyết định hình phạt. Điều đó không những vi phạm các nguyên tắc
của Luật hình sự mà quan trọng hơn còn làm xấu đi tình trạng pháp lý của bị
cáo.
1.1.3.3 Cân nhắc nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù lịch sử, bao gồm tổng hợp
các đặc điểm về xã hội, tâm lý, đạo đức, sinh học, nói lên tính chất của con
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị quy định trong BLHS là
tội phạm.
Hay nói cách khác Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc tính,
cácdấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người mà trong những điều kiện
, hoàn cảnh nhất định và dưới tác động của chính các điều kiện, hoàn cảnh đó

động cơ phạm tội nảy sinh. Các đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng trong
việc giải quyết vấn đề TNHS của người phạm tội một cách công minh, có căn
cứ, đúng pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu về nhân thân người phạm tội sẽ cho
chúng ta biết được những đặc điểm tốt, những đặc điểm xấu, những thuận lợi,
19


khó khăn trong quá trình hình thành nhân cách của người phạm tội để qua đó
góp phần đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội cũng như khả năng giáo dục, cải tạo họ. Đây là ưu điểm của
căn cứ thứ ba này so với căn cứ nhứ nhất và căn cứ thứ hai vì trên cơ sở hai
căn cứ đầu tiên, việc cân nhắc nhân thân người phạm tội sẽ giúp cho Hội đồng
xét xử không chỉ quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà hình phạt đó còn phù hợp với khả
năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội. Chỉ có như vậy mới giải quyết
đúng đắn vấn đề TNHS của người phạm tội, đảm bảo cho việc cá thể hoá hình
phạt một cách chính xác nhằm đạt được tốt nhất các mục đích của hình phạt.
Tuy nhiên, việc cân nhắc nhân thân người phạm tội khi quyết định hình phạt
phải quán triệt các yêu cầu mang tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, các đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội theo quy
định của BLHS là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt hoặc đã
được xác định là tình tiết giảm nhẹ hay tình tiết tang nặng TNHS thì không
được sử dụng một lẫn nữa để cân nhắc nhân thân người phạm tội khi quyết
định hình phạt.
Thứ hai, chỉ những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có liên
quan trực tiếp đến tội phạm được thực hiện mà việc cân nhắc chúng nhằm giải
quyết đúng đắn vấn đề TNHS của người phạm tội và tạo khả năng cao nhất để
có thể đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội mới được được
xem xét khi quyết định hình phạt.
Thứ ba, trong mối quan hệ với căn cứ thứ hai, nhân thân người phạm

tội chỉ là căn cứ giữ vị trí hỗ trợ, bổ sung để hình phạt được tuyên không
những đúng pháp luật mà còn phù hợp với thực tiễn, đảm bảo đạt được các
mục đích của hình phạt.
Thứ tư, cần phân định rõ các đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm
tội với các dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
20


1.1.3.4 Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS với tính chất là một căn cứ
quyết định hình phạt là những tình tiết được quy định trong Phần chung của
BLHS, có giá trị làm giảm hoặc tăng mức độ TNHS của người phạm tội trong
phạm vi một khung hình phạt để tạo tiền đề cho việc cá thể hoá hình phạt đối
với người phạm tội được chính xác.
Vì vậy, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS có ý nghĩa
pháp lý hết sức quan trọng trong quyết định hình phạt nhằm đảm bảo cho hình
phạt được tuyên một cách công bằng, thể hiện sự tương xứng giữa mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội với mức độ TNHS được áp dụng.
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS là những biểu hiện có tính đặc thù
của từng trường hợp phạm tội cụ thể nên mức độ ảnh hưởng của các tình tiết
này đến việc quyết định hình phạt phải tuỳ thuộc vào từng vụ án hình sự cụ
thể. Mức độ giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của mỗi tình tiết không được nhà làm
luật quy định trước trong luật mà thuộc quyền tuỳ nghi cân nhắc của Hội đồng
xét xử. Vì vậy, khi cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS, cần
phải quán triệt các yêu cầu có tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, trong mỗi vụ án hình sự, trước tiên cần xác định tình tiết là
yếu tố định tội, tình tiết là yếu tố định khung hình phạt trước rồi mới xác định
tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. Những tình tiết đã là yếu tố định tội,
định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS hoặc tình
tiết tăng nặng TNHS.

Thứ hai, trong mỗi vụ án hình sự thường có cả tình tiết giảm nhẹ và
tình tiết tăng nặng TNHS với những giá trị pháp lý không giống nhau. Điều
đó đòi hỏi Hội đồng xét xử phải trên cơ sở đánh giá toàn diện các tình tiết
trong mối liên hệ thống nhất của toàn bộ vụ án để xác định giá trị pháp lý, ý
nghĩa của từng tình tiết giảm nhẹ và tang nặng TNHS làm căn cứ quyết định
mức hình phạt tương xứng trong phạm vi khung hình phạt.
21


×