Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.96 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ MINH TÂM

CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ MINH TÂM

CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60.38.01.04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN NGỌC HƢƠNG

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và
số liệu được sử dụng trong luận văn đều được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao
nhất trong phạm vi hiểu biết của riêng tôi.
Học viên

Đặng Thị Minh Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG
NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ........................................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất, ý nghĩa và vai trò của các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự ..................................................................................................... 9
1.2. Pháp luật về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:.................................. 19
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
1999 VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................... 24

2.1. Quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình
sự Việt Nam. ............................................................................................................. 24
2.2. Thực tiễn thực hiện các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.................................................................................................... 38
CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......................................................... 55
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự ................................................................................................... 55
3.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ... 57
3.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng ....................................................................................... 58
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKS

Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. T n





Sau hơn 30 năm, từ năm 1986 đến năm 2017, nước ta từ nước có nền kinh tế
tập trung bao cấp đã chuyển mình, từng bước xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế, đối ngoại với nhiều nước trên thế
giới. Từ những định hướng đúng đắn, nước ta đã từng bước phát triển và đạt được

nhiều thành tựu đáng kể, gia nhập các tổ chức kinh tế, xã hội trên thế giới nổi bật là
trở thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là những thành
công vượt bật mà nền kinh tế thị trường đem lại cho đất nước.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng đem lại cho đất nước những mặt trái
không thể phủ nhận đó là sự cá thể hóa của mỗi cá nhân, sự phân hóa giàu nghèo
ngày càng rõ rệt hay sự ảnh hưởng của những luồng tư tưởng tiêu cực,..v.v và tình
hình tội phạm cũng theo đó mà ngày càng trở nên phức tạp, nguy hiểm và khó kiểm
soát. Nền kinh tế thị trường cho chúng ta những lợi ích không thể không thừa nhận
nhưng cũng đem lại cho Nhà nước, nhân dân Việt Nam vô số thách thức trong mọi
lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội nói chung, và các cơ quan tiến hành tố
tụng trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói riêng. Tình hình tội phạm
của nước ta ngày càng gia tăng số vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người; xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
tội phạm về môi trường, tội phạm về ma túy và các tội phạm về chức vụ,…vv xảy
ra nhiều, với mức độ ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và quy mô của tội
phạm.
Xét xử và quyết định hình phạt là hoạt động tư pháp vô cùng quan trọng
trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm ấy. Với chính sách hình sự nghiêm
khắc nhưng mang tính nhân đạo thể hiện được chủ trương đường lối của Đảng trong
trừng trị những người phạm tội thì quyết định hình phạt đặc biệt được chú trọng tại
Điều 45 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 “Khi quyết định

1


hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Các yếu tố này là cơ sở để
Tòa án quyết định mức hình phạt tương xứng mà người phạm phải chịu đối với
hành vi phạm tội mà người phạm tội gây ra. Do vậy, việc xem xét, đánh giá một

cách chính xác, toàn diện và đầy đủ các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý
nghĩa quan trọng khi quyết định hình phạt.
Trong những năm qua, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã xét
xử nhiều hành vi phạm tội đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có tác
dụng cải tạo, giáo dục người phạm tội, đảm bảo mục đích đấu tranh phòng ngừa
chung, phục vụ nhiệm vụ chính trị của thành phố Đà Nẵng. Việc xét xử các hành vi
phạm tội đã được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng tiến hành theo đúng
quy định của pháp luật, được dư luận xã hội và nhân dân đồng tình. Trong đó, việc
áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bảo đảm đúng quy định tại Điều
48 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vẫn không thể tránh khỏi những tồn tại, thiếu sót
và bất cập trong việc áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng trách nhiệm khi
quyết định hình phạt dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nhẹ, quá nặng hay cho
người phạm tội hưởng án treo không đúng theo quy định của pháp luật, chưa có sự
thống nhất trong việc quyết định mức hình phạt mà người phạm tội phải chịu trong
các vụ án khác nhau dù cùng có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các
yếu tố quyết định hình phạt như nhau nên chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Những tồn tại thiếu sót, bất cập như đã nêu trên do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Đó là: Hội đồng xét xử nhận thức chưa đúng bản chất của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự. Mặt khác, do có sự chưa thống nhất trong việc hướng dẫn
áp dụng pháp luật nên việc xác định các tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự quy
định tại Điều 48 Bộ luật hình sự còn nhiều hạn chế.
Thực hiện Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

2


“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó xác định công tác xét xử là
trọng tâm; bản án hình sự của Tòa án phải bảo đảm đúng pháp luật.

Việc nghiên cứu để làm sáng tỏ nội dung, bản chất của các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự để làm rõ những ưu điểm, những tồn tại, hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, bất cập quy định và áp dụng trong thực
tiễn xét xử các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên thành phố Đà Nẵng làm
cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị, nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện các tình tiết tăng nặng TNHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng trong
thời gian tới
Xuất phát từ những lý do như đã nêu trên, Học viên chọn đề tài: "Các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng" làm luận văn Thạc sỹ Luật học là đáp ứng yêu cầu cấp thiết
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu

tài

Liên quan đến đề tài nghiên cứu hiện nay có một số công trình ở các mức độ
khác nhau đề cập đến vấn đề này. Có thể liệt kê một số công trình sau:
* Giáo trình luật hình sự của các cơ sở đào tạo như:
Giáo trình Luật hình sự việt Nam của trường Đại học luật Hà Nội do PGS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội năm 2000.
Giáo trình Luật hình sự việt Nam của trường Đại học luật Hà Nội do PGS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội năm 2002.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh do Trần Thị Quang Vinh chủ biên; Biên soạn: Mai Khắc Phúc, Nxb Hồng
Đức, Hà Nội năm 2012.
* Một số đề tài cấp bộ như:
Đề tài cấp bộ“Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong công tác xét xử của Tòa án và một số kiến nghị” do Đinh Văn
Quế Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội năm
2000.


3


* Một số sách chuyên khảo như:
Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Viện
nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS. Đào Trí Úc làm chủ biên, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội năm 1994; “Chế định nhiều tội phạm những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của TS Lê Văn Đệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2003; “Định tội
danh và quyết định hình phạt” của TS. Dương Tuyết Miên, Nxb Lao động – Xã hội,
Hà Nội, năm 2007; “Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của tác giả Đinh Văn Quế Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao,
Nxb Phương Đông, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010; “Hoàn thiện các quy định
của Bộ luật hình sự trước yêu cầu mới của đất nước” của TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2012;
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần chung của tác giả Đinh Văn Quế Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, năm
2000; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 của Viện Nhà nước và pháp luật do Ths.
Đinh Thế Hưng và TS. Trần Văn Biên chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội năm 2013;
Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phần chung
của Luật gia Trần Minh Hưởng chủ biên, Nxb lao động năm 2002; Bình luận khoa
học Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 Tập I, do TS. Trần Minh
Hưởng Học viện Cảnh sát nhân dân chủ biên, Nxb Lao động, năm 2009.
* Ngoài ra còn một số bài viết đăng trên các Tạp chí khoa học pháp lý
chuyên ngành như:
“Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự
năm 1999” của Tác giả Dương Tuyết Miên đăng trên tạp chí Tòa án số 01/2003;
“Áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều
48 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức Việt là hoàn toàn có căn cứ pháp
luật” của Tác giả Lê Văn Sua - Tòa án khu vực 1 Quân khu 9; “Phải áp dụng tình

tiết tăng nặng phạm tội đối với phụ nữ có thai để xét xử các bị cáo” của tác giả
Nguyễn Minh Đức đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 22 tháng 11 năm 2005.

4


Nhìn chung các công trình kể trên, ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến đề
tài luận văn. Tuy nhiên chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu đến vấn đề các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng. Do vậy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng cần được tiếp tục nghiên
cứu.
3. Mụ

và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tình tiết tăng nặng TNHS, theo
pháp luật hình sự Việt Nam
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng những quy định về các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm
2009 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, rút ra những tồn tại,
thiếu sót, bất cập trên cơ sở đó, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự; những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, bản chất, ý nghĩa, vai trò của các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam; phân biệt tình tiết tăng
nặng (hoặc giảm nhẹ) trách nhiệm hình sự với tình tiết định tội và tình tiết định

khung.
- Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và so sánh với Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 2015. Đánh giá đúng thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Tìm ra những tồn tại,
hạn chế bất cập, vướng mắc, nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật các tình tiết

5


tăng nặng trách nhiệm hình sự; hoàn thiện quy định của pháp luật về hướng dẫn áp
dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Việt Nam trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
4. Đố ƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phân tích các quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo
pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng trong việc xét xử các vụ án
hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung xem xét giải quyết một số vấn đề chung về các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự, cụ thể là: Làm rõ khái niệm, đặc điểm, bản chất, ý
nghĩa, vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đồng thời tập
trung đánh giá đúng thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng trong việc xét xử các vụ án hình sự

với thời điểm 05 năm (2012- 2016).
- Tìm ra những tồn tại, hạn chế bất cập, vướng mắc, nguyên nhân của những
tồn tại, thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự; đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
5. P ƣơng

á luận v

ƣơng

á ng ên ứu

5.1. Phương pháp luận
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn dựa trên quan điểm
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về nguyên tắc xử lý tội phạm,

6


về chính sách hình sự, cải cách tư pháp, về chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phương pháp
tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, hệ thống v.v. kết hợp giữa các phương pháp
nghiên cứu, phương pháp phân tích được xem là chủ đạo.
* Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, bản chất, ý nghĩa, vai trò của các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam (Bộ luật

hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009)
- Đã tổng hợp, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Đồng thời tập trung đánh giá đúng thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng trong việc xét xử
các vụ án hình sự.
- Tìm ra những tồn tại, hạn chế bất cập, vướng mắc, nguyên nhân của những
tồn tại, thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; hoàn thiện quy định
của pháp luật về hướng dẫn áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6. Ý ng ĩ lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đặc biệt là ngành Tòa án nhân dân, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân nói chung, ngành Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng
nói riêng trong việc thực hiện, áp dụng chính xác các quy định về các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự để giải quyết các vụ án hình sự đạt chất lượng, hiệu quả,

7


mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện xử lý nghiêm minh, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên
cứu, và giảng dạy chuyên ngành ở cơ sở đào tạo về pháp luật, dùng làm biên soạn

các tập bài giảng, chuyên đề giảng dạy các khóa đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ về xét
xử các vụ án hình sự. Ngoài ra kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể được sử
dụng để xây dựng các kỹ năng nghề nghiệp, các thao tác nghiệp vụ của Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự trong giai đoạn cải
cách tư pháp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3
chương, mỗi chương được chia ra nhiều tiết khác nhau:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ
sung năm 2009 về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng xét
xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Việt Nam trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

8


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, ặ

ểm, bản chấ , ý ng ĩ v v

rò ủa các tình ti t

ăng nặng trách nhiệm hình sự

1.1.1. Khái niệm
Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn một hình phạt buộc bị cáo bị
kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức phạt bao nhiêu, Tòa
án phải tuân theo những quy định của BLHS. Quyết định hình phạt là một hoạt
động tư duy của Thẩm phán và của Hội thẩm nhân dân ngay sau khi đã xác định
được tội danh đối với hành vi phạm tội. Quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng
của hoạt động xét xử nên quyết định chính xác có ý nghĩa rất quan trọng đối với
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Để quyết định hình phạt chính xác đúng
pháp luật thì Tòa án phải định tội danh chính xác, phải tuân theo những nguyên tắc,
những căn cứ về quyết định hình phạt được quy định trong BLHS hiện hành, các
yếu tố khác có liên quan đến việc quyết định hình phạt. Đồng thời Tòa án còn phải
xem xét cân nhắc đến tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của từng địa phương, yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Đúng theo quy định tại Điều 45 Bộ luật hình
sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, khi quyết định hình phạt tòa án căn cứ vào
các quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, căn cứ vào các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trong pháp luật hình sự, cụ thể là tại Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 không đưa ra khái niệm của tình tiết tăng nặng trách nhiệm. Tuy
vậy, trong khoa học luật hình sự Việt Nam các nhà nghiên cứu hiện nay đang có
những quan điểm khác nhau trong việc xác định khái niệm các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự là những tình tiết có trong một vụ án cụ thể làm tăng mức độ nghiêm
9


trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc
hơn trong một khung hình phạt” [9, tr.12]. Đối với tác giả Dương Tuyết Miên cho
rằng “các tình tiết tăng nặng TNHS là những tình tiết được quy định trong Bộ luật
hình sự phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải

tạo giáo dục của người phạm tội . Các tình tiết tăng nặng TNHS có ý nghĩa trong
việc quyết định hình phạt, làm tăng hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt
nhất định”.[7, tr.147]. Còn các tác giả Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt thì đưa ra khái
niệm về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau: “Tình tiết tăng nặng
TNHS là tình tiết được quy định trong phần chung Bộ luật hình sự với tính chất là
tình tiết tăng nặng chung và là một trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình sự
có thẩm quyền chủ yếu là tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng
(chủ yếu là giai đoạn xét xử) cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với
người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt
nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này” [2, tr.16].
Từ quy định về căn cứ Quyết định hình phạt và những quan điểm nêu trên, cho
thấy các tình tiết tăng nặng TNHS có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết
định hình phạt, làm tăng hình phạt trong một giới hạn khung hình phạt nhất định.
Chỉ những tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ
sung năm 2009 mới được coi là các tình tiết tăng nặng TNHS, nói như vậy là Tòa
án nhân dân không được phép tự xác định các tình tiết tăng nặng TNHS. Các tình
tiết này Tòa án làm cơ sở để tăng mức độ TNHS cho người phạm tội, do vậy được
quy định rất chặt chẽ, tránh việc lạm dụng để làm xấu đi tình trạng pháp lý của
người phạm tội khi không có căn cứ xác đáng. Các tình tiết tăng nặng TNHS có đặc
điểm chung là những tình tiết có ý nghĩa làm tăng mức độ TNHS của người phạm
tội.
Từ những phân tích nêu trên, trên cơ sở các quan điểm của các nhà khoa học,
tác giả đồng ý với các khái niệm về các tình tiết tăng nặng TNHS như đã nêu trên.
Tuy nhiên để cho rõ hơn, tác giả tổng hợp lại khái niệm về các tình tiết tăng nặng
TNHS trên và có thể đưa ra khái niệm về các tình tiết tăng nặng TNHS như sau:

10


“Các tình tiết tăng nặng TNHS là tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự với

tính chất là tình tiết tăng nặng chung và là một trong những căn cứ pháp lý để cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền mà chủ yếu là giai
đoạn xét xử, cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội
theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án
hình sự có tình tiết này”.
1.1.2. Đặc điểm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Từ khái niệm và những quy định luật định, tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự có một số đặc điểm:
Thứ nhất, làm tăng mức độ nguy hiểm của tội phạm cho xã hội.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự xuất hiện trong một vụ án cụ thể,
đối với người phạm tội cụ thể, làm thay đổi mức độ nguy hiểm của tội phạm theo
hướng nghiêm trọng hơn, từ đó, làm căn cứ quyết định hình phạt. Đây là đặc điểm
cơ bản nhất của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung.
Thứ hai, là căn cứ quyết định hình phạt ở mức độ tăng hình phạt mà người
phạm tội phải chịu khi có căn cứ áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm theo quy
định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là căn cứ để quyết định hình phạt phân
biệt với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhất thiết phải được nhà làm
luật ghi nhận trong pháp luật hình sự hiện hành, cụ thể là trong Bộ luật hình sự năm
1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Ngoài ra, không thể có trong các văn bản pháp lý nào khác hoặc không thể
do Tòa án tự xem xét để cân nhắc như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không làm thay đổi tính chất
của tội phạm.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 48 Bộ luật
hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định làm căn cứ quyết định hình

11



phạt khác biệt với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để định tội và tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự để định khung hình phạt. Khi đã xem tình tiết tăng
nặng là yếu tố định tội hoặc định khung thì không được áp dụng tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự được quy định tại Phần chung.
Ví dụ: Tình tiết tăng nặng “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” là yếu
tố định tội được quy định tại các tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165); tội tham ô tài sản (Điều 278); tội
nhận hối lộ (Điều 279); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
(Điều 281); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi (Điều 283); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật
(Điều 303)… Bộ luật hình sự. Do đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án không được
xem xét nó (tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 48) là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung nữa.
Ví dụ: Các tình tiết tăng nặng định khung: “phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp”, “tái phạm nguy hiểm” trong tội cướp tài sản (quy định tại các điểm b, c
khoản 2 Điều 133) hoặc “phạm tội nhiều lần” trong tội buôn lậu (quy định tại điểm
k khoản 2 Điều 153)… Tương tự, khi quyết định hình phạt, Tòa án cũng không
được xem xét các tình tiết này là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung quy
định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 nữa.
Thứ năm, trường hợp tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được luật quy
định với tính chất là yếu tố định tội, định khung hình phạt đối với một tội phạm
tương ứng cụ thể, có nghĩa tình tiết này làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi hay mức độ nguy hiểm của hành vi là căn cứ cho phép Tòa án tăng mức
hình phạt đối với người phạm tội chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn, thì
trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội Tòa án nhất thiết không thể
xem xét nó với tính chất là tình tiết tăng nặng chung được quy định tại khoản 1
Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.
Thứ sáu, mang tính chất ổn định về số lượng và nội dung.

Trong tình hình phát triển kinh tế, chính trị - xã hội như hiện nay, tội phạm

12


càng ngày càng tăng và mức độ phạm tội cũng thay đổi. Do vậy, nếu trong thực tiễn
đời sống xuất hiện những tình tiết làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm theo hướng nghiêm khắc, nghiêm trọng hơn thì chúng sẽ được nhà làm
luật bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh chung của đất nước. Ngược lại, pháp luật
cũng sẽ loại bỏ khỏi Bộ luật hình sự những tình tiết nào mà việc áp dụng chúng
không còn thích hợp với hoàn cảnh thực tế.
Ví dụ: Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tình tiết “lợi dụng chức vụ
cao để phạm tội”, chỉ đến Quốc hội khóa IX (kỳ họp thứ 11) ngày 10/5/1997, tình
tiết này mới được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm c khoản
1 Điều 39) và đến Bộ luật hình sự năm 1999 tình tiết này lại không được quy định
là tình tiết tăng nặng nữa mà thay vào đó là tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để phạm tội” (điểm c khoản 1 Điều 48).
Như đã phân tích ở đặc điểm thứ ba, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
phải được quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó, nếu chưa được bổ sung vào Bộ
luật hình sự, thì các Tòa án không được tùy tiện bổ sung vào những tình tiết tặng
nặng trách nhiệm hình sự để áp dụng cho người phạm tội. Đây là sự khác biệt trong
việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì Tòa án có thể linh hoạt
coi những tình tiết khác ngoài những tình tiết đã được quy định trong khoản 1 Điều
46 Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (được quy định trong
các văn bản hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) hoặc
những tình tiết khác, nhưng phải nói rõ lý do và tất nhiên nó chỉ có ý nghĩa đối với
trường hợp phạm tội cụ thể, với người phạm tội cụ thể với vụ án cụ thể mà Tòa án
đang xem xét.
Thứ bảy, khi áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội, Tòa án
“phải làm sáng tỏ ý thức chủ quan của người phạm tội để xét trường hợp này họ có

phải thấy trước hoặc có thể thấy trước được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
hay không, thì mới được áp dụng tình tiết tăng nặng đó đối với họ”[10].
Trường hợp có căn cứ chứng minh rằng họ không thấy được trước hoặc
không thể thấy được trước thì dù tình tiết đó có xảy ra người phạm tội cũng không

13


phải chịu trách nhiệm đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó.
Thứ tám, khác với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự có tác động giới hạn.
Khi có hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, Tòa án có thể quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định cho tội đã phạm (nhưng vẫn phải đảm
bảo mức tối thiểu của loại hình phạt đó), hoặc chuyển sang một hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn. Trong trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng
nặng Tòa án vẫn có thể vận dụng được quy định này, nếu các tình tiết giảm nhẹ có ý
nghĩa giảm nhẹ nhiều hơn. Trường hợp người phạm tội dù có nhiều tình tiết tăng
nặng chung, nhiều tình tiết tăng nặng định khung thì cũng bị xử phạt trong phạm vi
một khung hình phạt nào đó.
Đặc điểm này thể hiện các nguyên tắc pháp chế, bình đẳng, nhân đạo, bảo vệ
quyền con người...“cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
là một trong những căn cứ của việc quyết định hình phạt công bằng”.
1.1.3. Bản chất, ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong quyết định hình phạt
Tăng nặng trách nhiệm hình sự là một yếu tố quan trọng, không thể tách rời
khỏi quyết định hình phạt. Vì vậy, cần phải xem xét bản chất, vai trò, ý nghĩa của
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Quyết định hình phạt.
* Về bản chất:
- Làm tăng nặng hình phạt mà người phạm tội phải chịu cho hành vi vi phạm
pháp luật do mình thực hiện được quy định trong pháp luật hình sự.

- Là chính sách của Nhà nước đối với những loại tội phạm có mức độ nguy
hiểm cho xã hội.
* Về ý nghĩa:
- Ý nghĩa về mặt chính trị:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thể hiện cụ thể đường lối, chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Khoản 2 Điều 3 của BLHS năm 1999 quy
định: "Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam,

14


nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Nghiêm trị người chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt,
có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Khoan hồng
đối với người tự thú thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc
tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra” [11,
tr.15]. Quy định này thể hiện rõ đường lối xử lý nghiêm trị kết hợp với khoan hồng,
trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo đối với người phạm tội.
- Ý nghĩa về mặt xã hội:
Việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách
nghiêm trị của Nhà nước ta đối với tội phạm, nhưng xét đến cùng là nhằm đảm bảo
cho việc thực hiện nguyên tắc công bằng trong lĩnh vực hình sự, có tác động tích
cực trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Đối với mỗi tội phạm cụ thể thì các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
không có giá trị tăng nặng như nhau, có tình tiết có ý nghĩa tăng nặng lớn, nhưng
cũng có tình tiết chỉ có ý nghĩa tăng một phần nhỏ trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Do vậy, việc hiểu và vận dụng đúng đắn các tình tiết tăng nặng
trong việc xác định trách nhiệm hình sự trong mỗi trường hợp phạm tội cụ thể là
tiền đề đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm và hình phạt.

Bộ luật hình sự chỉ có thể quy định một cách khái quát mức hình phạt thấp
nhất và cao nhất trong một khung hình phạt đối với một tội phạm. Việc xem xét,
cân nhắc để áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong vụ
án hình sự cụ thể và đối với mỗi người phạm tội cụ thể chính là đảm bảo sự phù hợp
giữa mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội so với mức hình phạt của
khung hình phạt tương ứng được quy định tại Điều luật cụ thể của Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự, đồng thời còn phù hợp với các yếu tố khác như: địa điểm
phạm tội,hoàn cảnh phạm tội, thời gian phạm tội, không gian phạm tội, công cụ
phạm tội, phương tiện phạm tội, phương pháp phạm tội, tính chất của hành vi phạm
tội, hậu quả của hành vi phạm tội và, nhân thân người phạm tội nữa… Vì vậy, việc

15


quy định các tình tiết tăng nặng TNHS làm căn cứ để quyết định hình phạt đối với
người phạm tội là thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, đảm bảo sự công
bằng giữa các công dân trước pháp luật, giúp đạt được mục đích của hình phạt là
cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội.
- Ý nghĩa về mặt pháp lý:
Các tình tiết tăng nặng là các tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm đã được thực hiện, là cơ sở pháp lý để áp dụng mức hình phạt nặng
hơn đối với người phạm tội trong phạm vi của một khung hình phạt tương ứng cụ
thể. Từ đó, có thể thấy tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thể hiện sự nghiêm trị
trong chính sách hình sự của Nhà nước ta, đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc cá thể
hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Về mặt pháp lý, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý nghĩa là một
phương tiện phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật và cá thể hóa trách nhiệm hình
sự trong áp dụng pháp luật, là điều kiện cần thiết để đạt được mục đích của hình
phạt.
1.1.4. Vai trò của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong quyết

định hình phạt
Các tình tiết tăng nặng TNHS có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định
hình phạt của TAND cụ thể là:
- Theo quy định của BLHS, phần các tội phạm cụ thể đều quy định các
khung hình phạt khác nhau và trong mỗi khung hình phạt của điều luật cụ thể đều
quy định mức hình phạt tối thiểu và mức hình phạt tối đa tùy theo tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Do vậy, khi Tòa án xác định một bị
cáo phạm tội ở khung hình phạt nào, thì mặc dù bị cáo đó có nhiều tình tiết tăng
nặng TNHS, thì Tòa án cũng không được xử bị cáo đó ở mức khung hình phạt khác.
Điều luật quy định như vậy là tránh việc xét xử tùy tiện và áp dụng bất lợi cho bị
cáo và không làm thay đổi tính chất của tội phạm do bị cáo đã thực hiện.
- Khi xem xét để áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS trong vụ án hình sự
đối với người phạm tội chính là đảm bảo sự phù hợp giữa mức độ nguy hiểm cho xã

16


hội của hành vi phạm tội so với mức hình phạt của khung hình phạt tương ứng được
quy định tại một Điều luật cụ thể của phần các tội phạm của BLHS và còn phải phù
hợp với các yếu tố khác như: Điều kiện hoàn cảnh phạm tội, địa điểm phạm tội,
công cụ phương tiện phạm tội, tính chất của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra v.v.
- Quá trình xem xét để áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS liên quan đến
hành vi phạm tội của một người nào đó trong vụ án có vai trò đồng phạm, thì
TAND chỉ được phép áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS ấy đối với riêng bản
thân người này, không được áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS đối với người
đồng phạm khác. Ví dụ: Nguyễn Văn A, Phạm Văn B và Lại Văn C là những người
đồng phạm trong tội “Cướp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS
năm 1999, nhưng chỉ riêng B phạm tội có tình tiết tăng nặng phạm tội “có tính chất
chuyên nghiệp” và tình tiết tăng nặng này lại được quy định là yếu tố định khung

hình phạt tăng nặng tại điểm b khoản 2 Điều 133 BLHS, còn A và C phạm tội
không có tình tiết tăng nặng này. Như vậy, trong trường hợp như đã nêu trên, thì
Phạm Văn B sẽ bị áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn được quy định tại
khoản 2 Điều 133 BLHS, còn Nguyễn Văn A và Lại văn C không có tình tiết tăng
nặng TNHS nêu trên, nên A và C được áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 133
BLHS.
- Có một số tình tiết tăng nặng TNHS chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với một
hoặc một số hành vi phạm tội hoặc đối với một số người phạm tội chứ không thể áp
dụng đối với tất cả các loại tội phạm hoặc đối với tất cả người phạm tội. Ví dụ
“Phạm tội vì động cơ đê hèn” được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 48 BLHS
năm 1999, chỉ được áp dụng đối với các tội “Giết người” quy định tại điểm q khoản
1 Điều 93 BLHS năm 1999, “Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em” được
quy định tại đểm c khoản 2 Điều 120 hay “Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử
dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 200 BLHS năm
1999 .
- Mỗi tình tiết tăng nặng TNHS có nội dung khác nhau, nên ý nghĩa tăng

17


nặng TNHS của nó cũng khác nhau trong việc quyết định hình phạt đối với mỗi
người phạm tội. Trong mỗi tình tiết tăng nặng thì ý nghĩa tăng nặng đến TNHS
cũng khác nhau, nếu như nó được xem xét và áp dụng với hành vi phạm tội khác
nhau hoặc người phạm tội khác nhau. Ví dụ: Trần Văn B phạm tội trong trường hợp
tái phạm nguy hiểm, đương nhiên phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc và cao hơn
so với trường hợp nếu Trần Văn B chỉ là tái phạm hay ví dụ: Nguyễn Văn A phạm
tội trong trường hợp “phạm tội có tính chất côn đồ” quy định tại điểm d khoản 1
Điều 48 BLHS năm 1999, đương nhiên phải chịu loại và mức hình phạt nghiêm
khắc và cao hơn trường hợp Nguyễn Văn A phạm tội trong trường hợp không có
tình tiết tăng nặng.

- Trong quá trình giải quyết vụ án liên quan đến vấn đề TNHS của người
phạm tội, Tòa án cần phân biệt tình tiết tăng nặng TNHS nào là tình tiết định tội,
tình tiết nào là tình tiết định khung, tình tiết nào là tình tiết tăng nặng TNHS chung.
Để giải quyết đúng đắn một vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền phải xác định rõ tội danh, khung hình phạt, các tình tiết
tăng nặng (và tình tiết giảm nhẹ TNHS). Các loại tình tiết này có vai trò bổ sung
cho nhau, hỗ trợ nhau trong quá trình định tội cũng như lúc lượng hình đối với
người phạm tội.
- Trong trường hợp một vụ án có cả tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ
thì Tòa án phải đánh giá, cân nhắc toàn diện, đầy đủ trong một tổng thể, không được
đánh giá cân nhắc một chiều tức là coi trọng tình tiết này, xem thường tình tiết khác,
nhất là các các tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội hoặc ngược lại. (điểm 4,
Mục B phần II của Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/01/1989 của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao)
- Việc xem xét để áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng TNHS trong vụ
án hình sự chính là biểu hiện sự tôn trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với
các nguyên tắc tiến bộ của luật hình sự Việt Nam như: nguyên tắc pháp chế, nguyên
tắc dân chủ, nhân đạo v.v..

18


1.2. Pháp luật v các tình ti

ăng nặng trách nhiệm hình sự:

Phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (và tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự) với các chế định khác có liên quan đến các tình tiết định tội và
tình tiết định khung
Việc phân biệt tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý

nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ, nếu có nhầm lẫn giữa ba loại tình tiết giảm nhẹ hoặc
tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định tội, tình tiết định khung với nhau trong
quá trình định tội danh và quyết định hình phạt sẽ dẫn đến xét xử sai toàn bộ vụ án.
Tình tiết định tội: là tình tiết nêu lên dấu hiệu đặc trưng, điển hình của một
loại tội phạm nhất định, phản ánh bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó,
là cơ sở, ranh giới để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Ví dụ: “Người nào
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của
nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ…”
(Điều 111.Tội hiếp dâm - BLHS năm 1999) hay ví dụ: “Người nào dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản…” (Điều 133. Tội
cướp tài sản - BLHS năm 1999)
Tình tiết định tội là cơ sở để định tội danh, nên các tình tiết này được quy
định trong cấu thành cơ bản của tội phạm đó.
Tình tiết định khung: là tình tiết phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm tăng lên hoặc giảm xuống đáng kể so với trường hợp bình thường trong phạm
vi một tội phạm cụ thể. Tình tiết định khung là cơ sở, là ranh giới để phân biệt mức
độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong phạm vi một tội phạm cụ thể.
Do vậy, tình tiết định khung là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm tăng nặng
và cấu thành tội phạm giảm nhẹ của tội phạm đó. Về tình tiết định khung có hai
loại. Đó là, tình tiết định khung tăng nặng và tình tiết định khung giảm nhẹ. Tình
tiết định khung tăng nặng là tình tiết phản ánh mức độ tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm tăng lên so với trường hợp bình thường trong phạm vi một tội phạm cụ
thể, vì vậy tình tiết định khung tăng nặng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội

19


phạm tăng nặng của tội phạm đó. Ví dụ: tình tiết “có tổ chức” là tình tiết định khung
tăng nặng của “Tội hiếp dâm” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 111 BLHS

năm 1999 hay tương tự như vậy tình tiết “có tổ chức” là tình tiết định khung tăng
nặng của “Tội cướp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 133 BLHS năm
1999.
Tình tiết định khung giảm nhẹ là tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm giảm xuống so với trường hợp bình thường trong phạm vi một tội
phạm cụ thể, vì vậy tình tiết định khung giảm nhẹ là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm giảm nhẹ của tội phạm đó. Ví dụ: “Người nào giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…” là tình tiết
định khung giảm nhẹ của tội giết người được quy định tại khoản 1 Điều 95 của
BLHS năm 1999 hay ví dụ: “người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng thì...” là tình tiết định khung giảm nhẹ của tội giết người
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại khoản 1 Điều 96 của
BLHS năm 1999.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (hoặc tình tiết giảm nhẹ): là tình tiết
phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên hoặc giảm xuống trong
phạm vi một khung hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình
sự không được quy định trong cấu thành tội phạm cụ thể mà quy định trong Phần
chung của Bộ luật hình sự, cụ thể là Điều 46 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, Điều 48 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Như đã phân tích ở trên cho thấy tình tiết định tội, tình tiết định khung, tình
tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau
trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt. Tình tiết định tội là cơ sở để
định tội danh, tình tiết định khung là cơ sở để xác định khung hình phạt cụ thể, tình
tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ là một trong những căn cứ để quyết định loại và mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi một khung hình phạt đã được xác định của một tội
phạm. Tình tiết định tội là ranh giới để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác,

20



×