Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.06 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VƢƠNG THANH TUẤN

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VƢƠNG THANH TUẤN

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số



: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác.
Ngƣời cam đoan

Vƣơng Thanh Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ........................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong
giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ............................7
1.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ..........................................14
1.3. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai

đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt .................................27
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM .........................38
2.1. Khái quát tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ở tỉnh Quảng Nam ...................38
2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn ......................................39
2.3. Những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam và nguyên nhân .......................................................................49
CHƢƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ......................59
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ..........................................59
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt .................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT

: An ninh trật tự

BPNC

: Biện pháp ngăn chặn


BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CQCSĐT

: Cơ quan cảnh sát điều tra

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT


: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

2.2.

Tỷ lệ áp dụng biện pháp bắt người trên tổng số người bị
truy tố
Tỷ lệ áp dụng biện pháp tạm giam trên tổng số người bị truy
tố

Trang

39

45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một chế định quan trọng của pháp luật tố
tụng hình sự (TTHS), là phương tiện cưỡng chế của Nhà nước có hiệu quả nhất để
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Mặt khác, nó còn là phương tiện pháp lý bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả người liên quan đến tội phạm chưa bị
khởi tố, bị can, bị cáo, cũng như bản thân của họ.
Việc áp dụng các BPNC đối với người có hành vi phạm tội được xem là một
yếu tố quan trọng, thiết yếu của quá trình điều tra, bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến
sinh mệnh chính trị và các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói chung, điều
vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng cho thấy, việc áp dụng
các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hết sức phức tạp, nhạy cảm và còn
nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc áp dụng
các BPNC không chỉ là áp dụng pháp luật đơn thuần mà còn phải cân nhắc đến
nhiều yếu tố như pháp luật, chính trị, nghiệp vụ, vấn đề quyền con người để cân
nhắc tính toán, hạn chế đến mức thấp nhất những sơ hở, thiếu sót.
Tuy nhiên, trong khoa học luật TTHS, chế định các BPNC vẫn chưa được
quan tâm, nghiên cứu một cách thỏa đáng đối với tầm quan trọng của nó theo định
hướng của Đảng về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng ngừa và
đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng các BPNC thời gian qua đã đạt được
những kết quả đáng kể, thu được những kinh nghiệm nhất định, nhưng đồng thời
cũng bộc lộ những hạn chế, tồn tại, vướng mắc về nhận thức, tổ chức thực hiện...
cần phải được nghiên cứu giải quyết.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Áp dụng các biện pháp ngăn
1


chặn trong giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn
thạc sĩ nhằm đáp ứng yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luôn được Nhà nước, cơ
quan chức năng xác định vị trí quan trọng, cần được tập trung tiến hành. Vì tính

chất quan trọng của việc áp dụng các BPNC nên chúng trở thành trọng tâm nghiên
cứu không những của các nhà lý luận mà cả những cán bộ làm công tác thực tiễn
trong các ngành bảo vệ pháp luật ở trong và ngoài nước.
Các BPNC được quy định trong Bộ Luật tố tụng hình sự (BLTTHS) của hầu
hết các nước trên thế giới. Vì vậy, có nhiều tác giả ở trong nước cũng như nước
ngoài đã nghiên cứu nội dung áp dụng các BPNC với phạm vi khác nhau. Riêng
dưới góc độ luật TTHS, các công trình nghiên cứu về áp dụng các BPNC khá phong
phú và đa dạng ở nước ngoài, nhất là các nước như Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật
Bản, Đức. Việc tiếp cận, nghiên cứu các công trình về áp dụng các BPNC dưới góc
độ luật TTHS cũng rất thuận lợi, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế và hợp tác
trên nhiều lĩnh vực như hiện nay. Đây là điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, so sánh
quy định về các BPNC trong BLTTHS Việt Nam với BPNC trong LTTHS các
nước, trên cơ sở đó có sự tham khảo nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật Việt Nam cho phù hợp, hội nhập được với thế giới.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp luật TTHS, cũng có các
công trình nghiên cứu về áp dụng các BPNC trong điều tra hình sự. Bỡi lẽ, việc
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn điều tra tội phạm để hình thành lý luận về phương
pháp, chiến thuật điều tra là một đòi hỏi bức thiết đối với mọi quốc gia. Tuy nhiên,
đến nay trên thế giới chưa có công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu về áp
dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu.
Ở trong nước, trên các góc độ, khía cạnh nghiên cứu khác nhau đã có một số
đề tài, công trình khoa học có liên quan đến đề tài. Cụ thể:
- Giáo trình: Do là một chế định rất quan trọng trong BLTTHS, vì vậy, đã có
2


rất nhiều giáo trình, sách tham khảo nghiên cứu, đề cập đến BPNC dưới góc độ luật
TTHS như: Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội; Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001;
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007;

Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb
Công an nhân dân, năm 1995 của Tiến sĩ Nguyễn Vạn Nguyên; Những biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997 của
Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ; Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự- những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, năm 1999 của Tiến sĩ Nguyễn
Duy Thuân; Hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Namnhững vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của lực lượng cảnh sát nhân dân, Nxb
Công an nhân dân, năm 2001 của Tiến sĩ Trịnh Văn Thanh; Về tự do cá nhân và
biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005 của Tiến sĩ
Trần Quang Tiệp; sách chuyên khảo “Chiến thuật điều tra hình sự”, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2010 của PGS.TS Nguyễn Huy Thuật…
Các giáo trình và sách tham khảo nói trên đã tập trung nghiên cứu về các
BPNC dưới góc độ luật TTHS. Vì vậy, nó có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu đề tài
ở khía cạnh lý luận cơ sở pháp lý.
- Luận án, luận văn, đề tài khoa học
+ Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Hình pháp học: “Áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát nhân dân” của
nghiên cứu sinh Trịnh Văn Thanh, năm 2000.
+ Luận án tiến sĩ luật học năm 2005, chuyên ngành Luật hình sự: “Các biện
pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp” của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Điệp.
+ Luận văn luật học năm 2015, chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự:
“Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam”
của Trần Thị Phượng.
+ Luận văn thạc sĩ luật học năm 2014 “ Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
3


điều tra vụ án hình sự” của Nguyễn Đăng Dũng…
Tuy nhiên, các công trình nói trên chủ yếu đề cập đến một số BPNC cụ thể
hoặc chưa nghiên cứu cụ thể các BPNC trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm

phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách chuyên sâu, hệ thống, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về các BPNC trong giai đoạn điều tra hình sự xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về các BPNC và thực tiễn áp dụng các BPNC
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa
bàn một tỉnh, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung, vụ án
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riệng.
3.2. Nhiệm vụ nghiện cứu
- Làm rõ những nhận thức cơ bản về các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt (khái niệm, đặc điểm liên quan, cơ sở
áp dụng…)
- Đánh giá đúng thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thực tiễn áp dụng BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về áp dụng các BPNC trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu tình hình thực tiễn từ năm 2012 đến nay
(2017).
+ Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi toàn tỉnh Quảng Nam, tập
trung chủ yếu ở các huyện, thị xã, thành phố đã xảy ra nhiều án hình sự xâm phạm
sở hữu có tính chiếm đoạt như: TP Tam Kỳ, TP Hội An, TX Điện Bàn, huyện Núi
Thành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu luận
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
khảo sát điển hình, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận về khoa học Luật
TTHS, điều tra hình sự nói chung và vấn đề áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng.
6. Ý nghĩa thực tiễn
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, xác lập cơ sở pháp lý, đề xuất giải pháp, kiến
nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong thời gian tới.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
5



giảng dạy chuyên ngành luật hình sự, Luật TTHS và điều tra hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
Chương 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn và áp dụng biện pháp ngăn chặn
Các BPNC là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số quyền và tự do cá
nhân nên chúng được quan tâm không những từ phía các nhà lập pháp mà cả những
nhà nghiên cứu khoa học luật TTHS ở nước ngoài cũng như trong nước.
Tuy vậy, BLTTHS năm 2003 vẫn chưa có quy phạm định nghĩa về khái niệm
BPNC.
Nghiên cứu pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới như: Liên bang
Nga, Nhật Bản, Cộng hòa Pháp, Thái Lan, Malayxia, Canada, Hàn Quốc.v.v., cho

thấy, các nước quy định rất khác nhau về số lượng các BPNC, trình tự, thủ tục áp
dụng các biện pháp đó.
Bộ luật TTHS Liên bang Nga có quy định về bảy biện pháp ngăn chặn: cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh của cá nhân, giám sát của đơn vị quân đội, theo dõi người
bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm, giam tại nhà, tạm giam (Mục 13 – Các BPNC; chương IV – Các biện pháp
cưỡng chế tố tụng), nhưng cũng không có quy phạm định nghĩa về khái niệm BPNC
[43].
Bộ luật TTHS Nhật Bản không sử dụng cụm từ “biện pháp ngăn chặn”, mà
quy định trình tự, thủ tục bắt người tình nghi, giam giữ người bị tình nghi, bắt khẩn
cấp người bị tình nghi, bắt người phạm tội quả tang tại Chương I – Điều tra và thẩm
vấn, quyển II – Sơ thẩm [45].
7


Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức có sử dụng cụm từ BPNC tại Mục 7 –
Giám sát tư pháp và BPNC là giám sát tư pháp và tạm giam, nhưng cũng không đưa
ra khái niệm BPNC [42].
Các chuyên gia luật học của nước ngoài đã nêu ra những khái niệm khác nhau
về BPNC, phản ánh được khái quát những đối tượng nghiên cứu mà chúng ta cần
tham khảo, tiếp thu, như: quan niệm về bản chất pháp lý của BPNC, về sự cưỡng
chế nhà nước mang tính phòng ngừa, về quyền lựa chọn BPNC trong TTHS.
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có nhiều khái niệm khác nhau về
BPNC, như:
- Trước hết, từ điển luật học giải thích BPNC là biện pháp cưỡng chế về mặt
tố tụng hình sự khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm
cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có
hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [40]. Từ điển
đã xác định đúng đối tượng và mục đích áp dụng các BPNC, nhưng không chỉ ra

chủ thể có quyền áp dụng chúng.
- Một số khái niệm khác về BPNC của các nhà khoa học nghiên cứu pháp luật,
cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm được công
bố trong các giáo trình Luật TTHS Việt Nam, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên
ngành luật học. Các khái niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích nội dung của các quy
phạm pháp luật tại Điều 61 BLTTHS năm 1988, Điều 79 BLTTHS năm 2003 và
Điều 109 BLTTHS năm 2015, cũng như thực tiễn áp dụng chúng trong công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
- Điều 79 BLTTHS năm 2003 quy định những biện pháp ngăn chặn bao gồm:
bắt (bao gồm bắt khẩn cấp), tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đây là những biện pháp cưỡng chế cần thiết
của TTHS nhằm tước bỏ hoặc hạn chế một phần các quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp ghi nhận [35].
- Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định những biện pháp ngăn chặn bao gồm:
8


giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để
bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Như vậy, biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng là bị can, bị
cáo hoặc những người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang do Bộ luật TTHS quy định.
Mục đích của việc áp dụng BPNC là để cho người phạm tội không có điều
kiện tiếp tục thực hiện tội phạm; chặn đứng hành động chống đối; không để cho
người phạm tội trốn tránh pháp luật, đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và chấp hành án hình sự được đúng đắn, kịp thời góp phần nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Từ các nội dung trên có thể rút ra một số đặc điểm sau của các BPNC:
- Bản chất pháp lý: biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa.

- Căn cứ cụ thể áp dụng: những tài liệu nói lên khả năng cản trở việc xác định
sự thật của vụ án, khả năng trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử từ phía bị can, bị
cáo hoặc khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm của họ và có chứng cứ khẳng định
một người đã thực hiện tội phạm, cũng như các điều kiện áp dụng đã được luật hóa.
Những tài liệu đó phải thể hiện trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ ra quyết định áp
dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC.
- Chủ thể có quyền áp dụng BPNC: người có quyền hạn được quy định tại
BLTTHS.
- Đối tượng bị áp dụng: người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can,
bị cáo.
- Mục đích áp dụng: ngăn chặn đối tượng nói trên phạm tội và bảo đảm cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự được thực hiện đúng pháp
luật.
Từ sự phân tích ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm BPNC như sau: Biện pháp
ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa do người có
quyền hạn được quy định trong Bộ luật TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người
9


có dấu hiệu của tội phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng, nhằm ngăn chặn
tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự
được đúng đắn và kịp thời.
Và có thể đưa ra khái niệm áp dụng Biện pháp ngăn chặn như sau: Áp dụng
biện pháp ngăn chặn là việc chủ thể có quyền hạn quyết định thực hiện biện pháp
ngăn chặn được quy định trong Bộ luật TTHS đối với bị can, bị cáo, người có dấu
hiệu của tội phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng, nhằm ngăn chặn tội
phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được
đúng đắn và kịp thời.
Các BPNC trong Bộ luật TTHS và việc áp dụng nó được sử dụng hầu như đối
với mọi vụ án hình sự. Chúng có tác dụng ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc cản

trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bảo đảm cho quá trình giải
quyết vụ án theo đúng thủ tục và thời hạn đã quy định, nên có ý nghĩa rất to lớn
trong công cuộc phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm thể hiện qua các khía cạnh,
như:
Thứ nhất, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể hiện sự
chuyên chính của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm bằng sức mạnh cưỡng
chế.
Thứ hai, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa tạo
điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý vụ án.
Thứ ba, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể hiện tính
ưu việt của Nhà nước XHCN: đấu tranh kiên quyết với tội phạm, bảo vệ trật tự pháp
luật XHCN.
Thứ tư, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa to
lớn trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền tự do cá nhân được Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận.
1.1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý
nào về “hoạt động điều tra” và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ
10


quan có thẩm quyền. Trong tất cả các Bộ luật tố tụng hình sự chưa có điều luật nào
giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra.
Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp luật tố
tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực hiện thường
xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa học pháp lý và thực
tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống nhất nhận thức về hoạt
động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm điều tra, thẩm quyền điều tra
vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều tra và hoạt động điều tra. Chính vì
vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều tra với các hoạt động khác của cơ quan

điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể, phạm vi thời gian của hoạt động điều tra [1].
Theo chúng tôi: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quá trình áp dụng pháp luật
nhằm làm rõ sự thật khách quan toàn diện về vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều
tra, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động theo quy định của Bộ luật TTHS để thu
thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, chứng
cứ xác định tình tiết tăng nặng, chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can cũng như chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án.
Như vậy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cần thực hiện hai nhiệm vụ
chính sau:
Thứ nhất, nhanh chóng xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm
tội. Sau khi đã khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải tập trung vào việc phát
hiện, thu thập chứng cứ để xác định trong vụ án đã khởi tố có những hành vi phạm
tội gì, ai thực hiện, thuộc vào điều khoản nào của BLHS; phải xác định được tất cả
các tội phạm và người phạm tội, sao cho không một tội phạm và người phạm tội
nào không bị phát hiện, làm rõ.
Thứ hai, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan và
tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Các cơ quan điều tra và cả
cơ quan truy tố, xét xử và thi hành án hình sự không chỉ dừng lại ở việc đấu tranh
chống các tội phạm đã thực hiện mà còn có trách nhiệm thực hiện các biện pháp
phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, làm sáng tỏ và khắc phục các nguyên nhân và
11


điều kiện phạm tội.
1.1.1.3. Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
Theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là chiếm của người làm của mình, bằng
cách dựa vào vũ lực, quyền thế; ở khái niệm này chiếm đoạt được xem là hành vi
dùng vũ lực, quyền uy để lấy tài sản của người khác có chủ đích. Có ý kiến cho
rằng, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở
hữu bằng việc chiếm đoạt nên trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu

hiệu đặc trưng là chiếm đoạt. Trong đó, “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái
pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [40].
Các tội xâm phạm sở hữu tài sản có tính chất chiếm đoạt tài sản quy định
trong chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 là các tội được sát nhập từ các tội xâm
phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định tại chương IV và các tội xâm phạm sở hữu
của công dân quy định tại chương VI Bộ luật hình sự năm 1985. Về tội phạm,
chương XIV chỉ còn quy định 13 tội danh phản ảnh đúng bản chất của tên chương
là các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có 8 tội danh xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt, 5 tội danh xâm phạm sở hữu nhưng không có tính chiếm đoạt gồm: Tội chiếm
giữ trái phép tài sản (Điều 141); Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142); Tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143); Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước (Điều 144); Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản (Điều 145); một số tội tuy có xâm phạm sở hữu nhưng xuất phát từ bản
chất của hành vi nên được nhà làm luật quy định ở các chương khác như: Tội tham
ô; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được quy định tại Mục A
Chương XXI các tội phạm về tham nhũng.v.v..
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (bổ sung, sửa đổi năm
2013) quy định:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
12


sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt, giam giữ người do luật định [33].

Trong thực tế nhiều vụ án xảy ra nếu không áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ,
tạm giam đối với bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn rất lớn cho công tác điều tra, truy tố
và xét xử. Cụ thể là người phạm tội có thể bỏ trốn khỏi nơi cư trú sau khi gây án
nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; người phạm tội sau khi gây án có thể
có những hành động gây cản trở hoạt động điều tra, dẫn đến hoạt động điều tra gặp
nhiều khó khăn hơn; nhiều bị can, bị cáo lại không có nơi cư trú rõ ràng, hoặc luôn
thay đổi chổ ở, trong trường hợp này nếu không bắt, tạm giữ, tạm giam bị can, bị
cáo sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử; người phạm tội
sau khi gây án có thể tẩu tán tài sản, tang vật do phạm tội mà có, gây khó khăn cho
công tác thu hồi lại tài sản phạm tội, cũng như có những hành động nhằm che giấu
tội phạm; người phạm tội sau khi gây án xong nếu không bắt tạm giữ, tạm giam sẽ
có thời gian để xóa dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, bịt đầu mối hay tìm cho
mình những chứng cứ ngoại phạm hòng chối tội; người phạm tội có thể tiếp tục
phạm tội mới, nếu không áp dụng các BPNC ngay thì đối tượng phạm tội sẽ gây
nguy hiểm cho xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ
án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
Áp dụng các BPNC có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý
vụ án. Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội mà Điều 1 BLTTHS đã xác định, thì cơ
quan (người) THTT được sử dụng các BPNC như là một phương tiện có hiệu quả
tích cực nhất để giải quyết tình hình tội phạm xảy ra trong toàn quốc, trên địa bàn
quản lý theo lãnh thổ.
13


Ở giai đoạn điều tra, việc áp dụng biện pháp bắt người nhằm kịp thời ngăn
chặn hành vi phạm tội; việc áp dụng biện pháp tạm giữ nhằm xác định có căn cứ
khởi tố bị can hay không đối với người bị bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang, người

phạm tội tự thú, đầu thú hoặc để chuyển giao người bị bắt theo lệnh truy nã cho
CQĐT đã ra lệnh truy nã; việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và thời hạn áp dụng nó căn cứ vào
bốn loại tính chất tội phạm đã được quy định tại Điều 8 BLHS, còn việc áp dụng
các biện pháp khác, như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm lại có mục đích bảo đảm sự có mặt của bị can khi CQĐT triệu tập
theo các Điều 91, 92, 93 BLTTHS.
Hiệu quả của chúng còn thể hiện ở việc: bảo đảm bí mật của vụ án, các đối
tượng không thể thông cung với nhau, xóa dấu vết, cất dấu công cụ, phương tiện
phạm tội hoặc đe dọa, trả thù, cưỡng ép hoặc mua chuộc người bị hại, người làm
chứng; tạo điều kiện thuận lợi cho thu thập chứng cứ mà không bị cản trở từ phía bị
can, bị cáo; bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án trong thời hạn điều tra, truy tố, xét xử
theo quy định của BLTTHS.
1.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
1.2.1. Quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra
Các BPNC được quy định tại Chương VI, từ Điều 79 đến Điều 94 BLTTHS
năm 2003
1.2.1.1. Căn cứ chung áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng các BPNC bao gồm: kịp thời ngăn
chặn tội phạm, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án.
Theo nội dung này, có bốn căn cứ chung để áp dụng BPNC đó là:
Thứ nhất, khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Các tội phạm đã thực
hiện đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan hệ xã hội đã
14


được xác định trong BLHS. Việc ngăn chặn tội phạm không cho nó hoàn thành, gây

ra hậu quả thực tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Vì vậy, BLTTHS quy định
các căn cứ kịp thời ngăn chặn tội phạm trong hai trường hợp sau: a) Trường hợp bắt
khẩn cấp: khi có căn cứ để cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (theo điểm a khoản 1 Điều 81); b) Trường hợp
bắt quả tang: khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm,
thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt (theo khoản 1 Điều 82).
Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử. Đây là căn cứ dự báo được dựa trên những tài liệu có các
tình tiết và hành vi của bị can, bị cáo, như: a) Nơi cư trú của họ không có hoặc
không rõ ràng, sự vắng mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan (người) THTT;
đã di chuyển khỏi nơi cư trú…; b) Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực
hiện thuộc vào loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Về tâm lý, mức
hình phạt của các loại tội phạm này là rất cao, nên nỗi ám ảnh sợ hãi đối với nó luôn
trùm lên bị can, bị cáo. Từ đó, xóa dấu vết, tiêu hủy tài liệu, đối phó với cơ quan
điều tra và bỏ trốn là cứu cánh mà họ thường nghĩ tới để trốn tránh khỏi hình
phạt…; c) Các hành vi của họ được diễn ra sau khi tội phạm đã thực hiện, như: mua
chuộc, đe dọa người bị hại, người làm chứng, xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, thông
đồng với nhau khai báo sai sự thật…
Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Đây là căn
cứ dự báo và có thể xác định trên hai tiêu chí, như: a) Về nhân thân bị can, bị cáo là
những đối tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo là người có ý thức chống
đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu manh, côn đồ, hung hãn… Bị
can, bị cáo là những đối tượng phạm tội đã có nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối
tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; b) Về hành vi của bị can, bị cáo: đe dọa
trả thù người tố giác, người bị hại, người làm chứng; có sự chuẩn bị công cụ,
phương tiện cho việc phạm tội và xét thấy khả năng thực tế để thực hiện những
hành vi này.
Thứ tư, để đảm bảo thi hành án. Thi hành bản án và quyết định đã có hiệu lực
15



pháp luật của Tòa án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có mặt của họ rất
cần thiết để cho quyết định của Tòa án có hiệu lực trên thực tế. Nếu người bị kết án
bỏ trốn, thì việc truy cứu TNHS trở thành vô nghĩa. Cho nên, BLTTHS năm 2003
đã quy định năm trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam để đảm bảo thi hành án,
gồm: a) Trường hợp bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị phạt tù, thì họ chỉ bị bắt
giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. HĐXX có thể ra
quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc
tiếp tục phạm tội (khoản 2 Điều 228); b) Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà
đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam
để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên
tòa (Điều 177); c) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà bị xử phạt tù và đến ngày kết
thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, thì HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để
đảm bảo việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt tù, nhưng cho hưởng
án treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời hạn tạm giam được quy định
tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 (Điều 228); d) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà
bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy
cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì HĐXX quyết định tạm giam bị
cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt tù, nhưng cho
hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời hạn tạm giam được
quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227, (Điều 243); e) Trường hợp bị cáo bị phạt
tử hình, thì HĐXX quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm
bảo thi hành án (Điều 228).
1.2.1.2. Các biện pháp ngăn chặn cụ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự
Bộ luật TTHS quy định 6 BPNC gồm: bắt người, tạm giam, tạm giữ, bảo lĩnh,
cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Về các biện pháp bắt người, có 05 trường hợp sau:
- Thứ nhất, bắt người phạm tội quả tang (Điều 82 BLTTHS): Đối với người
đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc

16


bị đuổi bắt, thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công
an, VKS hoặc Ủy ban nhân dân (UBND) nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập
biên bản và giải ngay người bị bắt đến CQĐT có thẩm quyền;
- Khi bắt người phạm tội quả tang thì người nào cũng có quyền tước vũ khí,
hung khí của người bị bắt.
Nội dung của điều luật được xây dựng theo bốn tiêu chí sau:
Về đối tượng bị áp dụng: Người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố.
Căn cứ áp dụng: a) Đang thực hiện tội phạm, thì bị phát hiện. Hành vi này
được hiểu là người phạm tội đang thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội
phạm cụ thể, thì bị phát hiện nên phải bắt để ngăn chặn ngay việc phạm tội đó.
Hành vi đó có thể chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội, thì bị
phát hiện nên cũng có thể đã gây ra hậu quả vật chất, như: đối tượng đã lấy sắt ở
công trình xây dựng đem ra ngoài khu vực bảo vệ và quay lại tiếp tục lấy, thì bị phát
hiện. Hoặc cũng có thể chưa gây ra hậu quả vật chất, khi tội phạm đó cấu thành
hình thức. Ví dụ: Hành vi dùng vũ lực tấn công chủ sở hữu để chiếm đoạt tài sản,
nhưng chưa lấy được tài sản, thì bị bắt giữ; b) Ngay sau khi thực hiện tội phạm, thì
bị phát hiện. Thời điểm ngay sau khi thực hiện tội phạm được hiểu là khi kết thúc
hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội phạm. Người phạm tội vừa thực
hiện xong hành vi phạm tội, chưa kịp chạy trốn, chưa kịp hoặc đang cất giấu công
cụ, phương tiện phạm tội, chưa hoặc đang xóa dấu vết tội phạm, thì bị phát hiện; c)
Bị đuổi bắt – trường hợp, người phạm tội đã thực hiện hay ngay sau khi thực hiện
tội phạm, thì bị phát hiện nên bỏ chạy và bị truy đuổi với thời gian liên tục. Khác
với hai căn cứ bắt quả tang đầu tiên, căn cứ thứ ba cho phép bắt người phạm tội
đang trong quá trình bỏ chạy, Ví dụ: kẻ gian vừa lấy tài sản xong, thì bị phát hiện
nên bỏ chạy và người bị hại đuổi theo tóm được thủ phạm. Việc bắt quả tang khác
với bắt khẩn cấp ở chỗ, ai thấy ba trường hợp trên đều biết là tội phạm mà không
cần phải điều tra, xác minh.

Về chủ thể có quyền áp dụng: bất kỳ ai thấy người nào đó đang trong ba
trường hợp phạm tội quả tang đều có thể bắt.
17


Về thủ tục thực hiện: a) Tước vũ khí, hung khí (nếu có) của người bị bắt; b)
Giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, VKS hoặc UBND nơi gần nhất; c) Các
cơ quan này phải lập biên bản bắt người và giải ngay người bị bắt đến CQĐT có
thẩm quyền; d) Trong vòng 24 giờ phải quyết định tạm giữ hay trả tự do cho người
bị bắt.
Thứ hai, bắt người theo quyết định truy nã.
Điều 82 BLTTHS quy định nội dung của bắt người phạm tội quả tang và bắt
người đang bị truy nã vào chung một điều luật. Tuy nhiên, bắt người đang bị truy nã
có những khác biệt, như sau:
Về đối tượng bị áp dụng: bị can, bị cáo hoặc người đang thi hành án.
Về căn cứ để bắt: hành vi phạm tội đang bị điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử;
hành vi bỏ trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử;
hành vi không chấp hành bản án.
Về chủ thể có quyền áp dụng: bất kỳ ai thấy người bị truy nã.
Về thủ tục thực hiện: a) Giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, VKS
hoặc UBND nơi gần nhất; b) Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người
bị bắt đến CQĐT có thẩm quyền; c) Sau khi lấy lời khai, CQĐT nhận người bị bắt
phải thông báo ngay cho CQĐT đã ra lệnh truy nã để đến nhận người bị truy nã đã
bắt được; d) Xét thấy, không thể tiến hành giao nhận ngay được người bị bắt đó, thì
sau khi lấy lời khai, CQĐT nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và
thông báo cho CQĐT đã ra quyết định truy nã; e) Sau khi nhận được thông báo,
CQĐT đã ra lệnh truy nã có thẩm quyền phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm
giam đã được VKS cùng cấp phê chuẩn cho CQĐT đã nhận người bị bắt theo lệnh
truy nã; g) Sau khi nhận được lệnh tạm giam, CQĐT nhận người bị bắt đó có trách
nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.

Thứ ba, bắt khẩn cấp (quy định tại Điều 81 BLTTHS).
Bắt khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khi người bị hại hoặc
người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là
18


người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện
tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng
cứ.
Thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT
các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương;
người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu
biển, khi tàu bay, tàu biển rời khỏi sân bay, bến cảng.
Nội dung lệnh bắt và thực thi lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải
theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 của BLTTHS.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng
cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê
chuẩn. VKS phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này.
Trong trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem
xét, quyết định phê chuẩn hoặc từ chối phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ nhận
được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, VKS phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Nếu VKS quyết định không phê
chuẩn, thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Thứ tư, bắt bị can, bị cáo để tạm giam (quy định tại Điều 80 BLTTHS).
- Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam là Viện trưởng, Phó Viện
trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa
án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc
thẩm TANDTC; HĐXX; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường

hợp này, lệnh bắt phải được VKSND cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
- Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú phải có đại diện chính quyền xã,
phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt
người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm
việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại
diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
19


×