Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.76 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một chế định quan trọng
của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), là phương tiện cưỡng chế của
Nhà nước có hiệu quả nhất để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và
bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Mặt khác, nó còn là phương tiện pháp lý bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đối với người bị hại, nguyên
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả người liên
quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo, cũng như bản thân
của họ.
Việc áp dụng các BPNC đối với người có hành vi phạm tội
được xem là một yếu tố quan trọng, thiết yếu của quá trình điều tra,
bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị và các quyền
cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
nói chung, điều vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
nói riêng cho thấy, việc áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự hết sức phức tạp, nhạy cảm và còn nhiều khó khăn,
vướng mắc. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc áp dụng các
BPNC không chỉ là áp dụng pháp luật đơn thuần mà còn phải cân
nhắc đến nhiều yếu tố như pháp luật, chính trị, nghiệp vụ, vấn đề
quyền con người để cân nhắc tính toán, hạn chế đến mức thấp nhất
những sơ hở, thiếu sót.
Tuy nhiên, trong khoa học luật TTHS, chế định các BPNC vẫn
chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách thỏa đáng đối với tầm
quan trọng của nó theo định hướng của Đảng về việc xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật phòng ngừa và đấu tranh, phòng ngừa tội

1




phạm. Việc áp dụng các BPNC thời gian qua đã đạt được những kết
quả đáng kể, thu được những kinh nghiệm nhất định, nhưng đồng
thời cũng bộc lộ những hạn chế, tồn tại, vướng mắc về nhận thức, tổ
chức thực hiện... cần phải được nghiên cứu giải quyết.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ nhằm đáp ứng yêu
cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luôn được
Nhà nước, cơ quan chức năng xác định vị trí quan trọng, cần được
tập trung tiến hành. Vì tính chất quan trọng của việc áp dụng các
BPNC nên chúng trở thành trọng tâm nghiên cứu không những của
các nhà lý luận mà cả những cán bộ làm công tác thực tiễn trong các
ngành bảo vệ pháp luật ở trong và ngoài nước.
Các BPNC được quy định trong Bộ Luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) của hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy, có nhiều tác
giả ở trong nước cũng như nước ngoài đã nghiên cứu nội dung áp
dụng các BPNC với phạm vi khác nhau. Riêng dưới góc độ luật
TTHS, các công trình nghiên cứu về áp dụng các BPNC khá phong
phú và đa dạng ở nước ngoài, nhất là các nước như Trung Quốc, Nga,
Mỹ, Nhật Bản, Đức. Việc tiếp cận, nghiên cứu các công trình về áp
dụng các BPNC dưới góc độ luật TTHS cũng rất thuận lợi, nhất là
trong thời kỳ hội nhập quốc tế và hợp tác trên nhiều lĩnh vực như
hiện nay. Đây là điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, so sánh quy định
về các BPNC trong BLTTHS Việt Nam với BPNC trong LTTHS các
nước, trên cơ sở đó có sự tham khảo nhằm sửa đổi, bổ sung các quy


2


định của pháp luật Việt Nam cho phù hợp, hội nhập được với thế
giới.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp luật
TTHS, cũng có các công trình nghiên cứu về áp dụng các BPNC
trong điều tra hình sự. Bỡi lẽ, việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn điều
tra tội phạm để hình thành lý luận về phương pháp, chiến thuật điều
tra là một đòi hỏi bức thiết đối với mọi quốc gia. Tuy nhiên, đến nay
trên thế giới chưa có công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu về
áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm
sở hữu.
Ở trong nước, trên các góc độ, khía cạnh nghiên cứu khác nhau
đã có một số đề tài, công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
Các giáo trình và sách tham khảo nói trên đã tập trung nghiên
cứu về các BPNC dưới góc độ luật TTHS. Vì vậy, nó có ý nghĩa đối
với việc nghiên cứu đề tài ở khía cạnh lý luận cơ sở pháp lý.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về các BPNC và thực tiễn áp
dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn một tỉnh, từ đó đề xuất hệ thống
giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung, vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riệng.
3.2. Nhiệm vụ nghiện cứu
- Làm rõ những nhận thức cơ bản về các BPNC trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt (khái

niệm, đặc điểm liên quan, cơ sở áp dụng…)

3


- Đánh giá đúng thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp
dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thực tiễn áp dụng BPNC trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về áp dụng các BPNC
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt.
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu tình hình thực tiễn từ
năm 2012 đến nay (2017).
+ Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi toàn tỉnh
Quảng Nam, tập trung chủ yếu ở các huyện, thị xã, thành phố đã xảy
ra nhiều án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt như: TP
Tam Kỳ, TP Hội An, TX Điện Bàn, huyện Núi Thành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước về chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp khảo sát điển

4


hình, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận về
khoa học Luật TTHS, điều tra hình sự nói chung và vấn đề áp dụng
các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về BPNC trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, xác lập
cơ sở pháp lý, đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng
các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt trong thời gian tới.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành luật hình sự, Luật TTHS và điều
tra hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt

Chương 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong
giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt.

5


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn và áp dụng biện pháp
ngăn chặn
Từ sự phân tích ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm BPNC như
sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang
tính phòng ngừa do người có quyền hạn được quy định trong Bộ luật
TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người có dấu hiệu của tội
phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng, nhằm ngăn chặn tội
phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự được đúng đắn và kịp thời.
Và có thể đưa ra khái niệm áp dụng Biện pháp ngăn chặn như
sau: Áp dụng biện pháp ngăn chặn là việc chủ thể có quyền hạn quyết

định thực hiện biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật
TTHS đối với bị can, bị cáo, người có dấu hiệu của tội phạm chưa bị
khởi tố, khi có căn cứ áp dụng, nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được
đúng đắn và kịp thời.
1.1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Theo chúng tôi: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quá trình
áp dụng pháp luật nhằm làm rõ sự thật khách quan toàn diện về vụ án
hình sự. Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt

6


động theo quy định của Bộ luật TTHS để thu thập chứng cứ, bao gồm
chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, chứng cứ xác
định tình tiết tăng nặng, chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can cũng như chứng cứ xác định các tình tiết
khác của vụ án.
1.1.1.3.Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
Các tội xâm phạm sở hữu tài sản có tính chất chiếm đoạt tài
sản quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 là các tội
được sát nhập từ các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định
tại chương IV và các tội xâm phạm sở hữu của công dân quy định tại
chương VI Bộ luật hình sự năm 1985. Về tội phạm, chương XIV chỉ
còn quy định 13 tội danh phản ảnh đúng bản chất của tên chương là
các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có 8 tội danh xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt, 5 tội danh xâm phạm sở hữu nhưng không có tính
chiếm đoạt.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt

Trong thực tế nhiều vụ án xảy ra nếu không áp dụng các
BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
rất lớn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. Cụ thể là người phạm
tội có thể bỏ trốn khỏi nơi cư trú sau khi gây án nhằm trốn tránh sự
trừng phạt của pháp luật; người phạm tội sau khi gây án có thể có
những hành động gây cản trở hoạt động điều tra, dẫn đến hoạt động
điều tra gặp nhiều khó khăn hơn; nhiều bị can, bị cáo lại không có
nơi cư trú rõ ràng, hoặc luôn thay đổi chổ ở, trong trường hợp này
nếu không bắt, tạm giữ, tạm giam bị can, bị cáo sẽ bỏ trốn gây khó
khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử; người phạm tội sau khi
gây án có thể tẩu tán tài sản, tang vật do phạm tội mà có, gây khó
khăn cho công tác thu hồi lại tài sản phạm tội, cũng như có những

7


hành động nhằm che giấu tội phạm; người phạm tội sau khi gây án
xong nếu không bắt tạm giữ, tạm giam sẽ có thời gian để xóa dấu vết
phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, bịt đầu mối hay tìm cho mình những
chứng cứ ngoại phạm hòng chối tội; người phạm tội có thể tiếp tục
phạm tội mới, nếu không áp dụng các BPNC ngay thì đối tượng
phạm tội sẽ gây nguy hiểm cho xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
Áp dụng các BPNC có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho cả
quá trình xử lý vụ án. Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội mà Điều 1 BLTTHS đã xác định, thì cơ quan
(người) THTT được sử dụng các BPNC như là một phương tiện có

hiệu quả tích cực nhất để giải quyết tình hình tội phạm xảy ra trong
toàn quốc, trên địa bàn quản lý theo lãnh thổ.
Hiệu quả của chúng còn thể hiện ở việc: bảo đảm bí mật của
vụ án, các đối tượng không thể thông cung với nhau, xóa dấu vết, cất
dấu công cụ, phương tiện phạm tội hoặc đe dọa, trả thù, cưỡng ép
hoặc mua chuộc người bị hại, người làm chứng; tạo điều kiện thuận
lợi cho thu thập chứng cứ mà không bị cản trở từ phía bị can, bị cáo;
bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án trong thời hạn điều tra, truy tố, xét
xử theo quy định của BLTTHS.
1.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt
1.2.1. Quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn trong
giai đoạn điều tra
Các BPNC được quy định tại Chương VI, từ Điều 79 đến Điều

8


94 BLTTHS năm 2003
1.2.1.1. Căn cứ chung áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng các BPNC bao gồm:
kịp thời ngăn chặn tội phạm, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án. Theo nội dung này, có
bốn căn cứ chung để áp dụng BPNC đó là:
Thứ nhất, khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm.
Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm

tội.
Thứ tư, để đảm bảo thi hành án.
1.2.1.2. Các biện pháp ngăn chặn cụ thể theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự
Bộ luật TTHS quy định 6 BPNC gồm: bắt người, tạm giam,
tạm giữ, bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm.
Về các biện pháp bắt người, có 05 trường hợp sau:
Thứ nhất, bắt người phạm tội quả tang (Điều 82 BLTTHS):
Thứ hai, bắt người theo quyết định truy nã.
Thứ ba, bắt khẩn cấp (quy định tại Điều 81 BLTTHS).
Thứ tư, bắt bị can, bị cáo để tạm giam (quy định tại Điều 80
BLTTHS).
Thứ năm, bắt một số đối tượng đặc biệt.
- Bắt đại biểu Quốc hội có hành vi phạm tội.
- Bắt người chưa thành niên có hành vi phạm tội (quy định tại
Điều 303, BLTTHS):
- Bắt người phạm tội là người nước ngoài

9


Về biện pháp tạm giữ, Điều 86 và Điều 87 BLTTHS quy định
như sau:
Thứ nhất, tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự
thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
Thứ hai, những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định
tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát
biển có quyền ra quyết định tạm giữ…

Thứ ba, trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ,
quyết định tạm giữ phải được gửi cho cho VKS cùng cấp. Nếu xét
thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết, thì VKS ra
quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Thứ tư, thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi
CQĐT nhận người bị bắt.
Thứ năm, trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm
giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường
hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần
hai, nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều
phải được VKS cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ kể từ khi
nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm
giữ, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hay quyết định không phê
chuẩn.
Thứ sáu, trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị
can, thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Thứ bảy, thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam.
Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
Về biện pháp tạm giam, Điều 88 BLTTHS quy định như sau:

10


Thứ nhất, tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo
trong những trường hợp sau đây: a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; b) Bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt
tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

Thứ hai, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc nuôi con
dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng
mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng BPNC khác,
trừ những trường hợp sau đây: a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo
lệnh truy nã; b) Bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác, nhưng tiếp
tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra,
truy tố, xét xử; c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia
và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tiếp tục tạm giam đối với họ thì
sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thứ ba, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định
tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm
giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của
Bộ luật này phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề
nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam,
VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
VKS phải hoàn trả hồ sơ cho CQĐT ngay sau khi kết thúc việc phê
chuẩn.
Thứ tư, cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước
của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm
giam và chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.

11


Các biện pháp ngăn chặn khác
Các BPNC khác theo quy định của BLTTHS bao gồm: cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
* Điều 91 BLTTHS quy định biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

* Điều 92 BLTTHS quy định biện pháp bảo lĩnh như sau:
* Điều 93 BLTTHS quy định biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm.
1.3. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt
1.3.1. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm
sở hữu có tính chiếm đoạt
1.3.1.1. Quyền con người được quy định trong Hiến pháp và
các văn bản pháp lý khác
Nhằm bảo đảm quyền con người, Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung
năm 2013) của nước ta đã dành riêng một phần của Chương 2 quy
định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong đó
quy định về quyền con người, quyền công dân có 29 điều (từ Điều 14
đến Điều 43). Ngoài ra, trong các văn bản quy phạm pháp luật khác
cũng đã chú trọng về quyền con người. Hệ thống văn bản luật đã
từng bước thể chế hóa các chính sách của Đảng về quyền con người,
tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền con người trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.3.1.2. Bảo vệ quyền con người thông qua quy định của luật
tố tụng hình sự về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Quyền con người trong TTHS là những giá trị thiêng liêng chỉ
dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật TTHS mà nhà

12


nước phải có nghĩa vụ ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và đảm
bảo thực hiện trên thực tế.

Về mục đích áp dụng BPNC, Điều 79 BLTTHS quy định chỉ
áp dụng BPNC với hai mục đích là ngăn chặn không cho tội phạm
tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp
tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; tạo điều. Ngoài hai mục
đích nêu trên BPNC không được áp dụng với bất kỳ mục đích nào
khác, nhất là đối với ý đồ xâm phạm quyền con người.
Thủ tục, trình tự khi áp dụng các BPNC cũng được quy định
chặt chẽ đảm bảo cho việc đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả
đồng thời không để bị lợi dụng để xâm hại quyền con người.
1.3.2. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự ở một số nước
1.3.2.1. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Liên bang Nga
1.3.2.2. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Trung Quốc
1.3.2.3. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức

13


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt ở tỉnh Quảng Nam

Trong 5 năm qua (từ 2012 đến 2016), trên toàn địa bàn tỉnh
Quảng Nam đã xảy ra 4.401 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có trên
50% số vụ phạm pháp hình sự xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.
Các cơ quan THTT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã tiến hành bắt,
giữ 2.290 người; tổng số người bị bắt trên tổng số người bị truy tố
chiếm tỷ lệ tương đối thấp, trung bình mỗi năm bắt 458 người, chiếm
35,26 % tổng số người bị Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Nam
truy tố. Trong số người bị bắt thì phần lớn là phạm tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt. Tỷ lệ người bị tạm giam trên tổng số người
bị truy tố chiếm tỷ lệ thấp, trung bình mỗi năm tạm giam 295 người,
chiếm 22,68 % tổng số người bị Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh
Quảng Nam truy tố. Qua đó cho thấy rằng, việc áp dụng biện pháp
bắt người, tạm giữ, tạm giam đã được tiến hành một cách thận trọng,
tỷ lệ bắt, tạm giữ, tạm giam thấp so với số người bị Viện Kiểm sát ở
Quảng Nam truy tố, không phải người phạm tội bị truy tố, xét xử đều
bị áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam. Điều đó cho thấy rằng, các
cơ quan THTT ở Quảng Nam đã thực hiện tốt các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự và Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung năm 2013) trong
việc áp dụng BPNC nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công
dân. Thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 tại địa phương cho thấy,
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng thuận lợi, dễ dàng;

14


biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm không áp dụng
được, nguyên nhân là do chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan có
thẩm quyền, nên nhận thức về BPNC này giữa các cơ quan THTT
còn chưa thống nhất.
2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Bộ luật TTHS năm 2003 quy định các BPNC về cơ bản đã
khắc phục được những khó khăn, vướng mắc của BLTTHS năm
1998. Do đó, việc áp dụng các BPNC trong quá trình THTT, nhất là
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã phát huy hiệu quả, thể hiện
tính nghiêm minh của pháp luật. Có thể đánh giá trên các mặt cụ thể
sau:
2.2.1. Áp dụng biện pháp bắt người
2.2.2. Về áp dụng biện pháp tạm giữ
2.2.3. Về áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
2.2.4. Về áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
2.2.5. Về áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
2.2.6. Áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm
2.3. Những khó khăn, vƣớng mắc của việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và nguyên
nhân
2.3.1. Những khó khăn, vướng mắc
- Hiện nay, việc tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm chưa được
thống kê, báo cáo đầy đủ, tỷ lệ giải quyết tin báo, tố giác thấp.
- Bắt người phạm tội quả tang đã không lập biên bản bắt người
hoặc có biên bản, nhưng không có chữ ký của người bị hại, người
làm chứng hoặc có lập biên bản nhưng không xác định có phải phạm
tội quả tang hay không nên chỉ lập biên bản sự việc.

15


- Tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp còn kéo dài, trong khi có
thể đề nghị bắt tạm giam.

- Ngoài ra, trên thực tế có một số khó khăn, vướng mắc trong
qúa trình thực hiện lệnh bắt. Cụ thể là:
+ Việc xác định một người nào đó đang phạm tội quả tang hay
đang có hành vi vi phạm hành chính
- Ở thành phố, thị xã rất ít trường hợp người dân bắt người
phạm tội quả tang và giải đến UBND nơi gần nhất mà thường giải
đến cơ quan Công an nơi gần nhất.
2.3.2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan
- Quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam chưa chặt chẽ nên dễ bị
lạm dụng
- Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm chưa cụ thể nên chưa phát huy hiệu quả
trong thực tiễn.
- Điều 79 BLTTHS quy định căn cứ áp dụng nhưng không
được cơ quan có thẩm quyền giải thích.
- Các Điều 86, 87 BLTTHS quy định về biện pháp tạm giữ,
nhưng không đề cập đến căn cứ áp dụng làm cho việc áp dụng tùy
tiện, tràn lan “hễ bắt là giữ” nên không phát huy được hiệu quả.
- Quan trọng hơn cả là trong BLTTHS năm 2003 thiếu quy
phạm về “căn cứ không khởi tố bị can” nên dễ dẫn đến sai lầm khi ra
quyết định khởi tố bị can do không có căn cứ “làm phép đếm loại
trừ” dễ dẫn đến oan, sai.
- Trong các Điều 80, 81, 82 BLTTHS quy định về bắt người,
nhưng không có quy định nào đề cập đến thời điểm kết thúc của việc
bắt nên có thể hạn chế quyền và tự do của con người do thời hạn
không xác định.

16



- Điều 91 BLTTHS không quy định căn cứ áp dụng và các
điều 92, 93 cũng không quy định căn cứ cụ thể về tính chất nghiêm
trọng của tội phạm để áp dụng là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp.
- Có một số nội dung về các BPNC không rõ nghĩa chưa được
cơ quan có thẩm quyền giải thích, làm cho việc áp dụng không thống
nhất
2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Công tác phân loại vụ việc ở cơ sở xã, phường, thị trấn và việc
đánh giá hồ sơ của điều tra viên không chính xác, có sự nhầm lẫn
giữa vi phạm hành chính với tội phạm.
Hầu hết những người THTT hiểu sai về BPNC, người THTT
hiểu là khi khởi tố bị can bắt buộc phải áp dụng biện pháp ngăn chặn,
dẫn đến vi phạm quyền con người, quyền công dân.
Cán bộ trực tiếp thụ lý vụ án không theo dõi thời hạn tạm giam
đối với các đối tượng có trong hồ sơ và cán bộ nhà tạm giữ, trại tạm
giam không thông báo đúng quy định khi thời hạn tạm giam bị can,
bị cáo sắp hết hạn.
Thái độ không nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật TTHS của
một số điều tra viên, giám thị dẫn đến việc lợi dụng chức vụ, lạm
dụng quyền hạn tha người trái pháp luật, đánh đập, nhục hình đối
tượng gây hậu quả nghiêm trọng.
Ở một số nơi còn buông lỏng quản lý tạm giữ, tạm giam để cho
đối tượng vi phạm kỷ luật, cá biệt có trường hợp bị can suy kiệt chết
trong trại.
Việc áp dụng các BPNC vẫn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình
hình lạm dụng bắt khẩn cấp, lạm dụng tạm giam, quá hạn tạm giam,
các BPNC khác có hiệu quả thấp, dùng nhục hình, tra tấn tại nơi
giam giữ….


17


Sự giám sát của Hội đồng nhân dân, Quốc hội đối với việc áp
dụng các BPNC còn hình thức.
Do số lượng cán bộ Tòa án còn thiếu và việc bố trí tòa án cấp
huyện như hiện nay là chưa hợp lý.
Hầu hết các trại tạm giam đều quá tải, cán bộ quản lý trại giam
không thể quán xuyến được hết tất cả công việc để kịp thời thông báo
các trường hợp gần hết thời hạn tạm giam.

18


CHƢƠNG 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHIẾM ĐOẠT
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt
Cơ sở nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC trong giai đoạn điều
tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt được thể hiện
trong ba phương diện dưới đây:
- Về phương diện thực tiễn áp dụng pháp luật
- Về phương diện lý luận
- Về phương diện lập pháp
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở

hữu có tính chiếm đoạt
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về các biện pháp ngăn
chặn
Định hướng xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS về các
BPNC như sau: a) Nghiên cứu, đề xuất giải pháp nhằm hạn chế áp
dụng biện pháp tạm giam đối với bị can trong một số loại tội; b) Thu
hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện
pháp tạm giam; xác định rõ ràng căn cứ tạm giam; c) Tăng cường
công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ bảo đảm đúng pháp luật; d)
Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam, thì kiên quyết
không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; e) Phát hiện kịp thời
các trường hợp oan trong bắt, giam, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu

19


trách nhiệm về những oan trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc
phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình.
3.2.2. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến
hành tố tụng trong áp dụng biện pháp ngăn chặn
- Tăng cường trách nhiệm của CQĐT và điều tra viên khi thụ
lý điều tra các vụ án trên cả lĩnh vực ngăn chặn tội phạm lẩn trốn
cũng như áp dụng các biện pháp truy bắt nhằm đảm bảo thời hạn và
kết quả điều tra.
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần nâng cao hiệu quả các biện
pháp điều tra tố tụng, phối kết hợp với các cơ quan chức năng cũng
như chính quyền địa phương, gia đình, cơ quan nơi làm việc của đối
tượng… giám sát chặt chẽ các đối tượng được tại ngoại, tạm hoãn thi
hành án để hạn chế số đối tượng bỏ trốn.
- CQĐT cần đề cao trách nhiệm của mình trước khi ra quyết

định áp dụng BPNC.
- Tập trung chỉ đạo áp dụng tất cả các biện pháp nghiệp vụ để
nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC.
- Cơ quan điều tra các cấp cần làm tốt công tác phòng ngừa,
nâng cao chất lượng cũng như kết quả điều tra khám phá án, hạn chế
đối tượng bỏ trốn.
- Cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường các biện
pháp phòng ngừa, quản lý tạm giam, tạm giữ, cải tạo phạm nhân
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất đối tượng tạm giam, tạm giữ, phạm
nhân bỏ trốn.
- Tổ chức tốt công tác điều tra tại hiện trường, bắt giữ kịp thời
tội phạm, không để chúng có điều kiện chạy trốn.
3.2.3. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm
trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn

20


Việc hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng cũng là giải pháp cần thiết để bảo đảm quyền tự do dân chủ của
công dân trong xét xử vụ án hình sự nói chung, trong áp dụng BPNC
nói riêng.
- Nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nếu họ có
những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ
với các hình thức như trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính và
trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh đó Nhà nước cần có chính sách khen thưởng kịp
thời, thỏa đáng cho những cán bộ có thành tích cao trong công tác, có
sự ưu đãi về chế độ, chính sách để họ an tâm công tác, hạn chế những
cám dỗ về vật chất liên quan đến môi trường công tác của họ.

3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu
quan
- Thực hiện tốt mối quan hệ giữa các cơ quan.
- Chỉ đạo, quán triệt các Thẩm phán trong đơn vị sau khi kết
thúc việc xét xử vụ án hình sự phải khẩn trương hoàn thiện bản án,
quyết định để tiến hành giao bản án.
- Chỉ đạo tiến hành ngay việc rà soát, thống kê các trường hợp
cụ thể những người bị kết án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng Tòa án chưa ra quyết định thi hành án để ra ngay
quyết định thi hành án đối với họ.
- Rà soát, thống kê cụ thể các trường hợp người bị kết án phạt
tù được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt nhưng đã
hết thời hạn được hoãn hoặc được tạm đình chỉ.
- Trong quá trình điều tra, Điều tra viên cần phải xây dựng kế
hoạch, chiến thuật điều tra khi tiến hành điều tra các vụ án để vừa bắt
triệt để các đối tượng phạm tội vừa không để các đối tượng trốn,

21


nâng cao tỷ lệ điều tra khám phá án và ra QĐTN phải theo đúng quy
định của BLTTHS.
- Lực lượng công an các cấp có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ
với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp trong quá trình
áp dụng các BPNC, đồng thời hướng dẫn các cơ quan, tổ chức và
công dân tham gia phát hiện, tố giác, bắt giữ đối tượng phạm tội, góp
phần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững
an ninh, trật tự.
3.2.5. Các giải pháp khác

- Củng cố, kiện toàn tổ chức các cơ quan áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chức năng trong quá trình
tiến hành tố tụng, nhất là trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
-Xây dựng cơ chế ưu đãi về chế độ, chính sách đối với đội ngũ
tiến hành tố tụng.
- Tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho cơ quan tiến hành tố
tụng
- Phát động phong trào toàn dân tham gia phòng chống tội
phạm

22


KẾT LUẬN
Các BPNC là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước, mang tính phòng ngừa do người có quyền hạn được quy định
trong BLTTHS áp dụng đối với người có dấu hiệu tội phạm chưa bị
khởi tố, bị can, bị cáo để ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án. BPNC được coi là phương tiện pháp
lý sắc bén, có hiệu quả để giải quyết tình hình tội phạm. Do đó, các
BPNC có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự nói chung, các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
nói riêng. Việc áp dụng các BPNC thể hiện tính chuyên chính của
Nhà nước ta trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bằng sức
mạnh cưỡng chế, tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý vụ án,
đồng thời tôn trọng và bảo vệ quyền cá nhân được Hiến pháp và pháp
luật ghi nhận.
Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPNC trong giai đoạn
điều tra tại tỉnh Quảng Nam cho thấy, bên cạnh những thành tựu đã

đạt được, có không ít vi phạm trong áp dụng các BPNC như: lạm
dụng bắt khẩn cấp; số đối tượng bị bắt nhưng không thể khởi tố và trả
tự do chiếm tỷ lệ cao; xu hướng áp dụng biện pháp tạm giam có tỷ lệ
cao và tăng lên, ngược lại với xu hướng áp dụng các BPNC khác
như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm lại thấp và giảm dần; không ít vi phạm trong áp dụng các
BPNC gây ra hậu quả nghiêm trọng, nhất là sức khỏe của người bị
tạm giữ chưa đảm bảo… Những khó khăn, vướng mắc và hạn chế
trong việc áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói trên ở tỉnh Quảng Nam xuất phát
từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, nghiên cứu đề
ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các BPNC

23


trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là yêu cầu cấp thiết trong tình
hình hiện nay.
Nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC được xem xét trên ba
phương diện: thực tiễn, lý luận và lập pháp. Cả ba phương diện này
đều nhằm giải quyết thực tiễn áp dụng các BPNC trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự hiện nay còn nhiều bất cập, thậm chí là vi
phạm và những vi phạm trong áp dụng BPNC thường gây hậu quả
nghiêm trọng. Việc lập luận những quan điểm cơ bản, cũng như định
hướng của từng quan điểm đã nêu sẽ là tiền đề quan trọng cho
phương hướng thiết lập các kiến giải về lập pháp, áp dụng pháp luật
và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC
trong thực tế. Theo tác giả thì trong các giải pháp đó, giải pháp hoàn
thiện pháp luật là tiền đề, làm cơ sở cho một số giải pháp khác.
Nghiên cứu thành công đề tài “Áp dụng các biện pháp ngăn

chặn trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, học viên hy vọng rằng
luận văn sẽ góp phần vào việc giải quyết những vấn đề lý luận và
thực tiễn đối với việc áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chúng trong phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Tuy nhiên, do điều kiện và khả năng nghiên cứu khoa
học còn có hạn của học viên nên luận văn khó tránh khỏi những
khiếm khuyết. Học viên mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, ý
kiến đóng góp của các đồng nghiệp để tiếp tục bổ sung hoàn thiện
luận văn và để có thể tiếp tục nghiên cứu vấn đề này một cách sâu
sắc, toàn diện hơn.

24



×