Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.55 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI PHƯƠNG NAM

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI PHƯƠNG NAM

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học
TS. VÕ THỊ KIM OANH

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ..................... 6
1.1 Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành
niên .................................................................................................................... 6
1.2 Đặc điểm và nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội là người
chưa thành niên ............................................................................................... 12
1.3 Các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa người bị buộc tội là người chưa
thành niên ........................................................................................................ 18
Chương 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH.............................................................................................................. 29
2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của người bị
buộc tội là người chưa thành niên ................................................................... 29
2.2 Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên tại Quận Bình Tân ......................................................................... 41
Chương 3 GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI
BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ........................................................................................................ 62
3.1 Yêu cầu đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp và Hiến pháp

năm 2013 ......................................................................................................... 62
3.2 Các giải pháp cụ thể .................................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

CCTP

: Cải cách tư pháp

CTN

: Chưa thành niên

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CƯQT

: Công ước quốc tế

HĐXX

: Hội đồng xét xử


HTND

: Hội thẩm nhân dân

NBC

: Người bào chữa

QCN

: Quyền con người

TAND

: Toà án nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, là quyền
hiến định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của nước Việt Nam. Hiến
pháp năm 2013 của nước ta đã kế thừa các bản Hiến pháp trước đó đã quy định một
cách cụ thể, rõ ràng hơn về quyền bào chữa của công dân. Khoản 4 Điều 31 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy
có thể thấy, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng phạm vi các đối tượng được đảm bảo
quyền bào chữa, không chỉ bị can, bị cáo mới có quyền bào chữa như các bản Hiến
pháp trước đây, mà ngay từ khi một người bị bắt, đã phát sinh quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa đối với họ và được đảm bảo bởi đạo luật có
giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp.
Người chưa thành niên phạm tội là một chủ thể đặc biệt của Luật hình sự và
Luật tố tụng hình sự, việc xử lý, áp dụng các thủ tục tố tụng với người chưa thành
niên phạm tội đòi hỏi phải có những quy định riêng biệt.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đã dành hẳn một chương riêng (Chương
XXXII) quy định về thủ tục đối với người chưa thành niên. Đó là những quy định
thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án; về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, của người bào chữa...
đối với những vụ án có người chưa thành niên phạm tội. Ghi nhận các quyền cũng
như đảm bảo quyền tố tụng của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Đảm bảo

các quyền, lợi ích hợp pháp của họ, mà một trong những quyền đó là quyền bào
chữa.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII nước ta
thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 27/11/2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sẽ có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018, đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung của Bộ luật Tố
tụng hình sự 2003, có nhiều quy định được điều chỉnh, sửa đổi đã đảm bảo hơn

1


quyền con người, quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và của người bị
buộc tội là người chưa thành niên nói riêng.
Do vậy, đặt ra những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện về lý
luận và thực tiễn trong tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với chưa thành niên
phạm tội để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, một trong những quyền
đó là quyền bào chữa.
Vì vậy, người viết chọn đề tài “Quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền bào chữa
và bảo đảm quyền bào chữa của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự đã
được công bố như:
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS.Đỗ Thị Phượng, Khoa
luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007.
- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự Việt Nam, của TS.Lại Văn Trình, Đại học Luật TP.HCM năm 2011.
- Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ,
của TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, NXB Chính trị Quốc gia năm 2013.

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam, của TS.Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa học xã hội, năm
2014.
- Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
hình sự Việt Nam, của TS.Nguyễn Hữu Thế Trạch, Đại học Luật TP.HCM năm
2014.
Các công trình này chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề như: Bảo vệ
quyền và lợi ích của bị can, bị cáo là người chưa thành niên; vấn đề bảo đảm quyền
bào chữa cho người chưa thành niên phạm tội; bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người

2


chưa thành niên; đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên v.v… Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho đối tượng là bị can, bị
cáo là người chưa thành niên bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam - đối tượng được hưởng
quyền bào chữa mới được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ Luật
Tố tụng hình sự 2015 cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, mang tính nguyên tắc của việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự; những khó khăn, vướng mắc, bất
cập trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa
cho người chưa thành niên hiện nay. Qua đó, đề xuất những giải pháp, kiến nghị
góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền
bào của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích trên, đề tài đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể
sau đây:

- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về bảo đảm
quyền bào chữa nói chung, của người bị buộc tội là người chưa thành niên nói
riêng;
- Phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
bảo đảm quyền bào chữa ở Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là kể từ
khi Nhà nước ta ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;
- Làm rõ khái niệm chủ thể: người bị buộc tội là người chưa thành niên trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Làm rõ phạm vi và mối liên hệ giữa người dưới 18 tuổi và người chưa
thành niên theo quy định của pháp luật;

3


- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật
nhằm bảo đảm quyền bào chữa đối với người bị buộc tội là người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên từ thực tiễn Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành
niên. Nghiên cứu thực tiễn quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên trên địa bàn Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh thông qua các số liệu, các
báo cáo công tác của VKSND, TAND Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh và các bản
án trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa của Chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, về
quyền con người, quyền công dân.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu phương pháp phân tích, thống kê so
sánh đã được sử dụng khi phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, kết quả nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế,
bất cập của chúng và so sánh với yêu cầu của cải cách tư pháp để xác định những
định hướng hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Phương pháp tổng họp
được sử dụng khi đưa ra những đánh giá về thực trạng của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 liên quan đến quyền bào chữa của người chưa thành niên phạm tội khi
tham gia hoạt động tố tụng hình sự .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

4


Đề tài nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về việc đảm bảo quyền bào
chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự.
Từ đó, đề xuất phương hướng và các giải pháp để bảo đảm quyền bào chữa
cho người chưa thành niên phạm tội, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về
bào chữa và đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là chưa thành niên trong
tố tụng hình sự Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng
pháp luật về đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự; qua đó khắc phục được những thiếu sót, bất cập trong
hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị trong đề tài có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo khi nghiên cứu, hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về quyền bào chữa cũng như xây dựng, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật khác liên quan đến vấn đề này.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc luận
văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị buộc tội
là người chưa thành niên.
- Chương 2: Quy định pháp luật về quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh .
- Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ
BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1 Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên
1.1.1 Khái niệm về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
Quyền con người luôn là vấn đề được tất cả các quốc gia trên thế giới quan
tâm. Để đảm bảo QCN trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của nước ta đều
đã ghi nhận và có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền công dân trong đó không thể
không kể đến QBC và những đảm bảo cần thiết để quyền đó được thực hiện. Việc
Hiến pháp ghi nhận QBC càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của chế định này. Điều
34 Bộ luật TTHS năm 2003 cũng quy định và ghi nhận QBC của bị can, bị cáo
nhằm không để bất kì người nào có thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp
luật đã dành cho họ.
Quyền bào chữa là một trong những chế định pháp lý quan trọng và phức
tạp, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Từ trước đến nay, QBC đã

được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, bản
chất chủ thể... của quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, xác định khái
niệm QBC trên cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với quy định của pháp luật là cần
thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong pháp luật vẫn chưa có định nghĩa chính thức nào về QBC. Quyền bào
chữa là một chế định quan trọng trong luật TTHS và cho đến nay nó vẫn cần được
làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo
QBC cho người bị buộc tội.
Hiện nay xung quanh khái niệm về QBC có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố
tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm
làm giảm trách nhiệm của bị can [38, tr.33]

6


- Quan điểm thứ hai cho rằng, QBC được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng
lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách
nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi
ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới
việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án [25, tr.89].
- Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị
cáo mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa,
bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ [25, tr.89]
- Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền bào chữa trong hộ luật tố tụng hình sự là
tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ; bị can, bị cảo, người bị kết án
thực hiện trên cơ sở phủ hợp với quy định của pháp ỉuậi nhằm phủ nhận một phần
hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm gỉảm nhẹ hoặc loại trừ
trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự [9, tr29].

- Quan điểm thứ 5, là quan điểm trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003: quyền bào chữa thuộc về người bị tam giữ, bị can, bị cáo.
Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm về QBC trong TTHS đã được hiểu rất
khác nhau. Dù sao, ta cũng thấy rằng, nhu cầu bào chữa có thể xuất hiện, tồn tại ở
tất cả các giai đoạn TTHS, kể cả giai đoạn tiền khởi tố và giai đoạn thi hành án.
Các luật gia Việt Nam và thế giới đều khẳng định, việc buộc tội và truy cứu
TNHS đối với một người phải do cơ quan THTT thực hiện theo những thủ tục luật
định và phải dựa trên những chứng cứ đúng đắn, hợp pháp và có căn cứ, nhằm mục
đích không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Việc buộc tội đối với
một người tất yếu dẫn đến sự hạn chế đối với một số quyền tự do về thân thể, đi lại
và các quyền cơ bản khác của người đó. Vì vậy, nếu buộc tội đối với người mà thực
tế là người đó vô tội thì cũng có nghĩa là cơ quan THTT đã vi phạm QCN. Tuy
nhiên, dù cơ quan THTT buộc tội một người nào đó dựa trên các chứng cứ hợp
pháp thì vẫn phải có nghĩa vụ đảm bảo các quyền mà pháp luật quy định cho họ (ví
dụ: cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can được bày tỏ thái độ của mình đối
với lời buộc tội, được chứng minh là mình vô tội, đưa ra những căn cứ để minh oan

7


hoặc làm giảm nhẹ tội...), tức là phải bảo đảm cho người bị buộc tội có quyền được
bào chữa.
Như vậy, chúng ta thấy rằng ngoài bị can, bị cáo thì người bị bắt, bị tạm giữ
cũng là đối tượng bị buộc tội. Chỉ trên cơ sở coi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam
là đối tượng bị buộc tội thì cơ quan THTT mới có quyền ra quyết định tạm giữ, tạm
giam một con người - xâm phạm quyền tự do về thân thể của họ, một trong những
quyền Hiến định của công dân và áp dụng các biện pháp điều tra với họ như lấy lời
khai, thu thập chứng cứ. Vì vậy quy định cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam có
QBC để bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của mình là hoàn toàn hợp lý khi mà họ
đã và đang bị áp dụng biện pháp cưỡng chế TTHS. Nói cách khác, người bị bắt, bị

tạm giữ, tạm giam là chủ thể bị buộc tội. Đối với bị can, bị cáo thì sự buộc tội đối
với họ đã được khẳng định bằng quyết định khởi tố và bản cáo trạng nên đương
nhiên pháp luật phải quy định cho họ QBC. Như vậy QBC thông thường xuất hiện
khi một người bị cơ quan THTT ra quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp có
người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam thì QBC xuất hiện sớm hơn khi họ bị cơ quan
THTT ra quyết định tạm giữ, tạm giam và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật.
Từ sự tổng hợp và phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về QBC trong
TTHS như sau: Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền năng
tố tụng hình sự của người bị buộc tội có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay
toàn bộ sự buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự.
1.1.2 Khái niệm người chưa thành niên và người bị buộc tội là người chưa
thành niên
Điều 1 phần 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày
02/9/1990 quy định “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy định độ tuổi
thành niên sớm hơn”. Theo Công ước, trẻ em bao gồm tất cả những ai chưa phải là
người lớn, nghĩa là những ai dưới 18 tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi được ghi

8


nhận trong Công ước. Bên cạnh Công ước quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ
biến của Liên họp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người CTN, hay còn gọi
là Quy tắc Bắc Kinh do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985.
Quy tắc Bắc Kinh không nêu rõ người CTN là người dưới 18 tuổi mà chỉ đưa ra
khái niệm trẻ em hoặc người ít tuổi. Theo quy tắc này thì “Người chưa thành niên
phạm pháp là trẻ em hay người ít tuổi bị cho là hay bị phát hiện là phạm pháp”.
Quy tắc cũng định nghĩa người chưa thành niên và phạm pháp là những nhân tố của

người chưa thành niên phạm tội. Nhưng giới hạn độ tuổi phụ thuộc vào từng hệ
thống pháp luật của các quốc gia thành viên.
Do đó, có thể thấy rằng, khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người CTN trong
pháp luật quốc tế không dựa vào các đặc điểm tâm - sinh lý hay sự phát triển thể
chất, tinh thần ... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả
khái niệm trẻ em và khái niệm người CTN đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời
đưa ra khả năng mở cho các quốc gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, truyền
thống của mình có thể quy định độ tuổi sớm hơn. Nội dung các quy tắc trên có tính
đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh
thần tư pháp người CTN, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với
việc quản lý những người CTN vi phạm pháp luật.
Người CTN trong pháp luật Việt Nam được xác định tương đối thống nhất
trong các đạo luật: Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 1999, Bộ luật TTHS năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật xử lý vi phạm Hành chính và một số
văn bản quy phạm pháp luật khác. Các văn bản pháp luật này đều quy định độ tuổi
của người CTN là người dưới 18 tuổi và trong từng lĩnh vực cụ thể đều có những
chế định pháp luật hoặc các quy định riêng cho người CTN.
Chúng ta cũng cần chú ý phân biệt khái niệm người CTN khác với khái niệm
trẻ em theo Luật trẻ em năm 2016: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”
Như vậy, về độ tuổi thì người CTN là người chưa đủ 18 tuổi. Ở độ tuổi này,
những đặc điểm về tâm sinh lý của người CTN có những biểu hiện khá phức tạp và
mang những đặc trưng riêng tùy theo giai đoạn phát triển.

9


Cho dù còn có những cách đặt vấn đề khác nhau, song nhìn chung quan niệm
về người CTN được hiểu là: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa
phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm lý và nhân cách, chưa có đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên” [30, tr38].

Người bị buộc tội là khái niệm mới của luật TTHS Việt Nam, nhiều văn bản
pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định đối tượng này là chủ thể của
TTHS. Công ước Châu Âu về QCN cũng đã đề cập đến đối tượng này.
Để làm rõ khái niệm người bị buộc tội thì phải xuất phát từ khái niệm “Sự
buộc tội” theo đó sự buộc tội chỉ xuất hiện khi một người bị cáo buộc là đã thực
hiện một hành vi mà BLHS coi là tội phạm. Sự buộc tội được coi là hình thành từ
thời điểm một người được thông báo chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền về
những chứng cứ rõ ràng cho rằng người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, và kể từ
thời điểm đó một người bị coi là người bị buộc tội trong VAHS. Sự buộc tội sẽ tồn
tại và kéo dài trong suốt quá trình tố tụng chứng minh hành vi của người bị cáo
buộc có tội hay không có tội và kết thúc bằng một quyết định hoặc bản án có hiệu
lực pháp luật của cơ quan THTT. Như vậy: Người bị buộc tội là người bị cơ quan
có thẩm quyền cáo buộc đã thực hiện một hành vi tội phạm bằng thông báo chính
thức.
Với quan điểm, buộc tội và bào chữa song song tồn tại, ở đâu có buộc tội, thì
ở đó có bào chữa mới thể hiện tính dân chủ, đảm bảo QCN trong TTHS. Với quá
trình xây dựng, sửa đổi Bộ luật TTHS, để nhằm đảm bảo quyền cho những đối
tượng này, chủ thể bị buộc tội ngày càng mở rộng, mặc đù trong các Bộ luật TTHS
năm 1988 và Bộ luật TTHS năm 2003 chưa ghi nhận cụ thể đối tượng người bị
buộc tội, nhưng đã quy định bị can, bị cáo có quyền bào chữa. Bộ luật TTHS năm
2003, ngoài bị can, bị cáo còn quy định thêm đối tượng là người bị tạm giữ có QBC
hoặc nhờ người khác bào chữa. Hay nói một cách gián tiếp đã xem người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người bị buộc tội.
Để thống nhất trong hoạt động tố tụng cũng như phù hợp với các quy định
của CƯQT, luật pháp của các nước tiên tiến trên thế giới, Bộ luật TTHS năm 2015

10


của Việt Nam đã quy định: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ;

bị can, bị cáo ”.
Vậy có thể hiểu, người bị buộc tội là người CTN là người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo dưới 18 tuổi. Tuy nhiên không phải tất cả người dưới 18 tuổi
là người CTN khi thực hiện một hành vi phạm tội đều bị buộc tội hay phải chịu
trách nhiệm hình sự. Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “1. Người từ đủ
16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”
Do đó, có thể đưa ra khái niệm người bị buộc tội là người CTN chính xác
như sau: Người bị buộc tội là người CTN là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
1.1.3 Khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền năng tố tụng
hình sự của người bị buộc tội có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự
buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự.
Như vậy, quyền bào chữa của người bị buộc tội là người CTN từ đủ 14 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi - là tổng hợp các quyền năng tố tụng hình sự của họ có thể sử
dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến
hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự.
Có thể thấy quyền bào chữa của người bị buộc tội là người CTN cũng giống
như quyền bào chữa của người đã thành niên. Nhưng đặc biệt hơn, ngoài các quyền
bào chữa như người đã thành niên, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ
luật TTHS năm 2003, khi người bị buộc tội là người CTN hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không mời NBC thì các cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật
sư hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử NBC cho họ. Điều này thể hiện tính
nhân văn trong chính sách hình sự và mang ý nghĩa chính trị sâu sắc: quyền công

11



dân được tôn trọng và bảo đảm, hay nói một cách khác quyền dân chủ của công dân
và cơ chế tự do dân chủ ở nước ta ngày càng phát triền và mở rộng trong thời kỳ mở
cửa và hội nhập quốc tế.
1.2 Đặc điểm và nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội là người
chưa thành niên
1.2.1 Đặc điểm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành
niên
Qua xem xét lịch sử của TTHS thế giới trước đây, hầu như không có sự phân
biệt đáng kể của nhà nước và xã hội đối với người bị buộc tội là người thành niên
và người bị buộc tội là người CTN trong các VAHS. Người ta chỉ quan niệm đơn
giải rằng người bị buộc tội là người chưa thành niên chỉ là người bị buộc tuổi còn
nhỏ. Đến cuối thế kỷ 19, mới hình thành thái độ của nhà nước về người bị buộc tội
là người CTN trong VAHS. Thay đổi cách nhìn đối với họ và xem họ là đối tượng
cần bảo vệ đặc biệt và hình thành nên tư tưởng lập pháp về TTHS đối với người bị
buộc tội là người CTN. Tư tưởng này trở thành xu hướng chung ngày càng mang
tính nhân văn, hình thành những chuẩn mực chung về thái độ của nhà nước đối với
người bị buộc tội là người CTN cho đến nay.
Bộ luật TTHS năm 2003 đã bắt kịp xu hướng chung này của TTHS thế giới
khi nhìn nhận thủ tục TTHS đối với người CTN là một trong những thủ tục tố tụng
đặc biệt quy định tại Chương XXXII (Chương XXVIII thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi, Bộ luật TTHS năm 2015). Tính chất đặc biệt của thủ tục này thể hiện
ở chỗ chúng được áp dụng đối với người CTN đồng thời đối với những quy định
khác của Bộ luật TTHS nếu các quy định này không trái với những quy định đặc
thù. BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về chính sách hình sự
đối với người CTN phạm tội tại Điều 69 chủ yếu liên quan đến năng lực chịu
TNHS, mục đích áp dụng TNHS nặng về giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh để họ trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội chứ không nặng về
trừng phạt. Còn chính sách hình sự trong TTHS đối với người bị buộc tội là người

CTN có những quy định nhằm bảo đảm một cách tốt nhất QBC cho đối tượng này,

12


hạn chế một cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách
thấp nhất những tác động không thể ừánh khỏi về tâm lý đối với người bị buộc tội là
người CTN do hoạt động TTHS gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
việc làm rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội của họ để Tòa án có thể xét xử
và tuyên bản án có tác động tích cực nhất đến tâm lý của đối tượng này. Để thống
nhất với tư tưởng chủ đạo trong CƯQT về quyền trẻ em đã nêu ở trên, về lý thuyết
chính sách hình sự trong lĩnh vực TTHS đối với người bị buộc tội là người CTN cần
bao gồm hai nội dung sau đây:
Mở rộng QCN tức là quyền tố tụng của người CTN so với người thành niên.
Người bị buộc tội là người CTN có đầy đủ các quyền tố tụng như người bị buộc tội
là người thành niên. Bên cạnh đó, họ còn được thừa nhận những quyền tố tụng đặc
thù để có thể bảo vệ một cách tốt nhất, thuận lợi nhất quyền và lợi ích chính đáng
của mình.
Mở rộng những bảo đảm QCN của người bị buộc tội là người CTN trong
hoạt động TTHS. Một trong những bảo đảm quan trọng QCN của đối tượng này là
những quy định, trình tự, điều kiện riêng hoặc có tính chất bổ sung khi thực hiện
những hành vi tố tụng đối với họ.
Trong hoạt động TTHS, QBC là quyền quan trọng nhất của người vi phạm
pháp luật hình sự. Đây là tổng hợp các hành vi tố tụng do người bị buộc tội thực
hiện nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm
giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS của mình trong VAHS. Thông thường sự tham gia
của NBC phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Họ có thể trực tiếp mời hoặc
ủy quyền cho người thân của mình mời NBC. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
đặc biệt luật quy định sự tham gia của NBC vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý
chí của người bị buộc tội. Đó là các trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều

57 Bộ luật TTHS năm 2003 khi những chủ thể này hoặc người đại diện hợp pháp
của họ không mời NBC thì các cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư
hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử NBC cho họ. Đó là những trường hợp liên

13


quan đến các bị can, bị cáo là người CTN, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất, hoặc bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.
Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS là quy định mang đầy tính nhân
đạo của pháp luật Việt Nam. Quy định về sự tham gia của NBC vào trong vụ án
không phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội mà là làm tăng thêm tính bảo đảm
QBC cho họ. QBC và sự tham gia của NBC không chỉ cần thiết, có ích cho người bị
buộc tội là người CTN mà còn cần thiết, có ích cho hoạt động tố tụng của chính các
cơ quan THTT. Sự đối trọng, phản biện của hoạt động bào chữa đối với hoạt động
của các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội CQĐT, VKS chính là yếu tố hạn chế
sai lầm, hạn chế làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này đồng
thời buộc những cơ quan này phải không ngừng hoàn thiện năng lực chuyên môn
nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu
tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ QCN trong TTHS.
1.2.2 Nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành
niên
Trong lịch sử pháp luật TTHS trước đây, địa vị pháp lý của người bị buộc tội
chưa được xác định rõ ràng nên họ thường bị coi là có tội và một khi đã bị coi là có
tội, mặc nhiên số phận của họ là số phận của kẻ bị tước phần lớn các quyền công
dân. Hiện nay, với nguyên tắc coi người bị buộc tội là những người chưa có tội nên
pháp luật TTHS đã đành cho họ nhiều quyền trong suốt các giai đoạn tố tụng.
Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng mình theo trình tự luật định và cỏ bản án kết tội của
Tòa án đã cỏ hiệu lực pháp luật”. Mục đích của những quy định chủ yếu là đặt ra

những yêu cầu đối với các cơ quan và những người THTT phải có sự thận trọng, vô
tư và đề cao tinh thần trách nhiệm làm rố các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội,
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt
người phạm tội. Việc nâng cao hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật không
thể thiếu sự củng cố và tăng cường nguyên tắc bảo đảm QBC của người bị buộc tội.
Nếu như QBC là khả năng sử dụng những quyền tố tụng để bảo vệ những quyền và

14


lợi ích hợp pháp thì biện pháp bào chữa là các hành động cụ thể để thực hiện quyền
ấy như làm đơn khiếu nại, kháng cáo.v.v. Nói cách khác, đảm bảo QBC chính là cơ
chế thực hiện QBC. ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người THTT, các tổ chức xã
hội, cơ quan nhà nước khác phải tạo điều kiện giúp người bị buộc tội thực hiện
QBC. Tại điểm d khoản 3 Điều 14 của CƯQT về các quyền chính trị, dân sự quy
định khi bị khởi tố về hình sự, bất cứ ai (bao gồm cả trẻ em) cũng có quyền: “Tự
bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý của người khác theo sự lựa chọn của
mình; được thông tin về quyền trên nếu họ không có người bào chữa; và trong
trường hợp cần thiết được cử người bào chữa mà không phải trả tiền nếu họ không
có đủ tiền để trả”
Theo quy định tại Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc bảo
đảm QBC của người bị buộc tội, trong đó nêu rõ: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện
quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Tại Điều này tuy không
quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chửa của người CTN
nhưng với quy định chung về quyền này của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì
đương nhiên người CTN trong trường hợp là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng
sẽ có đầy đủ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Còn các cơ quan
THTT có trách nhiệm bảo đảm để cho người bị buộc tội là người CTN thực hiện

QBC của mình.
1.2.2.1 Về quyền tự bào chữa.
Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo
đảm cho phép người bị buộc tội tự thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng
nhằm minh oan, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS của mình. Tự bào chữa là
một trong những hình thức thực hiện QBC của người bị buộc tội và là nội dung
quan trọng của QBC trong TTHS. Pháp luật cho phép họ được tự mình thực hiện
các hành vi tố tụng, như đùng lý lẽ đưa ra chứng cứ và những yêu cầu có lợi cho
mình khi tham gia tố tụng mà không nhất thiết phải có sự tham gia của NBC.

15


Đối với bị can, bị cáo là người CTN, người bị nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất hoặc bị truy tố về một tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình
được quy định tại BLHS mà bị can, bị cáo hoặc người đại diện họp pháp của họ
không mời NBC thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân
công Văn phòng luật sư cử NBC cho họ hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm tự bào chữa
cho người bị buộc tội là người CTN như sau: “Tự bào chữa là quyền năng tố tụng
đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép người bị buộc tội là người
CTN tự mình có thể thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm bác bỏ sự
buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình ” [30, tr51].
Để thực hiện quyền tự bảo vệ mình trước sự buộc tội của các cơ quan THTT,
Bộ luật TTHS quy định cho người bị buộc tội được biết mình bị khởi tố về tội gì;
được nhận quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết
định đình chĩ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định
tố tụng khác theo quy định của pháp luật TTHS; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.

Tuy được pháp luật quy định cho các quyền nêu trên nhưng trong thực tế vì
trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, sự hạn chế về mặt nhận thức hay vì những
lý đo khác nhau mà người bị buộc tội là người CTN thường không thể vận dụng có
hiệu quả quyền tự bào chữa. Do đó, để bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị
buộc tội là người CTN đòi hỏi CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm
giải thích cho họ biết những biện pháp do luật định và tạo mọi điều kiện để họ có
thể vận dụng các quyền nêu trên. Nếu các cơ quan THTT không đảm bảo cho người
bị buộc tội là người CTN thực hiện QBC có nghĩa là vi phạm quy định của pháp
luật TTHS.
1.2.2.2 Về quyền nhờ người khác bào chữa
Quyền nhờ người khác bào chữa là hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư hay
những người khác theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ cho người bị buộc tội

16


thực hiện QBC của mình khi họ không đủ khả năng tự mình thực hiện hoặc trong
những trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có NBC nhằm bảo đảm tính
khách quan và tính hợp pháp của các hoạt động TTHS.
Quyền nhờ người khác bào chữa là một phần của QBC và là một đảm bảo
quan trọng để người bị buộc tội thực hiện các quyền tố tụng khác mà pháp luật quy
định để bào chữa trước sự buộc tội của cơ quan THTT.
Quy tắc 15.1 của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp
người CTN (Quy tắc Bắc Kinh) quy định: “Trong suốt quả trình tố tụng, người chưa
thành niên có quyền được nhờ cố vấn pháp lý đại diện cho mình hoặc yêu cầu sự
giúp đỡ pháp lý miễn phí như điều khoản quy định sự giúp đỡ như thể ở quốc gia đổ
Và tại Quy tắc 18 (a) của Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người CTN bị tưởc
quyền tự do quy định: "Người chưa thành niên cần phải có quyền có luật sư bào
chữa và có quyền yêu cầu sự giúp đỡ pháp ỉỷ khống phải trả tiền, nếu sự giúp đỡ đó
có sẵn, và có quyền thường xuyên tiếp xúc với luật sư của mình. Các bí mật và sự

riêng tư trao đổi đó phải được đảm bảo
Thực tiễn cho thấy, không phải người bị buộc tội nào cũng có khả năng thực
hiện quyền tự bào chữa một cách có hiệu quả, bên cạnh đó, xuất phát từ tâm sinh lý
của người CTN, là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện, tinh thần, nhận thức
pháp luật hạn chế, nên người CTN không thể tự mình bào chữa mà họ phải cần có
sụ hỗ trợ và đối xử đặc biệt ngay cả trong trường hợp họ vi phạm pháp luật. Chính
vì sự phát triển chưa đầy đủ đó có thể cản trở, gây khó khăn, hạn chế họ thực hiện
QBC của mình. Vì vậy, để đảm bảo hơn cho QBC của người người bị buộc tội
CTN, đồng thời để giúp đỡ họ về mặt pháp lý, nhà làm luật đã quy định rằng cơ
quan THTT có trách nhiệm mời NBC cho các chủ thể này khi họ hoặc đại diện hợp
pháp của họ không mời được NBC mà muốn có NBC.
Sự tham gia tố tụng của NBC là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp
và sự hiểu biết của mình, NBC tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để có thể
giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Đồng thời, sự tham gia của

17


NBC cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án, không để người CTN bị
buộc tội oan sai.
Quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa là hai nội dung của
QBC, nó có tác dụng bổ sung cho nhau chứ không triệt tiêu lẫn nhau và có thể cùng
song song tồn tại. Điều này có nghĩa là khi người bị buộc tội nhờ người khác bào
chữa cho mình thì họ vẫn cố quyền tự bào chữa và ngược lại, như tại phiên tòa, sau
khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội bị cáo được quyền trình bày lời bào chữa,
nếu bị cáo có nhờ NBC thì sau khi NBC bào chữa cho bị cáo, bị cáo vẫn có quyền
bổ sung ý kiến bào chữa.
1.2.2.3 Về quyền được bào chữa chỉ định
Người bị buộc tội là người CTN với đặc điểm lứa tuổi là những người chưa
phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, tâm sinh lý chưa ổn định, với nhiều suy

nghĩ và hành động còn mang tính bột phát, cảm tính, chưa có đầy đủ năn lực dể
kiểm soát hành vi của mình. Chính vì vậy ngoài các quyền lợi giống như người
thành niên phạm tội pháp luật TTHS còn có những quy định dành riêng cho người
bị buộc tội là người CTN. Về quyền bào chữa cũng vậy, người bị buộc tội là người
CTN do chưa phát triển đầy đủ, chưa có kinh nghiệm sống, chưa có kiến thức và
hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Cho nên họ không thề thực hiện quyền tự bào chữa
của mình một cách tốt nhất, vì vậy pháp luật TTHS quy định ngoài quyền tự bào
chữa, nếu họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người khác bào chữa
thì sẽ được các cơ quan THTT chỉ định bào chữa.
1.3 Các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa người bị buộc tội là người
chưa thành niên
1.3.1 Bảo đảm về mặt pháp lý
Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng của luật TTHS.
Trong thực tế, khi nói đến bào chữa, người ta thường cho ràng đó là chức năng đối
lập với chức năng buộc tội. Nếu hiểu như vậy là hoàn toàn sai lầm, bởi lẽ, khi Viện
kiểm sát đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì việc bào chữa không
làm cho bị cáo trở thành vô tội, mà chỉ có thể đưa ra những tình tiết giảm nhẹ

18


TNHS cho bị can, bị cáo. Buộc tội và bào chữa luôn song song tồn tại. QBC, đó là
một trong những quyền cơ bản của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là
người bị buộc tội. Bảo đảm QBC của người bị buộc tội nói chung xuất phát tò yêu
cầu bảo vệ QCN và bảo đảm nguyên tác xác định sự thật của vụ án trong TTHS. Cơ
sở pháp lý của việc bảo đảm QBC của người bị buộc tội được ghi nhận trong tất cả
các bản Hiến pháp từ năm 1945 đến nay.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật hiện hành một cách đầy đủ nhất. Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định
việc bảo đảm và cơ quan có trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện QBC của

người bị buộc tội. Ngoài ra Bộ luật TTHS năm 2003 còn có nhiều quy định liên
quan đến việc thực hiện và tạo điều kiện cho việc thực hiện QBC của người bị buộc
tội ở các điều khác nhau như các điều 56, 57, 58, 190, 217... Trong đó quy định về
quyền của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng; về nghĩa vụ của NBC, những
trường hợp cơ quan THTT phải đảm bảo có sự tham gia của NBC; trường hợp bào
chữa chỉ định mà NBC vắng mặt tại phiên tòa thì HĐXX phải hoãn phiên tòa; NBC
được trình bày lời bào chữa sau khi kiểm sát viên trĩnh bày lời luận tội. Những
trường hợp vi phạm các quy định trên đều ảnh hưởng tới QBC của người bị buộc tội
nói chung và bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tùy theo giai đoạn tố
tụng mà có các chế tài tố tụng khác nhau như trả hò sơ để điều tra bổ sung hay hủy
án để điều tra lại hoặc xét xử lại. Luật Tổ chức TAND năm 2014 cũng quy định cụ
thể: “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo
vệ lợi ích hợp pháp của đương sự”. Văn bản pháp lý góp phần quan trọng trong
việc bảo đảm thực hiện QBC của người bị buộc tội, đó là Luật luật sư năm 2006.
Đây là một trong những bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện chế định luật sư
nói chung và QBC của người bị buộc tội nói riêng. Luật Luật sư năm 2006 thể hiện
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung và
QBC của người bị buộc tội nói riêng.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục TTHS đối với người CTN
mặc dù chưa được đầy đủ nhưng cũng đã thể hiện rõ chính sách hình sự của Nhà

19


nước Việt Nam đối với người CTN. Ngay từ khi xây dựng Bộ luật TTHS đầu tiên
(năm 1988), chúng ta đã dành một chương riêng quy định về thủ tục đối với những
vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các quy định
này càng ngày càng hoàn thiện hơn.
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ; tạm giam,
khởi tố điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác

bào chữa”. Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Bộ luật TTHS năm 2015 đã có
những sửa đổi bổ sung lớn nhằm đảm bảo và hoàn thiện quyền con người, quyền
công dân trong đó có quyền bào chữa. Điều 16 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định
việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và cơ quan, người có thẩm
quyền THTT có trách nhiệm trong việc bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện
đầy đủ QBC của họ. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa.
1.3.2 Bảo đảm về mặt tổ chức
Bộ luật TTHS năm 2003 đã dành toàn bộ Chương XXXII - Phần thứ bảy để
quy định về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Thủ tục tố tụng đối với người bị
buộc tội là người CTN được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo
những quy định khác của Bộ luật TTHS không trái với những quy định của Chương
này. Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền trẻ em và có những
nỗ lực rất lớn trong lĩnh vực này. QCN nói chung và quyền trẻ em nói riêng được
thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau, rất đa dạng. Chính vì vậy mà việc bảo vệ các
quyền đó cũng rất đa dạng, bằng những phương thức, phương tiện và biện pháp
khác nhau cả về mặt tồ chức, quản lý, hành chính, kinh tế lẫn các biện pháp pháp lý,
đặc biệt là lĩnh vực TTHS. Luật TTHS bảo vệ các quyền của trẻ em theo cách riêng
của mình “Đó là trao cho các em những quyền tố tụng để họ tự bảo vệ quyền lợi của
mình, đồng thời quy định những điều khoản nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy
tố, xét xử VAHS được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, tránh làm oan
người vô tội”.
Như chúng ta đều biết, khi nói đến TTHS là nói đến trình tự, thủ tục điều tra,
truy tố, xét xử một VAHS cũng như quyền và nghĩa vụ của những người tham gia

20


tố tụng. Người CTN tham gia TTHS với nhiều tư cách rất khác nhau, do đó địa vị
pháp lý của họ trong TTHS cũng rất khác nhau. Từ đó, các quy định của pháp luật
TTHS để bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN cũng có

những nét riêng. Trước hết, người CTN tham gia TTHS với tư cách là người bị
buộc tội. Chúng ta đều biết rằng trong TTHS người bị buộc tội là nhân vật trung
tâm, mọi hoạt động TTHS đều xoay quanh việc tìm kiếm các chứng cứ để kết tội
hoặc gỡ tội cho người bị buộc tội. Có thể nói rằng không có người bị buộc tội thì
không có VAHS. Chính vì người bị buộc tội có một vị trí trung tâm, một địa vị pháp
lý đặc biệt để tự bảo vệ mình và nếu người bị buộc tội lại là người CTN thì cần có
những cơ chế hữu hiệu hơn để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các em, bởi lẽ họ là
những người còn non nớt, chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về trí tuệ và thể chất, họ
đang ở trong thời kỳ hình thành nhân cách, nhận thức và hiểu biết xã hội còn hạn
chế. Xuất phát từ nhận thức này mà Bộ luật TTHS nãm 2003 đã đành một chương
riêng quy định về thủ tục TTHS đối với những vụ án mà người bị buộc tội là người
CTN. Những điều khoản của Chương XXXII là những quy định đặc biệt áp dụng
cho bị can, bị cáo là người CTN. Bên cạnh đó, ngoài những quy định này ra thì
những quy định chung khác của Bộ luật TTHS cũng được áp dụng. Để cơ quan
THTT thực hiện tốt nhiệm vụ trên theo quy định của pháp luật, nhà nước đã thành
lập một số cơ quan, tổ chức như các đoàn luật sư, văn phòng luật sư, các tổ chức
TGPL, các cơ quan bổ trợ tư pháp...các cơ quan, tổ chức này đã góp phần không
nhỏ vào việc bảo vệ có hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng như
QBC của người bị buộc tội nói chung. Kế thừa, phát triển quy định trên của bộ luật
TTHS năm 2003, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về thủ tục tố tụng đối với
người CTN ở Chương XXVIII thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, đã có
những quy định cụ thể, chặt chẽ hơn để đảm bảo QBC của người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi.
Cơ quan THTT là những cơ quan được Bộ luật TTHS quy định có nhiệm vụ
bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện QBC của họ như đã khẳng định ở trên,
phải được tổ chức một cách hợp lý nhằm tăng cường tốt hơn nữa mối quan hệ giữa

21



×