Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (954.23 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HỮU VINH

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HỮU VINH

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
:
60.38.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn Thạc sĩ Luật học "Trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng" là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Đặng
Quang Phương. Các đoạn trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận văn đều
được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.

Tác giả luận văn

Trần Hữu Vinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH
SỰ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG .................................................................................. 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung .................... 7
1.2. Các yêu cầu và hậu quả pháp lý của trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ
sung ........................................................................................................................... 11
1.3. Thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung ......................................................... 29

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỂ TRẢ
HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................................. 33
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung .......... 33
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về trả hồ
sơ để điều tra bổ sung tại thành phố Đà Nẵng .......................................................... 47
CHƢƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRẢ HỒ
SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐÚNG PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM ................................................................................................ 57
3.1. Các yêu cầu bảo đảm trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng pháp luật trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm .................................................................................................. 57
3.2. Các giải pháp bảo đảm trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng pháp luật trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm ........................................................................................... 62
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

Nxb:

Nhà xuất bản


PLTTHS:

Pháp luật tố tụng hình sự

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TANDTP:

Tòa án nhân dân thành phố

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSNDTP:

Viện kiểm sát nhân dân thành phố


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1

Tên bảng
Thống kê các vụ án TAND thành phố Đà Nẵng trả cho
VKSND thành phố Đà Nẵng để điều tra bổ sung


Trang

47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn, thuộc thẩm
quyền của nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Tương ứng với mỗi giai đoạn,
mỗi cơ quan, pháp luật tố tụng hình sựquy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như của các chức danh tư pháp tương ứng.
Cùng với đó là quy định về trình tự, thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án hình sự tại các
giai đoạn tố tụng liên quan để trên cơ sở đó giải quyết đúng vụ án hình sự, đảm bảo
tính khách quan, công bằng đồng thời đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống
tội phạm, bảo vệ trật tự trị an xã hội.
Điều tra là giai đoạn tố tụng quan trọng đầu tiên trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Ở giai đoạn này Cơ quan điều tra phát hiện hoặc tiếp nhận thông tin về tội
phạm, trên cơ sở đó tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ phục vụ cho việc
chứng minh, làmsáng tỏ vụ việc, xác định có hay không có hành vi phạm tội, tội phạm
để khởi tố hay không khởi tố vụ án, bị can. Vì vậy, mọi hành vi và quyết định của Cơ
quan điều tra và Điều tra viên trong giai đoạn này rất quan trọng. Việc điều tra, thu
thập chứng cứ không đầy đủ hoặc thực hiện các hoạt động điều tra không đúng trình tự
thủ tục tố tụng sẽ ảnh hưởng đến các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tố tụng của cơ quan điều
tra, ra các quyết định phù hợp với kết quả kiểm sát việc khởi tố, kết luận điều tra của
cơ quan điều tra; truy tố người phạm tội ra trước Tòa án và thực hiện quyền công tố tại
phiên tòa.Chính vì chức năng kiểm sát hoạt động tố tụng nên Viện kiểm sát có vai trò
quan trọng, đặc biệt là trong quá trình xem xét hồ sơ vụ án, hoàn thiện hồ sơ để tiến
hành chức năng công tố tại phiên tòa.
Xét xử là giai đoạn sau cùng và có thể nói là giai đoạn quan trọng nhất trong

việc giải quyết vụ án hình sự. Ở giai đoạn này, Tòa án tiến hành thẩm tra lại toàn bộ
nội dung đã được Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đề cập, kết luận, truy tố và qua đó
tuyên bố người bị truy tố có phạm tội hay không phạm tội và áp dụng các chế tài hình
sự tương ứng.
1


Tuy nhiên, trên thực tế, không phải vụ án nào Cơ quan điều tra khởi tố, ra bản
kết luận điều tra thì Viện kiểm sát đều ra quyết định truy tố và Tòa án đều đưa ra xét
xử được, mà có nhiều vụ án cần phải điều tra bổ sung theo các căn cứ Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định như: Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện
kiểm sát, Tòa án không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một
tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng.
Khi nghiên cứu toàn diện chế định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, học viên
thấy còn có những bất cập trong pháp luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp qua đó thể hiện rõ hơn chức năng tố tụng của từng cơ quan, phát huy hiệu
quả công việc của từng cơ quan tiến hành tố tụng cũng như đặt các cơ quan tiến hành
tố tụng trong một mối quan hệ hợp lý hơn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
mình. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình giải quyết vu án hình sự. Việc xác định
rõ chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cần được quan tâm, nghiên cứu một cách
chuyên sâu, đầy đủ, toàn diện và có hệ thống.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số
49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 thì Tòa án là trung tâm, công tác xét xử là trọng tâm và phán quyết của Tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, để ra được bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục, trong quá trình chuẩn bị xét xử cần có
sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Trước khi xét xử và tại
phiên tòa, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung [1].

Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định tại Điều 168 và Điều 179
Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng trong thực tiễn xét xử vẫn còn vướng mắc, bất cập cần
được giải thích hướng dẫn thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp.
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nhằm mục đích đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận
- thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây là lý do,
2


học viên chọn đề tài "Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng"
để làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung chỉ đặt ra khi phát sinh những điều kiện buộc phải
trả hồ sơ điều tra bổ sung thì mới khắc phục được vi phạm về tố tụng hoặc mới đảm
bảo giải quyết toàn diện vụ án. Có thể nói việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế
định hết sức quan trọng giúp giải quyết đúng đắn đối với từng vụ án hình sự, đây cũng
là nội dung thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân
dân và Tòa án nhân dân được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu đầy đủ các quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung sẽ giúp
cho việc giải quyết vụ án hình sự hiệu quả hơn đồng thời giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Trong đó, đáng chú ý là các công trình sau đây: GS.TSKH. Lê Cảm – TS. Nguyễn
Ngọc Chí (Đồng chủ biên), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng
nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; Đề tài khoa học cấp Đại
học quốc gia: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, do GS.TSKH Lê Cảm, TS.
Nguyễn Ngọc Chí và ThS. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì, 2005; GS.TS Võ Khánh

Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân,
2004; PGS.TS Trần Văn Độ, Hoàn thiện quy định của pháp luật về giới hạn xét xử,
Tạp chí Toà án nhân dân, số 3/2000; PGS.TS Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hoàn
thiện thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2001;
PGS.TS Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư
pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 02/2004; PGS.TS Trần Văn Độ, Một số
vấn đề về quyền công tố, Tạp chí Luật học, số 3/2001; ThS. Nguyễn Phúc Lưu, Bàn về
việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung, Tạp chí Kiểm sát, số 11/2006; Mai
Văn Lư, Bàn về quy định: “Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung” trong điều kiện cải
cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 11/2010…
3


Trong các công trình trên, ở mức độ này hay mức độ khác vấn đề trả hồ sơ để
điều tra bổ sung đã được đề cập đến, nhất là các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thậm chí có người đặt vấn đề xem xét tính hợp lý,
cần thiết của chế định này trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện và có hệ thống về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; nhiều nội dung liên
quan chưa có được cách nhìn và hướng giải quyết thống nhất; các công trình chưa giải
đáp triệt để được những vướng mắc trong thực tế giải quyết các vụ án hình sự liên
quan đến nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
nhìn nhận thực tiễn áp dụng các quy định này tại địa phương, tập trung xâu chuỗi
những vướng mắc, bất cập để qua đó có những đề xuất, kiến nghị, đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong hoạt động tố tụng
hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ mục đích, cách thức nghiên cứu đề tài, học viên đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung và mối quan hệ
giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng;
Phân tích các quy định của pháp luật về trả hồ sơ điều tra bổ sung, các yêu cầu
và hậu quả pháp lý của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung tại thành phố
Đà Nẵng, nhìn nhận những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLTTHS và giải pháp nâng
cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về trả
hồ sơ để điều tra bổ sung, quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung và
thực tiễn thi hành tại thành phố Đà Nẵng, những nét nổi bật, hiệu quả cũng như những
bất cập, hạn chế của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của Bộ luật
tố tụng hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong PLTTHS qua
một số thời điểm. Và chế định trả hồ sơ để điều tra theo quy định hiện hành trong mối
quan hệ tương tác giữa BLTTHS, các văn bản hướng dẫn thi hành với các đạo luật có
liên quan như Luật tổ chức Tòa án, Luật tổ chức Viện kiểm sát…
Ngoài vấn đề lý luận, quy định chung về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Luận văn
còn đi vào phân tích thực tiễn trả hồ sơ để điều tra tại thành phố Đà Nẵng, phân tích
tính hiệu quả của việc thực thi quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung bên cạnh đó

cũng đi vào phân tích những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện quy định này trên
thực tiễn tại địa phương.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện, lập luận theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối, quan điểm của Đảng ta hiện
nay về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về đấu
tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu đa chiều, nhìn nhận từ lý luận
chuyển sang thực tiễn và vấn đề thực tiễn trong mối tương quan với vấn đề lý luận.
Dựa trên phương pháp chủ đạo này, Luận văn sẽ sử dụng các phương pháp so sánh,
phân tích, thống kê, tổng hợp và đánh giá. Lồng ghép số liệu thống kê, thực tiễn các
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại Tòa án, chất lượng trả hồ sơ, những hạn
chế, bất cập để qua đó có những nhận định khoa học về lý luận đồng thời đưa ra các
5


giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong hoạt
động tố tụng hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua việc thực hiện luận văn, nhìn nhận các quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trên phương diện lý luận và thực tiễn tại địa phương, luận văn có ý nghĩa như
sau:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu và hệ thống hóa các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, những vấn đề lý luận, những điểm pháp luật chưa điều chỉnh dẫn đến
bất cập trên thực tế….Qua đó tạo góc nhìn, cách tiếp cận vấn đề lý luận có liên quan
để người đọc hình dung rõ về nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự tại thành phố Đà Nẵng, rút ra những hạn chế, thiếu sót, những cách hiểu chưa
thống nhất, Luận văn cũng có những kiến nghị, đưa ra giải pháp để hoàn thiện chế
định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trả hổ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi hành tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
đúng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung
1.1.1. Khái niệm trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định pháp lý được quy định tại Điều 168 và
Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án hình sự. Đây là quyền hạn của các cơ quan
tiến hành tố tụng được thực hiện khi có căn cứ pháp luật nhằm đảm bảo cho việc điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Cũng theo quy định tại Bộ
luật tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì Viện kiểm sát là cơ quan
kiểm sát điều tra, thực hiện quyền truy tố và thực hiện quyền công tố Nhà nước tại

phiên tòa. Do đó Khi vụ án được khởi tố thì Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát từ đầu.
Các quyết định tố tụng liên quan như Khởi tố vụ án, Khởi tố bị can, Lệnh bắt, Lệnh
tạm giam đều phải được Viện kiểm sát phê chuẩn thì mới có giá trị thi hành. Do giữ
vai trò kiểm sát, tham gia từ đầu trong hoạt động tố tụng nên những nội dung chưa
được điều tra làm rõ hoặc các vi phạm về thủ tục tố tụng đều đã được Viện kiểm sát đề
nghị Cơ quan điều tra thực hiện trong giai đoạn kiểm sát Điều tra. Chính điều này nên
trên thực tế rất ít trường hợp Viện kiểm sát chủ động trả hồ sơ để điều tra bổ sung, mà
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung phổ biết nhất là khi hồ sơ đã chuyển sang Tòa án.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì sau khi kết thúc giai đoạn điều
tra, Cơ quan Điều tra ra Kết luận điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để
thực hiện quyền truy tố. Trên cơ sở Kết luận điều tra cũng như qua kết quả hoạt động
kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát ra Cáo trạng để truy tố bị can và chuyển hồ sơ cho
Tòa án để thụ lý, xét xử. Ở giai đoạn này, tương ứng với từng loại tội phạm và mức độ
phức tạp, Bộ luật tố tụng hình sự ấn định cho Tòa án thời gian để nghiên cứu hay còn
gọi là thời hạn chuẩn bị xét xử mà hết thời hạn đó thì Tòa án phải ra một trong các
quyết định: Đưa vụ án ra xét xử;Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình
7


chỉ vụ án [6].
Như vậy, quá trình chuẩn bị xét xử, nếu thấy vụ án đảm bảo về mặt chứng cứ
cũng như thủ tục tố tụng thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu thấy có căn
cứ đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án thì Tòa án ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án.
Ngoài ra, Tòa án còn có quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu
xét thấy vụ án thuộc một trong các trường hợp: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ
quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; Khi có căn cứ để
cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; Khi phát hiện có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Việc ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bồ sung có thể
do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ban hành nếu trong quá trình nghiên

cứu mà xét thấy phát sinh các căn cứ cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc
cũng có thể do Hội đồng xét xử ban hành nếu tại phiên tòa mới phát sinh các căn cứ
này.
Đối với trường hợp Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì
trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thẩm phán cần nêu rõ thuộc trường hợp
cụ thể nào quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS và những
vấn đề cụ thể cần điều tra bổ sung.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng có quyền ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung nếu phát sinh các căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều
179 của BLTTHS. Quyết định yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn này cần tuân
thủ quy định tại Điều 199 BLTTHS, quyết định đó phải được thảo luận và thông qua
tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản thể hiện ý chí của các thành viên Hội
đồng xét xử.
Xét về mặt hình thức, thủ tục, trình tự ban hành thì Quyết định trả hồ sơ trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử và Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa có
một số điểm khác nhau như sau:
Về thời điểm: Thời điểm Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là trong khi nghiên cứu hồ sơ và trước khi có
Quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Thời điểm Hội
8


đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung là tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
việc ra quyết định này trên cơ sở thảo luận, biểu quyết của Hội đồng xét xử tại phòng
nghị án.
Về thẩm quyền quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trước khi xét xử sơ thẩm, thuộc thẩm quyền Thẩm phán được phân
công nghiên cứu hồ sơ vụ án. Quyết định yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa thuộc
thẩm quyền Hội đồng xét xử.
Về điều luật áp dụng: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong khi nghiên

cứu hồ sơ trước ngày mở phiên tòa căn cứ vào Điều 176 và một trong số các căn cứ tại
Điều 179 của BLTTHS.Quyết định yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa áp dụng
Điều 199 và một trong số các căn cứ của Điều 179 BLTTHS.
Về hậu quả pháp lý: Hậu quả pháp lý của trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
giai đoạn trước khi xét xử sơ thẩm là xóa sổ thụ lý vụ án. Hậu quả pháp lý của trả hồ
sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa là hoãn phiên tòa. Phiên tòa sẽ được tiến hành khi
có kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.
Tuy có một số điểm khác nhau như đã phân tích nhưng mục đích cuối cùng của
việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là để đảm bảo vụ án được giải quyết đúng đắn,
khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội và đảm bảo
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng các quy định của
BLTTHS.
Từ các quy định trên, có thể đi đến khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung là
chế định của luật tố tụng hình sự quy định Viện kiểm sát hoặc Tòa án chuyển trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát hoặc cơ quan điều tra để điều tra thêm về vụ án hình sựnhằm mục
đích làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án hình sự, để Tòa án xét xử vụ án một cách công
minh, chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Ý nghĩa của trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định pháp lý quan trọng trong tố
tụng hình sự việc quy định và thực thi chế định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung mang
một số ý nghĩa như sau:
9


Thứ nhất, về ý nghĩa chính trị xã hội, đây là một chế định quan trọng quy định
về quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
Bằng việc đặt ra các tiêu chuẩn đối với việc giải quyết một vụ án hình sự là đảm bảo
tính khách quan, công tâm trên tinh thần không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội. Bên cạnh đó là việc cần phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục để thực

hiện các quyền, nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụngtrong mối quan hệ tố tụng hình sự. Chế định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung là một thiết chế pháp lý cần thiết để qua đó nâng cao vai trò, trách nhiệm
của các cơ quan tư pháp, đảm bảo sự kiểm soát hoạt động giữa các cơ quan trong hệ
thống tư pháp. Tránh việc tùy tiện trong việc thực thi các bước của pháp luật tố tụng,
tránh né, điều tra không khách quan, không toàn diện ảnh hưởng đến quyền lợi của
những người tham gia tố tụng.
Xét về thẩm quyền, việc ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung chủ yếu
thuộc về Tòa án. Ở góc độ pháp lý, có thể thấy đây là quyền lực mang tính chất kiểm
soát, chi phối của Tòa án đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp là bảo đảm để Toà án là trung
tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Hiến pháp năm 2013 cũng quy định “Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Như vậy, thiết chế trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong bộ luật tố tụng
hình sự, đã góp phần thúc đẩy, nêu cao vai trò của nền tư pháp với trọng tâm là Tòa án
nhân dân. Qua đó đảm bảo tính đúng đắn, chuẩn mực của các hoạt động điều tra, tuy
tố, xét xử, góp phần giữ vững uy tín của các cơ quan tư pháp [11].
Thứ hai, ý nghĩa về kinh tế, việc điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự là cả
một quá trình phức tạp đòi hỏi sự vào cuộc của cả ba cơ quan tiến hành tố tụng – Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng với nhiều chức danh tư
pháp, người tiến hành tố tụng. Xét về góc độ kinh tế đây cũng là một việc làm khá tốn
kém về thời gian cũng như tiền bạc. Thực chất, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là
nhằm sửa chữa,khắc phục những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động tố tụng của cơ
quan điều tra. Việc đặc ra thiết chế này cũng là một cách để giải quyết vụ án nhanh
10


chóng và đảm bảo hiệu quả, hạn chế tối đa về mặt thời gian và sự tốn kém cho Ngân
sách Nhà nước [7].

Thứ ba, ý nghĩa bảo vệ quyền con người, trên thực tế không phải lúc nào Cơ
quan điều tra cũng khởi tố, điều tra đúng, đầy đủ các vấn đề của vụ án mà vẫn luôn có
những thiếu sót, thậm chí có những trường hợp khởi tố khi chưa có cơ sở vững chắc
hoặc bỏ lọt tội phạm, lọt hành vi. Do đó việc đặt ra quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung cũng là một cách để đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử không làm oan người
vô tội, không bỏ lọt tội phạm đảm bảo tối đa quyền con người theo tinh thần Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.2. Các yêu cầu và hậu quả pháp lý của trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra
bổ sung
1.2.1. Các yêu cầu của trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định hết sức quan trọng của PLTTHS.
Do đó, ngoài những nội dung mang tính chất căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền thực
hiện, hậu quả pháp lý… thì chế định này còn đặt ra một số yêu cầu mang tính chất
khoa học mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải nghiên cứu trong quá trình thực
hiện nhằm nâng cao chất lượng của các lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung đó là:
Thứ nhất, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải đảm bảo các nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng hình sự.
Là một quy trình tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, do đó
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng hình sự, đặc biệt là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo mọi hoạt
động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng trong đó có việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải được tiến hành
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tránh việc tùy tiện, chủ quan trong hoạt
động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Dù rằng việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với vụ án phải được tiến hành kịp thời, đảm bảo tính
đấu tranh, trấn áp tội phạm nhưng về mặt nguyên tăc, hoạt đông này phải đúng căn cứ,
trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đây là nguyên tắc cốt lõi để đảm bảo tính
đúng đắn, áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
11



tung, người tiến hành tố tụng
Ngoài ra, hoạt động tiến hành tố tụng phải dựa trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân, quyền con người. Áp dụng triệt để nguyên tắc suy
đoán vô tội, không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Khi xét thấy chứng cứ chưa đủ để kết tội nhưng có dấu hiệu của tội
phạm, Tòa án cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, làm rõ có hay không có việc
phạm tội, hành vi phạm tội, không tùy tiện trong việc đánh giá chứng cứ để tuyên bố
về một tội phạm, một hành vi phạm tội. Yêu cầu đặt ra đối với công tác kiểm sát, xét
xử là phải đánh giá chứng cứ, đánh giá hành vi dựa trên quy định của pháp luật, không
để làm oan người vô tội và đây cũng là một yêu cầu cần thiết đặt ra đối với việc trả hồ
sơ để điều tra bổ sung.
Bên cạnh đó, các hoạt độngtố tụng, trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải dựa trên
tinh thần vô tư của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác như
người phiên dịch, người giám định. Tránh tình trạng áp đặt, suy diễn chủ quan, trả hồ
sơ vì những mục đích, động cơ cá nhân, thiếu căn cứ pháp luật, đùn đẩy trách nhiệm
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Và các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định
được mục đích, yêu cầu cuối cùng của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là nhằm xác
định sự thật khách quan của vụ án. Không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
vì một nền tư pháp minh bạch trên tinh thần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
[8].
Vì vậy, có thể nói việc đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS trong việc
trả hổ sơ để điều tra bổ sung là một yêu cầu đầu tiên và mang tính cốt lõi của chế định
này.
Thứ hai, phải bảo đảm về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Xét về mặt bản chất thì quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một thiết
chế trong tố tụng hình sự, thiết chế này cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng là Viện
kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân được quyền trả hồ sơ cho Cơ quan Điều tra để
điều tra, bổ sung những nội dung cần thiết hoặc để hoàn chỉnh các bước của thủ tục tố

tụng khi có những căn cứ do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Thông qua các quy định
12


về trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng cho thấy rõ được vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Việc
trả hồ sơ để điều tra bổ luôn gắn với quy định về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc xử lý tình huống
tố tụng dựa trên những căn cứ của BLTTHS.
Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát được quy định cụ thể tại Điều 23
BLTTHS:
1. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc
truy tố người phạm tội ra trước Toà án.
2. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có
trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ
luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân
này.
3. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp
thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Như vậy,Viện kiểm sát là cơ quan Công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp mà cụ
thể là hoạt động điều tra của Cơ quan Điều tra và hoạt động xét xử của Tòa án. Trong
việc giải quyết vụ án hình sự, chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát thể hiện ở việc
kiểm sát các hoạt động của cơ quan Điều tra ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiểm sát các hoạt động điểu tra, quyết định phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn các Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh bắt của cơ quan
Điều tra, yêu cầu cơ quan Điều tra tiến hành điều tra (khi vụ án đang ở giai đoạn điều
tra), trả hồ sơ cho Cơ quan Điều tra yêu cầu điều tra bổ sung các nội dung cần thiết của

vụ án (khi vụ án đã chuyển cho Viện kiểm sát); kiến nghị về các hành vi, quyết định
của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa và kháng nghị bản án, quyết
định của Tòa án theo trình tự Bộ BLTTHS quy định [9].
Chức năng của Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Trong phạm
13


vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án có trách nhiệm xem xét một cách
khách quan, toàn diện tất cả các chứng cứ, tài liệu của vụ án do Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố. Tương ứng với nhiệm vụ
được giao, Tòa án có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ
khác để mình xem xét, đề nghị cơ quan chức nănggiải thích về các kết luận chuyên
môn của các cơ quan giám định trong hoạt động tố tụng. Ngoài ra, Tòa án có quyền trả
hồ sơ cho Cơ quan Điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung về những chứng cứ quan trọng
của vụ án…
Mặc dù xét về chức năng, quyền hạn cụ thể trong mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng thì giữa Viện kiểm sát và Tòa án có những chức năng, quyền hạn
không giống nhau. Nhưng xét về mối quan hệ tổng thể trong hệ thống các cơ quan tư
pháp thì Viện kiểm sát, Tòa án đều có nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xuất phát từ nhiệm vụ
trọng tâm của hai cơ quan, Bộ luật tố tụng quy định về thời hạn truy tố, xét xử như
sau:
Về thời hạn quyết định truy tố, Điều 166 BLTTHS quy định:
“Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm
nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm
sát phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Căn cứ để Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung, Điều 168 BLTTHS quy
định:
Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung
khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy:
1. Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không
thể tự mình bổ sung được;
14


2. Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm
khác;
3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần được điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu
cầu điều tra bổ sung.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử, Điều 176 BLTTHS quy định:
Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm
ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba
tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Căn cứ để Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự
quy định:
1. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung
trong những trường hợp sau đây:
a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không
thể bổ sung tại phiên tòa được;
b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm

khác;
c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu
điều tra bổ sung.
Như vậy, để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được quy định tại Hiến
pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân… Bộ luật
Tố tụng hình sự quy định cả Viện kiểm sát và Tòa án đều có quyền trả hồ sơ để điều
tra bổ sung khi có các căn cứ quy định tại các điều luật tương ứng. Tuy nhiên, chức
năng của Viện kiểm sát là Cơ quan truy tố, Tòa án là cơ quan xét xử dựa trên nguyên
tắc tranh tụng giữa một bên là Viện kiểm sát thực hiện chức năng truy tố, buộc tội,
15


chứng minh tội phạm, một bên là bị cáo, người bào chữa “gỡ tội” cho bị can, bị cáo.
Do đó yêu cầu về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của từng cơ quan tiến hành tố tụng
cũng phải tương xứng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định đối
với từng cơ quan.
Yêu cầu về trả hồ sơ phải bảo đảm về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi
một cơ quan tiến hành tố tụng là một yêu cầu quan trọng đối với chế định này. Bởi trên
thực tế có nhiều vụ án xuất phát từ việc khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát đã mắc nhiều sai lầm dẫn đến việc điều tra, truy tố không đúng. Có
nhiều vi phạm về mặt thủ tục cũng như mâu thuẫn về mặt nội dung, khi Tòa án trả hồ
sơ để điều tra bổ sung thì không thể bổ sung được. Trường hợp này dễ dẫn đến đùn
đẩy về mặt trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, yêu cầu đảm
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi một cơ quan tiến hành tố tụng là một yêu
cầu không thể thiếu trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Thứ ba, phải bảo đảm có căn cứ của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Căn cứ của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung là những căn cứ pháp lý
mà khi phát sinh căn cứ này thì cơ quan cơ quan có thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra
bổ sung (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ

sung.
Căn cứ để Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung là các căn cứ quy định tại
Điều 168 BLTTHS, gồm:
1. Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không
thể tự mình bổ sung được;
2. Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm
khác;
3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần được điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu
cầu điều tra bổ sung.
Căn cứ để Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bồ sung là các căn cứ quy
định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS, gồm:
1) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không
16


thể bổ sung tại phiên tòa được;
2) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm
khác;
3) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Nhiều ý kiến cho rằng việc BLTTHS quy định những căn cứ để trả hồ sơ điều
tra bổ sung bằng phương pháp liệt kê như trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng khi giải quyết vụ án hình sự có liên quan đến vấn đề
trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các khái niệm “chứng cứ
quan trọng đối với vụ án”, “căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có
đồng phạm khác” và “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” vẫn còn nhiều cách hiểu
khác nhau dẫn đến nhiều trường hợp việc trả hồ sơ thiếu căn cứ, không đáp ứng được
yêu cầu. Để khắc phục tình trạng trả hồ sơ không có căn cứ, lạm dụng việc trả hồ sơ
điều tra bổ sung để né tránh giải quyết vụ án, ngày 27/8/2010 Viện kiểm sát nhân dân
Tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân Tối cao đã có Thông tư liên tịch số

01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC quy định cụ thể về những khái niệm này
như sau:
Về khái niệm “Chứng cứ quan trọng đối với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều
168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của
BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của
BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật.Thiếu chứng cứ sau đây là trường hợp thiếu chứng cứ quan
trọng đối với vụ án:
- Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ
để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội
(phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi
phạm hành chính...);
- Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào
thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm
17


như thế nào;
- Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng
cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
- Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì
thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô
ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật
hình sự;
- Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không” là
chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; có mắc bệnh

tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai
đoạn tố tụng nào;
- Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định
người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường hợp mục
đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là yếu tố (tình
tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình phạt;
- Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; có tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự hoặc là chứng
cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;
- Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là
chứng cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo;
- Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của hành
vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;
- Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63
của BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như:
18


Chứng cứ để xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc
xác định chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai
trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức [10]
Về khái niệm “Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người
đồng phạm khác” là các trường hợp:
- Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án
cho thấy hành vi của bị can đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
- Ngoài tội phạm đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy

còn có căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội khác;
- Ngoài bị can đã bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy
còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án
nhưng chưa được khởi tố bị can.
Về khái niệm “Có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng
phạm khác” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 của BLTTHS là các trường hợp:
- Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án
cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
- Ngoài tội phạm đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn
cứ để khởi tố bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội khác;
- Ngoài bị can (bị cáo) đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn
có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng
chưa được khởi tố bị can.
Về khái niệm “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” quy định tại khoản 3
Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS là trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
Thông tư cũng quy định những trường hợp không được trả hồ sơ đó là:
- Không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhưng nếu thiếu cũng truy tố, xét
xử được hoặc không thể thu thập được.
19


×