VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI PHƯƠNG NAM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN
BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
Mã số: 60 38 01 04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
Cụng trỡnh c hon thnh ti: Hc vin Khoa hc Xó hi
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Vế TH KIM OANH
Phản biện 1: TS. TRN TH QUANG VINH
Phản biện 2: TS. INH TH MAI
Luận vn sẽ đ-ợc bảo vệ tr-ớc Hội đồng chấm luận vn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội 13 giờ 30 ngày 10 tháng 10 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Th- viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công
dân, là quyền hiến định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp
của nước Việt Nam. Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy
định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Hiến pháp 2013 đã mở rộng phạm vi các đối tượng được đảm bảo
quyền bào chữa, không chỉ bị can, bị cáo mới có quyền bào chữa như
các bản Hiến pháp cũ quy định, mà ngay từ khi một người bị bắt, đã
phát sinh quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa
đối với họ, được đảm bảo bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là
Hiến pháp. Quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa của một
công dân đã được quy định khá đầy đủ và cụ thể trong hệ thống pháp
luật của Nhà nước, đã được xác định từ nguyên tắc cơ bản trong Hiến
pháp cho đến những quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Người chưa thành niên phạm tội là một chủ thể đặc biệt của
Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, việc xử lý, áp dụng các thủ tục
tố tụng với người chưa thành niên phạm tội đòi hỏi phải có những
quy định riêng biệt.
Vì vậy, người viết chọn đề tài “Quyền bào chữa của người
bị buộc tội là người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” làm
đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của
TS. Đỗ Thị Phượng, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007.
- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, của TS. Lại Văn Trình, Đại học
Luật Tp.Hồ Chí Minh năm 2011.
- Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Đức và Hoa Kỳ, của TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, NXB Chính trị
Quốc gia năm 2013.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Trần Hưng
Bình, Học Viện Khoa học xã hội, năm 2014.
- Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự Việt Nam, của TS. Nguyễn Hữu Thế Trạch,
Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh năm 2014.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận, mang tính nguyên tắc của việc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố
tụng hình sự; những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa cho
người chưa thành niên hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
2
- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về bảo đảm quyền bào chữa nói chung, của người bị buộc tội là
người chưa thành niên nói riêng;
- Phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa ở Việt Nam trong những
năm gần đây
4. Đối tượng và phạm vi ngiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền bào chữa của người bị buộc tội
là người chưa thành niên từ thực tiễn Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí
Minh
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực tiễn quyền bào chữa của người bị buộc tội
là người chưa thành niên trên địa bàn Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí
Minh trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp
quyền, cải cách tư pháp, về quyền con người, quyền công dân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về việc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự.
3
Từ đó, đề xuất các giải pháp để bảo đảm quyền bào chữa cho
người chưa thành niên phạm tội, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
chế định này trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần
làm phong phú thêm lý luận về bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội là chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, cấu trúc luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của
người bị buộc tội là người chưa thành niên.
Chương 2: Quy định pháp luật về quyền bào chữa của người
bị buộc tội là người chưa thành niên và thực tiễn áp tại Quận Bình
Tân, Thành phố Hồ Chí Minh .
Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền bào chữa của người bị
buộc tội là người chưa thành niên.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1 Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên
1.1.1 Khái niệm về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
Quyền bào chữa là một trong những chế định pháp lý quan
trọng và phức tạp, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn
cao. Từ trước đến nay, QBC đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên
cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, bản chất chủ thể... của
quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, xác định khái niệm
QBC trên cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với quy định của pháp
luật là cần thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ, củng cố cơ sở
pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền
năng tố tụng hình sự của người bị buộc tội có thể sử dụng nhằm bác
bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến
hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ
án hình sự.
1.1.2 Khái niệm người chưa thành niên và người bị buộc
tội là người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển
hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm lý và nhân cách, chưa có đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên
5
Người bị buộc tội là người CTN là người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
1.1.3 Khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người CTN từ đủ
14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi - là tổng hợp các quyền năng tố tụng
hình sự của họ có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự
buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người CTN cũng
giống như quyền bào chữa của người đã thành niên. Nhưng đặc biệt
hơn, ngoài các quyền bào chữa như người đã thành niên, theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS năm 2003, khi người
bị buộc tội là người CTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không mời NBC thì các cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn
luật sư hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử NBC cho họ.
1.2 Đặc điểm và nội dung quyền bào chữa của người bị
buộc tội là người chưa thành niên
1.2.1 Đặc điểm quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên
Trong hoạt động TTHS, QBC là quyền quan trọng nhất của
người vi phạm pháp luật hình sự. Đây là tổng hợp các hành vi tố tụng
do người bị buộc tội thực hiện nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ
sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ
TNHS của mình trong VAHS. Thông thường sự tham gia của NBC
6
phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Họ có thể trực tiếp mời
hoặc ủy quyền cho người thân của mình mời NBC. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp đặc biệt luật quy định sự tham gia của NBC vào
trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Đó là
các trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS
năm 2003 khi những chủ thể này hoặc người đại diện hợp pháp của
họ không mời NBC thì các cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn
luật sư hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử NBC cho họ. Đó là
những trường hợp liên quan đến các bị can, bị cáo là người CTN,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc bị can, bị cáo
về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.
Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS là quy định
mang đầy tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Quy định về sự
tham gia của NBC vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của
người bị buộc tội mà là làm tăng thêm tính bảo đảm QBC cho họ.
QBC và sự tham gia của NBC không chỉ cần thiết, có ích cho người
bị buộc tội là người CTN mà còn cần thiết, có ích cho hoạt động tố
tụng của chính các cơ quan THTT. Sự đối trọng, phản biện của hoạt
động bào chữa đối với hoạt động của các cơ quan thực hiện chức
năng buộc tội CQĐT, VKS chính là yếu tố hạn chế sai lầm, hạn chế
làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này đồng
thời buộc những cơ quan này phải không ngừng hoàn thiện năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ QCN
trong TTHS.
7
1.2.2 Nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên
Theo quy định tại Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định
về việc bảo đảm QBC của người bị buộc tội, trong đó nêu rõ: “Người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của Bộ luật này”. Tại Điều này tuy không quy
định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chửa của người
CTN nhưng với quy định chung về quyền này của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo thì đương nhiên người CTN trong trường hợp là người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng sẽ có đầy đủ quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa. Còn các cơ quan THTT có trách nhiệm
bảo đảm để cho người bị buộc tội là người CTN thực hiện QBC của
mình.
1.2.2.1 Về quyền tự bào chữa.
Tự bào chữa đối với người bị buộc tội là người CTN là
quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho
phép người bị buộc tội là người chưa thành niên tự mình có thể thực
hiện các hành vi tổ tụng và quyền tố tụng nhằm bác bỏ sự buộc tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình.
1.2.2.2 Về quyền nhờ người khác bào chữa
Quyền nhờ người khác bào chữa là hình thức giúp đỡ pháp
lý của luật sư hay những người khác theo quy định của pháp luật
nhằm hỗ trợ cho người bị buộc tội thực hiện QBC của mình khi họ
8
không đủ khả năng tự mình thực hiện hoặc trong những trường hợp
pháp luật quy định bắt buộc phải có NBC nhằm bảo đảm tính khách
quan và tính hợp pháp của các hoạt động TTHS.
1.2.2.3 Về quyền được bào chữa chỉ định
Ngoài các quyền lợi giống như người thành niên phạm tội
pháp luật TTHS còn có những quy định dành riêng cho người bị
buộc tội là người CTN. Về quyền bào chữa cũng vậy, người bị buộc
tội là người CTN do chưa phát triển đầy đủ, chưa có kinh nghiệm
sống, chưa có kiến thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Cho nên
họ không thề thực hiện quyền tự bào chữa của mình một cách tốt
nhất, vì vậy pháp luật TTHS quy định ngoài quyền tự bào chữa, nếu
họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người khác bào
chữa thì sẽ được các cơ quan THTT chỉ định bào chữa.
1.3 Các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa người bị buộc
tội là người chưa thành niên
1.3.1 Bảo đảm về mặt pháp lý
Quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật hiện hành một cách đầy đủ nhất. Điều 11 Bộ
luật TTHS năm 2003 đã quy định việc bảo đảm và cơ quan có trách
nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện QBC của người bị buộc tội.
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm
giữ; tạm giam, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Điều 16 Bộ luật TTHS năm
2015 quy định việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
và cơ quan, người có thẩm quyền THTT có trách nhiệm trong việc
9
bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ QBC của họ. Người
bị buộc tội có quyền tự báo chữa, nhờ người bào chữa.
1.3.2 Bảo đảm về mặt tổ chức
Bộ luật TTHS năm 2003 đã dành toàn bộ Chương XXXII Phần thứ bảy để quy định về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Thủ
tục tố tụng đối với người bị buộc tội là người CTN được áp dụng
theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác
của Bộ luật TTHS không trái với những quy định của Chương này.
Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền trẻ em và
có những nỗ lực rất lớn trong lĩnh vực này. Việc đảm bảo QBC của
người CTN tiếp tục được khẳng định và đảm bảo trong Bộ luật
TTHS năm 2015, ngoài việc tiếp tục khẳng định lại những quy định
trên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung một số quyền mới đã
giúp cho người bị buộc tội cỏ chỗ đứng công bằng trong quá trình
tranh tụng, trong quá trình chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho mình.
1.3.3 Bảo đảm về mặt nhận thức
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người CTN không
thể thực hiện được một cách triệt để hiệu quả, khi mà cơ quan THTT,
người THTT, người tham gia tố tụng cũng như các cơ quan nhà nước
khác, tổ chức xã hội và mọi công dân không nhận thức đúng nội
dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó.
Kết luận chương 1
10
Chương 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào
chữa người bị buộc tội là người chưa thành niên
2.1.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào
chữa người bị buộc tội là người chưa thành niên theo Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988
Trong Bộ luật TTHS này, lần đầu tiên đã có một chương
riêng “Thủ tục đặc biệt”, quy định thủ tục về những vụ án mà người
bị buộc tội là người CTN - Chương XXXI. Chính từ việc quy định
thành một chương riêng như vậy nên các thủ tục tố tụng đối với
người bị buộc tội là người CTN cũng trở nên chặt chẽ hơn khi chưa
có Bộ luật TTHS. Với mười điều luật (từ Điều 271 đến Điều 280),
Bộ luật TTHS năm 1988 đã quy định về các vấn đề như phạm vi áp
dụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và giám sát đối với
người CTN, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, việc
tham gia của đại diện gia đình, tổ chức xã hội và NBC trong những
vụ án mà người bị buộc tội là người CTN. về phạm vi áp dụng được
quy định cụ thể tại Điều 271 như sau: “Thủ tục tố tụng đối với
những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên được áp
dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định
khác của Bộ Luật này không trái với những quy định của Chương
11
này”. Điểm nổi bật nhất trong Chương XXXI là quyền và lợi ích
hợp pháp của người CTN được thể hiện rõ nét tại Điều 273 quy định
về việc bắt, tạm giữ, tạm giam: “.. có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam
nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 62, 63, 64, 68 và 71 Bộ luật
này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng
do cố ỷ hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” ... Như vậy, nếu bị
can, bị cáo là người CTN phạm tội ít nghiêm trọng sẽ không bị áp
dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam có thể gây ra cho các em
những ảnh hưởng rất lớn về mặt tâm lý.
Bộ luật TTHS năm 1988 đã quy định một cách rõ ràng và
chặt chẽ hơn về quyền bào chữa. Đó là, CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa
án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử NBC cho bị can, bị cáo, nếu bị can,
bị cáo không tự lựa chọn được. Đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo
có thể lựa chọn NBC hoặc tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo.
Đồng thời bị can, bị cáo là người CTN và người đại diện hợp pháp
của họ cũng có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC (Điều 37)
đối với NBC do cơ quan THTT yêu cầu Đoàn luật sư cử. Đại diện
gia đình cũng phải có mặt khi CQĐT hỏi cung bị can và phải có mặt
tại phiên tòa xét xử (Điều 276).
Hiến pháp 1992 ra đời, Điều 132 tiếp tục khẳng định
“Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được
thành lập để giúp đỡ bị cáo... ”
12
2.1.2 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào
chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên theo Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003
Bộ luật TTHS năm 2003 được Quốc hội khóa XI tại kỳ họp
thứ tư đã thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Đã
được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, và ghi nhận thêm một số
điều luật mới. Một trong những nội dung sửa đổi quan trọng liên
quan đến nguyên tắc bảo đảm QBC được quy định tại Điều 11 với
tên gọi: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo”. Bộ luật TTHS năm 2003 một lần nữa khẳng định việc bảo
đảm QBC là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS, đồng thời mở rộng
đối tượng được hưởng QBC cả đối với người bị tạm giữ mà không
chỉ đối với bị can, bị cáo như các quy định trước đó. Việc bổ sung
quyền này đối với người bị tạm giữ xuất phát từ quan điểm cho rằng
người bị tạm giữ được xác định là người bị tình nghi thực hiện tội
phạm đối với VAHS, do vậy họ có quyền được bào chữa.
Đối với người CTN, Bộ luật TTHS năm 2003 cũng quy định
người đại diện hợp pháp của bị cáo là người CTN có thế lựa chọn
NBC hoặc tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo. Trong trường hợp bị
can, bị cáo là người CTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không lựa chọn được NBC thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải
yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử NBC cho họ
hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của mặt trận cử NBC cho thành viên tổ chức mình.
13
Bộ luật TTHS năm 2003 cũng ghi nhận NBC có quyền
tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can đồng thời bổ sung thêm quy
định “Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và 82
của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tổ tụng từ khỉ có
quyết định tạm giữ”.
Việc bảo đảm QBC được thực hiện suốt quá trình tố tụng từ
khi người CTN bị tạm giữ, bị khởi tố, cho đến khi Tòa án đưa vụ án
ra xét xử và tuyên bản án tại phiên tòa. Bộ luật TTHS năm 2003 quy
định thời điểm NBC có thể tham gia tố tụng sớm hơn, ngay từ khi có
quyết định tạm giữ. Quy định này nhằm bảo đảm quyền tự do dân
chủ của công dân, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan THTT, góp
phần chống oan sai trong TTHS.
2.1.3 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào
chữa của người bị buộc tôi là người chưa thành niên theo Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015
Bộ luật TTHS năm 2015 được Quốc hội nước ta thông qua
ngày 27/11/2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) sẽ có hiệu lực từ ngày
01/01/2018 , có nhiều thay đổi cơ bản về quyền bào chữa, nhằm cụ
thể hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013 và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội nói chung và đối với người bị
buộc tội là người CTN nói riêng.
Trong Hiến pháp năm 2013, tinh thần của nguyên tắc quy
đoán vô tội đã được thể hiện rõ “người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khỉ được chứng minh theo trình tự luật định và
có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Cụ thế hóa
14
tinh thần Hiến pháp năm 2013, Bộ Luật TTHS năm 2015 lần đầu
tiên quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được
coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Khỉ không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cử
để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tổ tụng phải kết luận người
bị buộc tội không có tội.
Bên cạnh bổ sung các nguyên tắc chung thì lần đầu tiên Bộ
luật TTHS năm 2015 tại điều 414 quy định các nguyên tắc tiến hành
tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, đây là những nguyên tắc quan
trọng trong hoạt động TTHS có sự tham gia của người CTN, mà các
cơ quan THTT, người THTT phải tuân thủ để đảm bảo vệ quyền và
lợi ích của người CTN.
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa, đây là một quy định nhân văn, phù hợp đặc điểm về lứa tuổi,
tâm sinh lý và sự phát triển về thể chất của người dưới 18 tuổi. Bộ
luật TTHS năm 2003 chỉ quy định người đại diện hợp pháp của
người CTN tự bào chữa hoặc lựa chọn người bào chữa cho người
CTN, thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định người CTN được trực
tiếp thể hiện, thực hiện quyền này.
Để đảm bảo tính đồng bộ cho thực hiện QBC của người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi, Bộ luật TTHS năm 2015 đồng thời
cũng quy định người THTT đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải
15
là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét
xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về
tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi; Thành
phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo
viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu
biết tâm lý người dưới 18 tuổi; Phiên tòa xét xử bị cáo là người dưới
18 tuổi phải có mặt người đại diện của bị cáo, đại diện của nhà
trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt.
2.2 Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị
buộc tội là người chưa thành niên trên địa bàn Quận Bình Tân
2.2.1 Khái quát tình hình người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn Quận Bình Tân
Tổng số người chưa thành niên bị truy tố, xét xử từ năm
2011 đến năm 2016 là 217 bị cáo.
2.2.2 Những kết quả đạt được trong việc thực hiện quyền
bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên
Từ năm 2011 đến năm 2016, Toà án nhân dân Quận Bình
Tân, Tp.Hồ Chí minh đã đưa ra xét xử 2.257 vụ án với 2.914 bị cáo
trong đó có 217 bị cáo là người chưa thành niên.
Để đảm bảo QBC cho các bị can, bị cáo là người CTN, trong
công tác xét xử, Tòa án Quận Bình Tân đã thực hiện đổi mới thủ tục
xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở quy định của Bộ luật
TTHS và theo tinh thần CCTP. Tòa án đã tạo điều kiện, bảo đảm cho
những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ hợp pháp của họ, nhất là đối với bị cáo là người CTN. Việc phán
16
quyết của Tòa án đã căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và
các chứng cứ trong hồ sơ. Viện kiểm sát với chức năng, nhiệm vụ
vừa là cơ quan trực tiếp tiến hành tố tụng vừa là cơ quan kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng, bên cạnh việc bảo
đảm QBC cho người CTN, Viện kiểm sát cũng bảo đảm việc xử lý
nghiêm minh đúng người, đúng tội, nhất là đối với người bị buộc tội
là người CTN.
Tất cả các vụ án có người bị buộc tội là người CTN, khi
được điều tra, xét xử đều được đảm bảo về quyền bào chữa, đều có
luật sư bào chữa bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
2.2.3 Những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện quyền
bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên
2.2.3.1 Hạn chế từ phía người bào chữa
Đối với luật sư chỉ định, vẫn còn xảy ra tình trạng do nhận
thức việc bào chữa là theo yêu cầu của cơ quan THTT nên không có
thái độ tích cực, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án...Khi bào chữa
cho người bị buộc tôi là CTN, người bào chữa đôi khi còn hình thức,
qua loa. Chưa coi trọng việc việc bào chữa chỉ định và còn thiếu tinh
thần trách nhiệm trong việc bào chữa, làm theo kiểu nghĩa vụ, phát
biểu chung chung,
2.2.3.2 Hạn chế về ý thức trách nhiệm của cơ quan THTT,
người THTT
Khi áp dụng những quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án mà người bị buộc tội
17
là người CTN, chưa có cơ quan và đội ngũ cán bộ chuyên trách để
giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện,.
Đôi khi về ý thức trách nhiệm các cơ quan THTT, người
THTT còn chưa tích cực giải thích cho họ biết mình có quyền bào
chữa, nhờ người khác bào chữa và được bào chữa chỉ định theo quy
định pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người bị
buộc tội là người CTN.
2.2.3.3 Hạn chế bất cập về cơ sở vật chất, về trình tự thủ
tục phiên tòa xét xử người bị buộc tội là người CTN
Việc xét xử được tiến hành ở phòng xử án chính thức dành
chung cho cả người thành niên và người CTN. Về cơ sở vật chất để
tiến hành hoạt động điều tra, phúc cung lấy lời khai: cụ thể là phòng
hỏi cung. Hiện nay, bị can là người CTN vẫn bị hỏi cung, phúc
cung tại những nơi lấy cung của người thành niên.
2.2.3.4 Những hạn chế xuất phát từ ý thức của người bị
buộc tội là người CTN và đại diện hợp pháp của họ
Nguyên nhân khiến QBC của người bị buộc tội là người
CTN chưa được đảm bảo trọn vẹn xuất phát từ chính bản thân họ
khi không hiểu biết về quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa
và quyền được bào chữa chỉ định nên không thực hiện được quyền
bào chữa của mình.
2.2.4 Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc
thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên
18
2.2.4.1 Nguyên nhân do còn bất cập trong quy định của
pháp luật
Điều 302 Bộ luật TTHS năm 2003 cũng chỉ mới đề cập tới
việc điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán “phải là người có
những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, về khoa học giáo' dục cũng
như về hoạt động đấu tranh và phòng chống tội phạm của người
chưa thành niên” chứ không bắt buộc họ phải là người được đào tạo
hoặc có chuyên môn về tâm lý học, về khoa học giáo dục người
CTN. Chính từ điều này đã gây ảnh hưởng đến chất lượng điều tra,
truy tố, xét xử bị can, bị cáo là người CTN và dẫn đến sự vi phạm về
quyền và lợi ích họp pháp của các chủ thể đặc biệt này.
Quy định việc quyết định xét xử kín đối với bị cáo là người
CTN tại khoản 1 Điều 307 Bộ luật TTHS năm 2003 cũng chưa rõ
ràng “Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết định xét xử
kín”. Đa số vụ án xét xử người CTN được tiền hành xét xử công
khai mà không được xét xử kín theo quy định tại Điều 307, không
đảm bảo mục đích xử lý người CTN phạm tội.
2.2.4.2 Nguyên nhân do quy định pháp luật chưa cụ thể,
chưa có hướng dẫn kịp thời
Tuy Bộ luật TTHS năm 2003 có một chương độc lập về thủ
tục tố tụng đối với người CTN, nhưng lại chưa có văn bản pháp luật
nào quy định về đội ngũ những người THTT chuyên trách các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đối với những vụ
án do người CTN thực hiện. Điều đó cho thấy, hiện nay những người
19
THTT đang phải kiêm nhiệm giải quyết cả các vụ án do người thành
niên thực hiện.
Tòa án chuyên trách chỉ mới thành lập ở một số toà cấp tỉnh
như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Chưa thành lập các toà án
chuyên trách về người CTN ở cấp quận/huyện.
2.2.4.3 Nguyên nhân từ phía người bị buộc tội là người CTN
và đại diện hợp pháp của họ
Về nhận thức người bị buộc tội là người CTN thiếu hiểu biết
về pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng. Trình độ học
vấn của người bị buộc tội là người CTN thấp, thậm chí là không biết
chữ, thiếu những kênh thông tin về pháp luật nên không thể thực
hiện hoặc không thực hiện hiệu quả bào chữa của minh.
Kết luận chương 2
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ
BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1 Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự theo tinh thần
cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013
3.1.1 Yêu cầu nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội là người chưa thành niên ở Việt Nam hiện
nay
Thực tiễn TTHS Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ
khi Nghị quyết của Bộ Chính trị sổ 08 và Nghị quyết của Bộ Chính
20
trị số 49 được ban hành, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội trong TTHS, cụ thể QBC được mở rộng hơn
và được coi trọng rất nhiều so với trước đây và ngày một đảm bảo
hơn.
3.1.2 Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là
người chưa thành niên đáp ứng với yêu cầu hội nhập quốc tế
Nhu cầu hoàn thiện vấn đề đảm bảo QBC của người bị buộc
tội là người CTN là tất yếu. cần phải có sự quan tâm, chỉ đạo thường
xuyên của Đảng, Nhà nước, sự tham gia của chính quyền các cấp và
các ngành, đoàn thể trong việc thực hiện các quyền trẻ em; hệ thống
pháp luật TTHS và chính sách trong lĩnh vực này cần được hoàn
thiện hơn nữa về tính hiệu quả, khách quan, dân chủ và nhất là phải
mang tính đồng bộ và tổ chức thực hiện nghiêm túc. Có như thế
QBC của người bị buộc tội là người CTN mới được thực sự bảo
đảm thực hiện.
3.2 Các giải pháp cụ thể
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến
quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên
Bộ luật TTHS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII kỳ họp
thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung
một cách cơ bản toàn diện các bất cập vướng mắc, tồn tại của Bộ
luật TTHS năm 2003 sau hơn 12 năm thi hành. Thể chế hóa các nghị
quyết của Đảng về CCTP, Hiến pháp năm 2013 cũng như hoàn thiện
21
các quy định về trình tự, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
người CTN, kể cả về các mặt các quyền và nghĩa vụ tố tụng và
người tham gia tố tụng nhằm tăng cường bảo đảm QBC của người bị
buộc tội là người CTN và để từ đó tạo điều kiện cho việc giải quyết
vụ án người CTN một cách đúng đắn, khách quan toàn diện và có
hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm là
người CTN.
3.2.2 Các giải pháp khác
3.2.2.1 Nâng cao trình độ, năng lực của người tham gia tố
tụng hình sự
Điều 415 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: người THTT
đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào tạo
hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Do đó, cần tăng cường công tác
đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ của những người làm
công tác THTT.
3.2.2.2 Tăng cường đội ngũ luật sư, người bào chữa
Xây dựng đội ngũ những người làm công tác bào chữa thực
sự có năng lực, không chỉ thỏa mãn các điều kiện về tiêu chuẩn pháp
luật mà cái chính ở đây là phải đáp ứng được những yêu cầu của
thực tiễn tố tụng.
3.2.2.3 Nâng cao ý thức pháp luật cho người chưa thành
niên và cho nhân dân
22
Cần tăng cường việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong các
nhà trường, cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, cha mẹ các thành
viên gia đình của người CTN về vấn đề liên quan đến tội phạm do
người CTN thực hiện. Việc tuyên truyền pháp luật trong nhân dân
cần được tiến hành một cách toàn diện, không chỉ là việc giáo dục
pháp luật thông qua thực tiễn xét xử.
3.2.2.4 Tăng cường sự phổi hợp giữa các tổ chức xã hội,
nhà trường và gia đình của người CTN phạm tội khi họ được miễn
TNHS trong việc quản lý, giảm sát và giáo dục các em
Đẩy mạnh công tác phối họp giữa gia đình và nhà trường
trong việc quản lý và giáo dục người CTN phạm tội khi họ được
miễn TNHS. Tăng cường sự phối họp giữa các tổ chức xã hội và gia
đình trong việc giám sát, giáo dục người CTN phạm tội khi họ được
miễn TNHS.
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN
Luận văn đã phân tích được thực trạng pháp luật Việt Nam
về QBC của người bị buộc tội là người CTN và làm rõ những bất
cập trong quy định của pháp luật về vấn đề này. Luận văn cũng đã
làm rõ thực trạng thực hiện QBC của người bị buộc tội là người
CTN ở Việt Nam trong những năm gần đây, từ đó đánh giá những
hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và xác định được
nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó. Trên cơ sở đó,
người viết đã đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện QBC
của người bị buộc tội là người CTN.
23