Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.46 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai
đoạn, thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác
nhau. Tương ứng với mỗi giai đoạn, mỗi cơ quan, pháp luật tố tụng
hình sựquy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như của các chức danh tư pháp tương ứng.
Cùng với đó là quy định về trình tự, thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án
hình sự tại các giai đoạn tố tụng liên quan để trên cơ sở đó giải quyết
đúng vụ án hình sự, đảm bảo tính khách quan, công bằng đồng thời
đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ trật
tự trị an xã hội.
Điều tra là giai đoạn tố tụng quan trọng đầu tiên trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Ở giai đoạn này Cơ quan điều tra phát hiện
hoặc tiếp nhận thông tin về tội phạm, trên cơ sở đó tiến hành các hoạt
động thu thập chứng cứ phục vụ cho việc chứng minh, làmsáng tỏ vụ
việc, xác định có hay không có hành vi phạm tội, tội phạm để khởi tố
hay không khởi tố vụ án, bị can. Vì vậy, mọi hành vi và quyết định của
Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong giai đoạn này rất quan trọng.
Việc điều tra, thu thập chứng cứ không đầy đủ hoặc thực hiện các hoạt
động điều tra không đúng trình tự thủ tục tố tụng sẽ ảnh hưởng đến các
giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tố tụng
của cơ quan điều tra, ra các quyết định phù hợp với kết quả kiểm sát
việc khởi tố, kết luận điều tra của cơ quan điều tra; truy tố người phạm
tội ra trước Tòa án và thực hiện quyền công tố tại phiên tòa. Chính vì
chức năng kiểm sát hoạt động tố tụng nên Viện kiểm sát có vai trò
quan trọng, đặc biệt là trong quá trình xem xét hồ sơ vụ án, hoàn thiện
hồ sơ để tiến hành chức năng công tố tại phiên tòa.
1



Xét xử là giai đoạn sau cùng và có thể nói là giai đoạn quan
trọng nhất trong việc giải quyết vụ án hình sự. Ở giai đoạn này, Tòa án
tiến hành thẩm tra lại toàn bộ nội dung đã được Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát đề cập, kết luận, truy tố và qua đó tuyên bố người bị
truy tố có phạm tội hay không phạm tội và áp dụng các chế tài hình sự
tương ứng.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải vụ án nào Cơ quan điều tra
khởi tố, ra bản kết luận điều tra thì Viện kiểm sát đều ra quyết định
truy tố và Tòa án đều đưa ra xét xử được, mà có nhiều vụ án cần phải
điều tra bổ sung theo các căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự quy định như:
Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát,
Tòa án không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can
về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
và Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì Tòa án là trung tâm,
công tác xét xử là trọng tâm và phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, để ra được bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục, trong quá trình chuẩn
bị xét xử cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng. Trước khi xét xử và tại phiên tòa, Tòa án có quyền trả hồ sơ để
điều tra bổ sung.
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định tại Điều
168 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng trong thực tiễn xét xử
vẫn còn vướng mắc, bất cập cần được giải thích hướng dẫn thi hành
hoặc sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp.
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về Chế định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung nhằm mục đích đưa ra những kiến nghị nhằm

2


nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp
lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây là lý do, học
viên chọn đề tài "Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng" để làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu
về vấn đề này. Trong các công trình, ở mức độ này hay mức độ khác
vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã được đề cập đến, nhất là các
căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, thậm chí có người đặt vấn đề xem xét tính hợp lý, cần thiết của
chế định này trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về chế định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung; nhiều nội dung liên quan chưa có được cách nhìn và hướng
giải quyết thống nhất; các công trình chưa giải đáp triệt để được những
vướng mắc trong thực tế giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến nội
dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích các quy định
của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhìn nhận thực tiễn áp
dụng các quy định này tại địa phương, tập trung xâu chuỗi những
vướng mắc, bất cập để qua đó có những đề xuất, kiến nghị, đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Xuất phát từ mục đích, cách thức

nghiên cứu đề tài, học viên đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ
yếu sau:
3


Nghiên cứu các vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
và mối quan hệ giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng;
Phân tích các quy định của pháp luật về trả hồ sơ điều tra bổ sung,
các yêu cầu và hậu quả pháp lý của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung tại thành phố Đà Nẵng, nhìn nhận những vướng mắc, bất cập
trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra
bổ sung;
Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLTTHS và
giải pháp nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn
là những vấn đề lý luận và thực tiễn về trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung và thực tiễn thi
hành tại thành phố Đà Nẵng, những nét nổi bật, hiệu quả cũng như
những bất cập, hạn chế của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo
quy định của Bộ luật tố tụng hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung
trong PLTTHS qua một số thời điểm. Và chế định trả hồ sơ để điều tra
theo quy định hiện hành trong mối quan hệ tương tác giữa BLTTHS,
các văn bản hướng dẫn thi hành với các đạo luật có liên quan như Luật
tổ chức Tòa án, Luật tổ chức Viện kiểm sát…
Ngoài vấn đề lý luận, quy định chung về trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, Luận văn còn đi vào phân tích thực tiễn trả hồ sơ để điều tra

tại thành phố Đà Nẵng, phân tích tính hiệu quả của việc thực thi quy
định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung bên cạnh đó cũng đi vào phân
tích những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện quy định này trên
thực tiễn tại địa phương.
4


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện, lập luận theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật; đường lối, quan điểm của Đảng ta hiện nay về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về đấu
tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp
nghiên cứu đa chiều, nhìn nhận từ lý luận chuyển sang thực tiễn và
vấn đề thực tiễn trong mối tương quan với vấn đề lý luận. Dựa trên
phương pháp chủ đạo này, Luận văn sẽ sử dụng các phương pháp so
sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp và đánh giá. Lồng ghép số liệu
thống kê, thực tiễn các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại Tòa
án, chất lượng trả hồ sơ, những hạn chế, bất cập để qua đó có những
nhận định khoa học về lý luận đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong hoạt
động tố tụng hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu và hệ thống hóa các
quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, những vấn đề
lý luận, những điểm pháp luật chưa điều chỉnh dẫn đến bất cập trên
thực tế….Qua đó tạo góc nhìn, cách tiếp cận vấn đề lý luận có liên
quan để người đọc hình dung rõ về nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ
sung theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình
thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tại thành phố Đà Nẵng,
rút ra những hạn chế, thiếu sót, những cách hiểu chưa thống nhất,
Luận văn cũng có những kiến nghị, đưa ra giải pháp để hoàn thiện chế
định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng.

5


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trả hổ sơ vụ án hình sự để
điều tra bổ sung
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi
hành tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm trả hồ sơ để
điều tra bổ sung đúng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của trả hồ sơ vụ án hình sự để điều
tra bổ sung
1.1.1. Khái niệm trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định pháp lý được quy
định tại Điều 168 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự cho phép các
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình điều tra, giải quyết
vụ án hình sự.
Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định của luật tố tụng

hình sự quy định Viện kiểm sát hoặc Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện
kiểm sát hoặc cơ quan điều tra để điều tra thêm về vụ án hình sựnhằm mục
đích làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án hình sự, để Tòa án xét xử vụ án một
cách công minh, chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Ý nghĩa của trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
Thứ nhất, về ý nghĩa chính trị xã hội, đây là một chế định
6


quan trọng quy định về quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
Thứ hai, ý nghĩa về kinh tế, việc điều tra, truy tố, xét xử một
vụ án hình sự là cả một quá trình phức tạp đòi hỏi sự vào cuộc của cả
ba cơ quan tiến hành tố tụng – Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân
dân, Tòa án nhân dân cùng với nhiều chức danh tư pháp, người tiến
hành tố tụng. Thực chất, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung là nhằm sửa
chữa, khắc phục những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động tố tụng của
cơ quan điều tra. Việc đặc ra thiết chế này cũng là một cách để giải
quyết vụ án nhanh chóng và đảm bảo hiệu quả, hạn chế tối đa về mặt
thời gian và sự tốn kém cho Ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, việc đặt ra quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
cũng là một cách để đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm đảm bảo tối đa quyền con
người theo tinh thần Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.2. Các yêu cầu và hậu quả pháp lý của trả hồ sơ vụ án
hình sự để điều tra bổ sung
1.2.1. Các yêu cầu của trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ
sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định hết sức quan trọng

của PLTTHS. Do đó, ngoài những nội dung mang tính chất căn cứ, trình
tự, thủ tục, thẩm quyền thực hiện, hậu quả pháp lý… thì chế định này
còn đặt ra một số yêu cầu mang tính chất khoa học mà các cơ quan tiến
hành tố tụng cần phải nghiên cứu trong quá trình thực hiện nhằm nâng
cao chất lượng của các lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung đó là:
Thứ nhất, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải đảm bảo các
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự.
Thứ hai, phải bảo đảm về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mỗi cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
7


Thứ ba, phải bảo đảm có căn cứ của pháp luật về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung.
Thứ tư, phải bảo đảm đầy đủ, toàn diện, rõ ràng những vấn đề
cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Thứ năm, phải bảo đảm mối quan hệ tố tụng giữa Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết vụ án hình sự.
Thứ sáu, phải bảo đảm được mục đích của việc truy cứu trách
nhiệm hình sự, bảo đảm công bằng, công minh, đúng pháp luật.
1.2.2. Hậu quả pháp lý của trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một thủ tục pháp lý không
mang tính bắt buộc sự kiện pháp lý trả hồ sơ chỉ đặt ra khi quá trình
nghiên cứu, giải quyết vụ án phát sinh các yêu cầu do bộ luật tố tụng
hình sự quy định, buộc phải trả hồ sơ mới đảm bảo giải quyết vụ án
đúng đắn, xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội. Tuy nhiên trên thực tế, trình độ nhận thức, quan
điểm pháp lý của từng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng có những nhìn nhận không giống nhau về vấn đề trả hồ sơ để điều
tra bổ sung. Do đó, sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì có khả

năng phát sinh các hậu quả pháp lý sau:
Trường hợp thứ nhất,vụ án vẫn được đưa ra xét xử mà không
có sự thay đổi về quan điểm truy tố, không bố sung chứng cứ gì mới.
Trường hợp này mặc dù Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng
Viện kiểm sát không chấp nhận hoặc tiếp nhận yêu cầu điều trả bổ
sung nhưng không thể bổ sung được chứng cứ gì mới. Do đó Viện
kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như ban đầu.
Trường hợp thứ hai, vụ án sau đó được đưa ra xét xử, Viện
kiểm sát thay đổi Cáo trạng, thay đổi quan điểm, tội danh đã truy tố,
có thể rút truy tố đối với một, một số bị can, truy tố thêm một, một số
bị can…. Trường hợp này việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa
8


án được Viện kiểm sát chấp nhận, tiến hành điều tra thêm. Qua việc
điều tra bổ sung, thấy có căn cứ làm thay đổi bản chất vụ án nên Viện
kiểm sát điều chỉnh lại quan điểm truy tố của mình.
Trường hợp thứ ba, Viện kiểm sát, Cơ quan Điều tra ra quyết
định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can. Đây cũng là trường hợp Viện
kiểm sát chấp nhận yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án.
Qua quá trình điều tra bổ sung, thấy không có dấu hiệu tội phạm,
không có tội phạm nên đình chỉ vụ án, khép lại toàn bộ vụ án.
1.3. Thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung được BLTTHS quy
định thuộc về hai cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án nhân dân và
VKSND. Trong đó, giai đoạn truy tố, Quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung là do Viện kiểm sát ban hành và được ký với chức danh Viện
trưởng Viện kiểm sát. Trong gia đoạn xét xử thẩm quyền ban hành
Quyết định thuộc về hai chủ thể là Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án nếu vụ án đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và Hội

đồng xét xử nếu vụ án đã được đưa ra xét xử sơ thẩm. Nhưng cho dù ở
giai đoạn nào, chủ thể nào ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì
các căn cứ để trả hồ sơ đều dựa vào quy định tại Điều 179 BLTTHS.
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỂ TRẢ HỒ
SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung
2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự từ năm 1945
đến năm 1988 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta đứng trước rất
9


nhiều khó khăn, thách thức, thù trong, giặc ngoài. Để xây dựng một
chính quyền dân chủ của nhân dân, cùng với việc tổ chức các cơ quan
Nhà nước khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh để bảo vệ
quyền tự do, dân chủ của nhân dân như Sắc lệnh số 33C/SL ngày
13/9/1945 thành lập các Tòa án quân sự ở ba miền Bắc, Trung, Nam
để xét xử tất cả các những người nào phạm vào tội xâm phạm đến nền
độc lập của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Đây là lần đầu tiên cơ
quan Công tố được xác định bằng một văn bản pháp luật của Nhà
nước. Sắc lệnh còn quy định trách nhiệm của Tòa án phải giải thích
cho người bị kết án tử hình đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Ngày
26/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số: 37 quy định
thẩm quyền theo lãnh thổ các Tòa án quân sự, Sắc lệnh số: 13/SL ngày
24/01/1946 về việc tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán (trong đó
có Thẩm phán buộc tội), đồng thời quy định ông Biện lý (công tố), bị
can và nguyên đơn có quyền chống án lên Tòa thượng thẩm. Trước

yêu cầu của cách mạng và nhu cầu dân quyền, Hiến pháp năm 1946 đã
được Quốc hội thông qua ngày 09/11/1946. Ngày 29/6/1958, Quốc hội
có Nghị quyết thành lập Viện công tố, Viện công tố độc lập trực thuộc
Chính phủ. Đến ngày 01/07/ 1959, Nghị định số: 256 – TTg quy định
về nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố. Để đáp ứng yêu cầu của
công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước và một số yêu cầu khác, Quốc
hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã thông qua Hiến pháp mới,
thay thế Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1959 quy định tổ chức
lại các cơ quan Nhà nước, thể chế hóa Hiến pháp năm 1959, ngày
26/7/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số: 20/L – CTN công bố
Luật tổ chức VKSND. Năm 1980, Hiến pháp lần thứ ba của nước ta ra
đời, tư tưởng bảo vệ quyền con người được kế thừa và phát triển hơn ở
nhiều chế định nhưng vẫn chưa đề cập đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung. Nói chung, các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự ra đời trước
10


năm 1988 chỉ quy định về thành lập các cơ quan tiến hành tố tụng,
thẩm quyền xét xử cũng như các thủ tục xét xử của Tòa án nhưng
không có quy định về Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho
VKSND (lúc đó là Viện công tố) [19].
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự từ năm 1988
đến năm 2003 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Đến khi BLTTHS năm 1988 ra đời, vấn đề trả hồ sơ để điều
tra bổ sung lần đầu tiên được quy định tại Bộ luật này, cụ thể được thể
hiện ở Điều 154 và Điều 173 BLTTHS năm 1988.
2.1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2003 về
trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng
dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCATANDTC ngày 27/8/2010 của Viện kiểm sát nhân Tối cao, Bộ Công

an và Tòa án nhân dân Tối cao thì việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
dựa trên những yêu cầu sau [36]:
Thứ nhất, khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng
đối với vụ án mà Viện kiểm sát và Tòa án không thể bổ sung được
Thứ hai, khi có căn cứ để cho rằng bị can, bị cáo phạm một
tội khác hoặc có đồng phạm khác
Thứ ba, khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại thành phố Đà
Nẵng
2.2.1. Tổng quan về trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại thành
phố Đà Nẵng
Theo báo cáo tổng kết hàng năm và báo cáo tình hình thực
hiện Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC
ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng
11


hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng nêu rõ thực trạng việc trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa
án như sau:
Bảng 2.1. Thống kê các vụ án TAND thành phố Đà Nẵng trả cho
VKSND thành phố Đà Nẵng để điều tra bổ sung
TAND quận huyện
TAND thành phố
Không
Không
Trả hồ
Thụ
Trả hồ

Thụ lý
chấp
chấp



Năm (vụ án/ bị
nhận
nhận
(vụ án/
(vụ án/ (vụ án/
cáo)
(vụ án/
(vụ án/
bị cáo)
bị cáo) bị cáo)
bị cáo)
bị cáo)
2012 726/1278
35/82
4
51/119 12/33
1
2013 681/1272 29/105
5
66/163 11/17
3
2014 705/1254 40/109
6
63/127 12/39

0
2015 671/1175 62/141
6
52/102
9/21
1
2016 704/1323 58/108
8
52/100
7/15
1
(Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng)
2.2.2. Những vi phạm sai lầm về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung tại TAND thành phố Đà Nẵng
Trong quá trình nghiên cứu thực trạng TAND thành phố Đà
Nẵng trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKSN thành phố Đà Nẵng đã
nhận thấy một số đặc trưng của nhưng vi phạm sai lầm khi quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể như sau: Trả hồ sơ khi không có
căn cứ hoặc căn cứ không đúng pháp luật; Không nêu rõ những vấn đề
yêu cầu cần phải thực hiện sau khi trả hồ sơ; Nếu có yêu cầu thì yêu
cầu những vấn đề mà VKS cũng như CQĐT không thực hiện được;
Quan điểm nhận định, đánh giá chứng cứ của Tòa án không đúng.
2.2.3. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung tại TAND thành phố Đà Nẵng
Nguyên nhân khách quan: Tính chất, thủ đoạn phạm tội ngày
càng tinh vi, quy mô phạm tội lớn, có nhiều bị can tham gia và hành vi
12


phạm tội xảy ra trên nhiều địa bàn trong thành phố, gây khó khăn cho

việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm. Các văn bản pháp luật
về kinh tế thị trường nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu và hội
nhập quốc tế chưa hoàn thiện dẫn đến nhận thức khác nhau phải trả hồ
sơ để điều tra bổ sung.
Việc quản lý về lý lịch hành chính tư pháp của các cơ quan
chuyên môn chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng một người có nhiều năm
sinh, địa chỉ khác nhau.
Công tác giám định các dấu vết để lại hiện trường đối với một
số vụ án, vật chứng thu gặp nhiều khó khăn.
Tâm lý phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người
bị oan, sai theo Luật bồi thường Nhà nước nên một số người tiến hành
tố tụng dè dặt, thận trọng quá mức trong đấn tranh xử lý tội phạm, từ
đó tìm lý do trả hồ sơ để điều tra bổ sung mặc dù không cần thiết.
Việc nhận thức văn bản pháp luật còn chưa thống nhất
Nhiều quy định của pháp luật về căn cứ trả hồ sơ để điều tra
bổ sung còn chung chung dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau.
Thông tư 01/2010 đã có quy định về xác định trách nhiệm
trong việc trả hồ sơ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng nhưng chưa quy định cụ thể chế tài đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Công việc giải quyết án phức tạp, số vụ án thụ lý tăng song ở
một số đơn vị quận huyện thiếu biên chế hoặc đủ biên chế nhưng thiếu
kiểm sát viên dẫn đến việc cán bộ phải chủ động kiểm sát điều tra toàn
bộ vụ án. Do đó không tránh khỏi những sai sót ảnh hưởng đến quá
trình giải quyết vụ án.
Nguyên nhân chủ quan: Ý thức trách nhiệm của một bộ phận
Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa phát huy đúng mức với yêu cầu của
công việc.
13



Một số Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sơ thẩm
chưa nghiên cứu kĩ hồ sơ vụ án hoặc việc đánh giá chứng cứ chưa toàn
diện hoặc có tâm lý ỷ lại vào Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Một số nơi lãnh đạo đơn vị phụ trách trực tiếp chưa thực sự
quan tâm hoặc một phần do tin tưởng Kiểm sát viên, Thẩm phán nên
chưa khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong đánh giá
chứng cứ, xác định tội danh.
Việc thực hiện Thông tư ịch số 01/2010 của liên ngành Toà án,
Viện kiểm sát và Công an chưa được toàn diện, hiệu quả cao.
CHƢƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRẢ HỒ SƠ
ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐÚNG PHÁP LUẬT TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
3.1. Các yêu cầu bảo đảm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
đúng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
3.1.1. Yêu cầu của các nguyên tắc tố tụng hình sự
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đây là nguyên tắc
xuyên suốt trong hệ thống pháp luật nước ta nhằm đảm bảo “Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật….”. Trọng tâm của nguyên tắc
này là đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật hay nói cách khác là các
quy định của pháp luật cần được tuân thủ tuyệt đối, không vì động cơ,
mục đích cá nhân mà làm khác đi so với các quy định của pháp luật.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một chế định hết sức quan trọng được
quy định trong bộ luật tố tụng hình sự. Liên quan đến chế định này,
pháp luật tố tụng cũng đã quy định chi tiết về thẩm quyền, căn cứ, thời
gian, trình tự trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trên tinh thần pháp chế xã
hội chủ nghĩa, điều cần thiết và bắt buộc là các chủ thể tiến hành tố
14



tụng cũng như chủ thể tham gia tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ các quy
định có liên quan, không để xảy ra tình trạng vì động cơ cá nhân hoặc
sự buông lỏng, không tuân thủ pháp luật mà điều tra, xử lý các vụ án
hình sự làm oan người vô tội cũng không bỏ lọt tội phạm. Đảm bảo
mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý kịp thời, đúng pháp
luật, đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh.
Để đảm bảo tính nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
việc thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung thì ngoài nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn đòi hỏi việc ban
hành, thể chế hóa các quy định, hướng dẫn có liên quan về chế định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung một các đồng bộ, đảm bảo tính thực thi và áp
dụng thống nhất trong hệ thống các cơ quan tư pháp từ Trung ương
đến địa phương.
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, cốt lõi của các hoạt
động điều tra, truy tố và việc tranh tụng trong các vụ án hình sự đều là
nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, xác định có dấu hiệu tội
phạm hay không, nếu có tội phạm thì chủ thể thực hiện hành vi tội
phạm là ai, phạm tội gì. Trên thực tế không phải vụ án nào ngay từ đầu
Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát cũng điều tra, truy tố đúng người,
đúng tội, đảm bảo tính khách quan, toàn diện của vụ án mà vẫn còn
nhiều trường hợp truy tố không đúng người,không đảm bảo căn cứ
pháp lý, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội…Việc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung trong gia đoạn xét xử sơ thẩm là một biện
pháp có hiệu quả nhất đề sửa chữa, khắc phục những sai sót của hoạt
động điều tra, truy tố. Qua đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng đánh
giá chứng cứ, đánh giá bản chất của hành vi các chủ thể trong quan hệ
pháp luật và trên cơ sở đó xác định đúng sự thật khách quan của vụ án

Nguyên tắc suy đoán vô tội, đây là một nguyên tắc nổi bật
15


trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, nguyên tắc này nhấn mạnh
“không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có
hiệu lực pháp luật” và tất yếu để đi đến một bản án kết tội đối với một
con người cụ thể thì đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng
minh tội phạm, quá trình chứng minh đó đòi hỏi phải tuân thủ các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi
bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục
do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình chứng minh tội phạm
được thực hiện từ khi có tố giác về tội phạm và thông qua các thủ tục
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc
điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử
tại Tòa án. Nếu quá trình xét xử, đánh giá chứng cứ Tòa án thấy có vi
phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc cần phải bổ sung thêm thì
có quyền trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, việc trả hồ sơ phải dựa
trên những đánh giá khác quan, không mang ý chí áp đặc và nếu
không đủ cơ sở kết tội bị cáo thì Tòa án có quyền tuyên bố bị cáo
không phạm tội.
Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai, việc
trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải được thực hiện trong thời hạn do
pháp luật quy định, Cụ thể, khoản 2 Điều 176 BLTTHS quy định:
“Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn
mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây (1) Đưa vụ
án ra xét xử; (2) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (3) Đình chỉ hoặc tạm

đình chỉ vụ án. Về thời hạn điều tra bổ sung, khoản 2 Điều BLTTHS
quy định: “Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra
bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà
16


án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá
một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra
bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ
quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra. Quy định như vậy
là nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được kịp thời mặt khác cũng
đảm bảo tính hiệu quả, khách quan trong việc giải quyết vụ án hình sự.
3.1.2. Yêu cầu của chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Xét trên phương diện lý luận thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung
là một chế định được Bộ luật tố tụng hình sự quy định khá rõ ràng và
có tính chất tách bạc nhưng trên thực tiễn áp dụng các quy định về trả
hồ sơ để điều tra bổ sung cũng phát sinh nhiều vấn đề va vấp thậm chí
là đụng chạm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng với nhau. Thực tế, quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã có
nhiều cách hiểu, cách vận dụng các căn cứ đó của mỗi cơ quan, người
tiến hành tố tụng được Nhà nước giao quyền.
Về mặt nhận thức, đánh giá về tình trạng trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, ở phương diện cơ quan Kiểm sát, Tòa án thì cho rằng quá
trình điều tra, Điều tra viên yếu kém về nghiệp vụ, nhận thức, không
làm hết trách nhiệm, bỏ qua những chứng cứ, những tình tiết quan
trọng, không tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng, bỏ qua các
yêu cầu điều tra của cơ quan kiểm sát điều tra.
Ở góc độ khác, Tòa án lại cho rằng, để xảy ra tình trạng thiếu
sỏt, vi phạm tố tụng phải điều tra bổ sung là do sự yếu kém của Viện

kiểm sát, Kiểm sát viên khi không thực hiện tốt chức năng kiểm sát
điều tra và thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Với
quyền năng của Viện kiểm sát được quy định rõ ràng trong tố tụng
hình sự thì Viện kiểm sát hoàn toàn có khả năng hạn chế đến mức tối
đa các vụ án bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho dù là trả hồ sơ để điều
17


tra bổ sung theo quy định tại Điều 168, trả hồ sơ để điều tra bổ sung
theo quy định tại Điều 176, Điều 179 hay Điều 199 BLTTHS. Tuy
nhiên do Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án chưa chủ động nắm
chắc tiến độ, kết quả điều tra và việc lập hồ sơ vụ án ngay từ đầu và
trong quá trình điều tra để đề ra yêu cầu điều tra toàn diện, sát, đúng với
thực tế vụ án; có trường hợp tuy đã có yêu cầu điều tra nhưng không
theo dõi, giám sát chặt chẽ để đảm bảo việc thực hiện yêu cầu điều tra
nghiêm túc, có chất lượng. Do đó, hầu hết các trường hợp trả hồ sơ để
điều tra bổ sung đều do Kiểm sát viên sau khi kết thúc điều tra mới
nghiên cứu hồ sơ và phát hiện ra các vấn đề cần điều tra bổ sung.
Đứng ở góc độ cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thì lại cho rằng
khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì điều đó đã thể hiện sự hạn
chế của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Thẩm phán
chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, việc nhận định, đánh giá chứng cứ
không toàn diện, có trường hợp do nặng về thành tích, cảm tính, để đối
phó với quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử nên tùy tiện trong việc
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, việc ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung là không có căn cứ. Cùng lập luận theo chiều hướng này còn có ý
kiến cho rằng quyền năng của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử là lớn,
do đó vấn đề xem xét, bổ sung chứng cứ tại phiên tòa thông qua hoạt
động xét hỏi, tranh luận là hoàn toàn có thể bố sung, khắc phục được
mà không cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Hoặc giả trường hợp

chứng cứ không đủ để chứng minh tội phạm thì Tòa án có quyền tuyên
bị cáo không phạm tội hoặc xử phạt về một tôi nhẹ hơn. Do đó việc trả
hồ sơ là không cần thiết, thể hiện sự yếu kém của Thẩm phán, của Hội
đồng xét xử.
Khác với hệ thống pháp luật của các nước tư bản, pháp luật
nước ta nói chung và pháp luật hình sự nói riêng thì giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng ngoài quan hệ chế ước tương ứng với một số điều
18


luật thì còn tồn tại quy chế phối hợp liên ngành. Rất khó và thậm chí là
không thể phân biệt tuyệt đối về quyền hạn, trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết
một vụ án hình sự bởi trách nhiệm chứng minh tội phạm là thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Tuy nhiên, xét về lâu dài và
để đảm bảo tính khoa học thì cần phải có sự phân công vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng, từng người tiến
hành tố tụng theo hướng cụ thể và tiến đến cách hiểu, cách nhận thức
thống nhất về các vấn đề pháp lý liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung tránh tình trạng nhìn nhận chủ quan, phiến diện như hiện nay.
Trong những năm qua, tỷ lệ các vụ án phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Phần lớn các vụ trả hồ sơ để điều tra
bổ sung là do không áp dụng, áp dụng không đúng, không đầy đủ các
biện pháp điều tra đã được quy định trong Luật tố tụng hình sự của Cơ
quan điều tra. Có nhiều trường hợp Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ một
cách tùy tiện dẫn đến tình trạng các vụ án bị kéo dài thời hạn giải quyết
gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, gây lãng phí tốn kém; có
những vụ án sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung không điều tra bổ
sung được nên không đủ căn cứ để định tội dẫn đến đình chỉ vụ án gây
ảnh hưởng không tốt đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, ảnh

hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Việc xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố
tụng trong trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một biện pháp rất quan
trọng nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Mặc dù, đến
nay các cơ quan tiến hành tố tụng đã lấy chuẩn mực trả hồ sơ điều tra
bổ sung, chất lượng của từng vụ án trả hố sơ điều tra bổ sung việc trả
hồ sơ là có căn cứ, không có căn cứ, có được chấp nhận hay không để
làm thước đo đánh giá tiêu chuẩn, năng lực, thước đo của các chức
danh tư pháp như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Nhưng
19


thiết nghĩ trong thời gian tới, các cơ quan tiến hành tố tụng cần đề ra
những tiêu chí, chế tài khắc khe hơn liên quan đến việc quản lý các
chức danh tư pháp dựa trên chất lượng giải quyết các vụ án để xảy ra
tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung.
3.1.3. Yêu cầu phòng, chống tội phạm
Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ngoài các yêu cầu về hoàn
chỉnh thủ tục tố tụng, củng cố, bổ sung các chứng cứ quan trọng thì
còn nhằm điều tra có hay không có một tội phạm khác hoặc có đồng
phạm khác. Liên quan đến nội dung này đòi hỏi sự nhạy bén trong việc
đánh giá chứng cứ của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, qua việc đánh giá
chứng cứ phải khai thác triệt để các chứng cứ vật chất cũng như lời khai
của bị can, bị cáo và các đối tượng khác có liên quan. Đây cũng là vấn
đề nỗi bật thể hiện trách nhiệm đấu tranh phòng chống các loại tội phạm
của Tòa án. Thực tế thời gian qua có những vụ án sau khi trả hồ sơ điều
tra bổ sung thậm chí là trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần, Cơ quan
Điều tra đã điều tra thêm và Viện kiểm sát đã truy tố thêm nhiều bị cáo,
thậm chí có những trường hợp bị cáo bị truy tố thêm là những người
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng. Qua đó góp phần

tích cực vào việc đấu tranh, phòng chống tội phạm tại các địa phương
trong thời gian qua.
3.2. Các giải pháp bảo đảm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
đúng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
3.2.1. Giải pháp bảo đảm thi hành đúng quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm
Để thực hiện tốt giải pháp này và cũng là đảm bảo thi hành
thống nhất các quy định của BLTTHS năm 2015 trong đó có quy định
về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì thời gian hệ thống các cơ
quan tư pháp cần thực hiện các nội dung sau:
20


Thứ nhất, cần phải tập huấn nghiệp vụ cho các chức danh tư
pháp trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng bằng nhiều hình
thức khác nhau nhằm trang bị những kiến thức cần thiết cho những
người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết án hình sự.
Thứ hai, so với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì
BLTTHS 2015 có nhiều nội dung mới. Đây là vấn đề mới và tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau nên các cơ quan tư pháp Trung ương cần
sớm có hướng dẫn để có hướng áp dụng pháp luật thống nhất.
Thứ ba, bên cạnh việc tập huấn, hướng dẫn pháp luật thì ngay
trong nội tại từng cơ quan tiến hành tố tụng địa phương cũng nâng cao
sinh hoạt chuyên đề có liên quan đến việc thi hành BLTTHS 2015 để
qua đó tuyên truyền pháp luật đến cho từng cán bộ công chức trong
lĩnh vực tư pháp.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật
Một là, cần sửa đổi, bổ sung Điều 168 và Điều 179 BLTTHS
theo hướng quy định cụ thể về căn cứ, thẩm quyền, thời hạn và trách

nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Hai là, cần sửa đổi, bổ sung Điều 196 BLTTHS. Cùng với
việc quy định rút lại số lần trả hồ sơ của Tòa án, cần phải điều chính
quy định về giới hạn của việc xét xử, vì xét về mặt bản chất thì đây là
quan hệ tương đồng và có tính chất kéo theo.
3.2.3. Tăng cường vai trò của cơ quan có thẩm quyền trong
hướng dẫn thi hành pháp luật
Đứng trước thời điểm hiện nay, cùng với việc tiếp cận, đón
nhận những nội dung mới của các bộ luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng địa phương thì công tác hướng dẫn thi hành các bộ luật của các
cơ quan Trung ương, đặc biệt là hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao là một nội dung hết sức cần thiết. Do đó,
cùng với luận văn này, tác giả kiến nghị các cơ quan Trung ương nhất
21


là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao sớm có hướng dẫn
về những nội dung mới này, trong đó có nội dung về trả hồ sơ để điều
tra bổ sung.
3.2.4. Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố
Để khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót, trong các cơ quan
tiến hành tố tụng, nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ
sung Bộ luật Tố tụng hình sự cần có những quy định về nâng cao trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng
ngang tầm với sự phát triển của xã hội và yêu cầu của cải cách tư
pháp. Để thực hiện được yêu cầu này, cần đào tạo, nâng cao nhận
thức, chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ các chức danh những
người tiến hành tố tụng trong đó có cơ quan Điều tra, truy tố.
Đối với Cơ quan điều tra, điều tra viên, Để nâng cao trách

nhiệm của Cơ quan điều tra, điều tra viên thì Cơ quan điều tra, điều tra
viên phải tuyệt đối tuân thủ đúng các quy định của BLTTHS ngay từ
giai đoạn khởi tố, điều tra.
Đối với Viện kiểm sát, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu phát
hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải kịp
thời ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, không được để hết thời
hạn truy tố mới quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
3.2.5. Nâng cao chất lượngThẩm phán, Hội thẩm nhân dân
Tòa án là cơ quan trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp,
hoạt động xét xử là hoạt động trọng tâm của Tòa án. Người thực hiện
chức năng xét xử là các chức danh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Chất
lượng xét xử được đánh giá thông qua chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
Do đó đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải được nâng
cao về nhân thức pháp lý lẫn kỹ năng, thao tác điều hành phiên tòa.
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, Đảng ta cũng đã ban
22


hành nhiều Nghị quyết nêu rõ vị trí vai trò của Tòa án nhân dân, tầm
quan trọng của từng chức danh tư pháp thuộc Tòa án nhân dân, sự cần
thiết phải nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn của từng chức danh tư pháp
thuộc Tòa án nhân dân. Gắn liền với đó là việc nâng cao tiêu chuẩn,
chất lượng trong việc tuyển chọn, bầu, bổ nhiệm các chức danh tư
pháp thuộc hệ thống Tòa án nhân dân.
3.2.6. Nâng cao chất lượng của những người tham gia tố
tụng khác
Cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ những người tiến
hành tố tụng thì cũng phải nhận thức đúng về vai trò, vị trí của người
phiên dịch, người giám định….và có giải pháp nâng cao chất lượng
của những người tham gia tố tụng này. Đây cũng được xem là một giải

pháp dể đảm bảo việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung có căn cứ hơn, hạn
chế những trường hợp trả hổ sơ không đúng theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự.
3.2.7. Tăng cường công tác giám sát điều tra, truy tố, xét xử
So với quy định của BLTTHS thì các cơ quan Điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án là các cơ quan độc lập, hoạt động dựa trên các
nguyên tắc tố tụng hình sự và có chiều hướng kiểm sát, đối trọng nhau.
Tuy nhiên xét trong quan hệ tổ chức, hệ thống các cơ quan quản lý
Nhà nước, Cơ quan Đảng thì các cơ quan này đều đặt dưới sự giám sát
của Cơ quan Nội chính cùng cấp.
Xét về nguyên tắc quản lý, cơ quan Nội chính là cơ quan giám
sát các hoạt động Điều tra, truy tố, xét xử và cũng là cơ quan dung hòa
quan điểm giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng tương ứng. Trong đó có
dung hòa về mặt quan điểm, xung đột về vấn đề trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. Chính vì vậy, cơ quan giám sát hoạt động hiệu quả, thực hiện
tốt chức năng giám sát của mình thì cũng góp phần hạn chế việc trả hồ
sơ để điều tra bổ sung tùy tiện, thiếu căn cứ.
23


KẾT LUẬN
Được xác định là một chế định quan trọng của pháp luật tố
tụng hình sự và hiện nay đã có văn bản hướng dẫn áp dụng nhưng trên
thực tế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự nước ta
vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế nhất định. Vẫn còn rất nhiều vụ
án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thiếu cơ sở, thậm chí có trường hơp hồ
sơ trả đi, trả lại nhiều lần nhưng Cơ quan Điều tra vẫn không thể điều
tra bổ sung được các yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát. Thực trạng
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng tựu trung vẫn
xoay quan hai nguyên nhân chủ yếu là quy định của pháp luật và nhận

thức của các cơ quan, người thực thi pháp luật. Thời gian qua cũng có
nhiều tác giả đi vào nghiên cứu, đưa ta giải pháp để nâng cao chất
lượng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đáp ứng các yêu cầu chung
của pháp luật tố tụng hình sự tuy nhiên vẫn chưa đem lại chuyển biến.
Trong phạm vi nghiên cứu, cũng trên tinh thần phân tích, đối chiếu
giữa lý luận và thực tiễn, đưa ra những nhận xét, kiến nghị có liên
quan nhằm nâng cao chất lượng của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong thực tiễn xét xử sơ thầm vụ án hình sự, tác giả mong rằng sẽ tiếp
tục nhận được sự đồng thuận, chia sẽ ý kiến của bạn đọc để hoàn thiện
hơn về nhận thức pháp lý của mình.

24



×