VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NHA TRANG
THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NHA TRANG
THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành :. Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ QUANG VINH
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ
ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn có được là do quá trình lao động
trung thực của tôi.
Hà Nội, ngày
tháng 8 năm 2017
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ NHA TRANG
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ.............................................................7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù..............7
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định về thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Luật
thi hành án hình sự năm 2010 ........................................................................14
1.3. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù .............................................................................................................24
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN 7 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2012 ĐẾN NĂM 2016 ..30
2.1. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt cảnh cáo trên địa
bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh ..............................................................30
2.2. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt tiền trên địa bàn
Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh .....................................................................33
2.3. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh ..................................36
2.4. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất trên địa
bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh ..............................................................44
2.5. Đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa
bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh ..............................................................48
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ .....................................63
3.1. Cải cách tư pháp về thi hành án hình sự ........................................................63
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù .............................................................................................................65
3.3. Giải pháp bảo đảm cho thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ............71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................79
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
LTHADS
Luật thi hành án dân sự
TAND
Tòa án nhân dân
THAHS
Thi hành án hình sự
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình thi hành hình phạt cảnh cáo trên địa bàn Quận 7 .................... 31
Bảng 2.2: Tình hình thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn
Quận 7...................................................................................................... 39
Bảng 2.3: Tình hình thi hành án trên địa bàn Quận 7 từ năm 2012 đến năm
2016 ......................................................................................................... 49
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, áp dụng
đối với các hành vi vi phạm quy định của pháp luật hình sự. Để hình phạt được
người bị kết án thực hiện triệt để, nghiêm túc, đảm bảo hiệu quả công tác thi hành,
đạt được mục đích của hình phạt thì phải thông qua công tác THAHS. Thi hành các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là một phần của hoạt động THAHS. Đây là hoạt
động hành chính - tư pháp phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền phối hợp tổ chức thực hiện, nhằm
đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh. Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù cũng như công tác
THAHS nói chung là công tác rất quan trọng và được thực hiện rất nhiều trên thực
tế, đòi hỏi có hành lang pháp lý rõ ràng, thống nhất.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, trước khi có Luật THAHS năm 2010, hoạt động
THAHS nói chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói riêng được
thực hiện theo hàng loạt các văn bản pháp luật đơn hành mà chưa có một văn bản
quy định một cách thống nhất, đầy đủ. Thực tiễn THAHS trong những năm qua và
tình trạng pháp luật thực định chưa được đảm bảo đã đặt ra yêu cầu phải có sự ra
đời của một văn bản thống nhất điều chỉnh hoạt động này. Luật THAHS được Quốc
hội thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2011 là văn bản pháp
luật mang tính pháp điển hóa đầu tiên trong lịch sử pháp luật THAHS nhằm mục
đích tạo cơ sở pháp lý vững chắc và đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động thi
hành án. Công tác thi hành án nói chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù nói riêng nhờ đó đã có những thuận lợi, tiến bộ nhất định. Tuy nhiên, trước
những vấn đề phức tạp phát sinh trên thực tế và một số quy định chưa thực sự phù
hợp, chưa mang tính khả thi và chặt chẽ, Luật THAHS cùng với một số văn bản
hướng dẫn hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu về một hành lang pháp lý rõ ràng,
toàn diện và đầy đủ cho công tác này.
1
Bên cạnh đó, xu hướng hiện nay của các quốc gia trên thế giới đang hướng
tới việc tăng cường áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nhằm tạo điều kiện
cho người phạm tội có nhiều cơ hội hoàn lương mà không phải tách khỏi đời sống
xã hội, giảm chi phí thi hành án cho Nhà nước, góp phần tăng cường hiệu quả công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm, thể hiện nguyên tắc nhân đạo và chính sách
khoan hồng của Nhà nước. Xu hướng này cũng đang được các nhà làm luật Việt
Nam rất quan tâm.
Là một địa phương đang có sự phát triển về mọi mặt với tốc độ nhanh chóng
kéo theo tình hình tội phạm diễn ra tương đối phức tạp, Quận 7 thành phố Hồ Chí
Minh là địa bàn mà số lượng bản án áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
tương đối lớn. Khi thi hành những bản án này, ngoài những khó khăn, vướng mắc
chung về quy định của pháp luật, thực trạng tổ chức, cơ chế thi hành loại án trên ở
địa phương này cũng đặt ra những vấn đề khó khăn nhất định cần sớm có giải pháp
tháo gỡ.
Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về công tác thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và thực tiễn thực hiện công tác này trên địa
bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây nhằm góp phần làm
rõ thêm về lý luận, đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật khi thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao chất lượng
công tác thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 nói riêng
và cả nước nói chung là một yêu cầu khách quan, cần thiết.
Vì những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Thi hành các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận 7 thành phố Hồ Chí
Minh” làm đề tài luận văn là đáp ứng yêu cầu cấp thiết khách quan hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thi hành án nói chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói
riêng được thực hiện khá phổ biến ở nước ta. Trong thời gian vừa qua, đã có một số
công trình khoa học liên quan đến đề tài của tác giả dưới các góc độ và phương diện
2
khác nhau. Trước hết, hoạt động THAHS nói chung, thi hành hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù nói riêng được phân tích trong một số giáo trình, sách chuyên khảo
như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh; Bình luận Luật Thi hành án hình sự năm 2010 do GS.TS. Nguyễn
Ngọc Anh chủ biên; Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật Thi hành án hình sự do
GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên; Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn của GS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn
Mạnh Kháng; Một số vấn đề về thi hành án hình sự của TS. Trần Quang Tiệp.
Nghiên cứu về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù còn được đề cập
chung trong một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như các bài viết:
Thử bàn mấy vấn đề lí luận về thi hành án của PGS.TS. Lê Minh Tâm đăng trên
Tạp chí Luật học số 2/2001; Hoạt động thi hành án hình sự hiện nay - Thực trạng
và giải pháp hoàn thiện của tác giả Trương Hòa Bình đăng trên Tạp chí Khoa học
pháp lý số 4/2002; Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ của tác giả
Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/1995; Các căn cứ thi hành án
của tác giả Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/1998, Nhu cầu
hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn
Trọng Hách đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2002.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy, các công trình nghiên cứu,
các bài viết, đề tài khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị về mặt khoa
học và thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích,
nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thi hành án và thi hành án hình sự, công
tác thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù thì mới được thể hiện một phần
trong kết quả của các công trình nghiên chung đó mà chưa được triển khai nghiên
cứu độc lập, chuyên sâu để đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn. Cho đến nay,
chưa có tác giả nào đưa ra công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện về vấn đề thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật phù hợp với các quy định của pháp luật hiện
hành về công tác này ở địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh ở cấp độ sau đại
3
học. Mặc dù vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu đã được công bố là một
trong những nguồn tài liệu quan trọng mà tác giả có thể vận dụng, kế thừa để hoàn
thiện cho luận văn cuối khóa của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh để tác giả đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như cơ chế thi hành, nâng cao
hiệu quả thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra và giải
quyết các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu, làm rõ lý luận về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
+ Nghiên cứu lịch sử quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
qua các thời kỳ lịch sử của Việt Nam.
+ Phân tích quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù theo
pháp luật Việt Nam hiện hành.
+ Khảo sát, phân tích thực trạng thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù,
đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân trong quá trình thực
hiện công tác này trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp
dụng pháp luật về về thi hành các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn
Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ thi hành án hình sự.
Do vậy nội dung của luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận của thi hành án
4
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, đánh giá thực tiễn thi hành án các hình phạt này
và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án.
+ Về không gian: luận văn nghiên cứu và đánh giá thực tiễn thi hành án các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7, Tp. Hồ Chí Minh.
+ Về thời gian: luận văn tập trung khảo sát thực tiễn thi hành các hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật; hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu
tranh phòng, chống tội phạm, về chính sách hình sự đối với việc thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
- Phương pháp nghiên cứu: tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu khác nhau, cụ thể là các phương pháp sau:
+ Phương pháp so sánh: làm rõ những điểm mới, tiến bộ trong quy định về
thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù giữa các văn bản cùng quy định về vấn
đề này ở các giai đoạn lịch sử khác nhau nhằm tìm ra những quy định tiến bộ, phù
hợp, cần ghi nhận, kế thừa.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là phương pháp xuyên suốt toàn bộ
luận văn. Sử dụng phương pháp này nhằm làm rõ lý luận về các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù cũng như lịch sử quy
định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
+ Phương pháp thống kê: thu thập, đánh giá số liệu về công tác thi hành các
bản án áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù đối với người bị kết án
nhằm làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù trên địa bàn Quận 7 trong những năm vừa qua.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận cũng như về
mặt thực tiễn.
5
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu vào phân tích một
cách tương đối đầy đủ, toàn diện, có hệ thống quy định của pháp luật về thi hành
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và việc áp dụng những quy định đó trên thực tế
tại địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh. Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận
văn có thể góp phần bổ sung, làm phong phú thêm lý luận về thi hành các hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù dưới góc độ pháp lý và đưa ra cơ sở khoa học của hoạt động
hoàn thiện pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối
với những người làm công tác thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của
pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và những người học tập,
giảng dạy, nghiên cứu lập pháp về công tác này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
Chương 2. Thực tiễn thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn
quận 7 thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016.
Chương 3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt, thi hành là: "Đem cái việc đã dự định làm thành sự
thực" [43, tr.746], có nghĩa là, biến một việc mới chỉ nằm trong dự định thành sự
thực. Trên cơ sở đó, có thể hiểu thi hành án là đem những phán quyết của Tòa án
trong bản án ra làm thành sự thực. Từ điển Luật học ghi nhận, “thi hành án là hoạt
động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự
được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án” [55, tr.705]. Như vậy thi hành án có thể được hiểu là đem bản án
của Tòa án ra thi hành trên thực tế. “Thi hành án là một hoạt động mang tính hành
chính – tư pháp tuân theo những nguyên tắc không giống các nguyên tắc chỉ đạo
hoạt động tố tụng hình sự” [44, tr.415]. Hiện nay, ở nước ta có 5 loại hình thi hành
án: Dân sự, hình sự, kinh tế, lao động, hành chính. Bên cạnh những điểm chung,
mỗi loại hình thi hành án lại có những đặc điểm riêng biệt. Trong đó, THAHS là
một nội dung lớn trong thi hành án nói chung. THAHS là việc đưa các bản án,
quyết định của Tòa án về hình sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế.
Nói cách khác, “THAHS là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm
thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong thực tiễn” [4,
tr.6]. Như vậy, THAHS là giai đoạn tiếp ngay sau hoạt động xét xử của Tòa án,
nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực được thi hành
nghiêm chỉnh. Mặc dù có quan hệ chặt chẽ với pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng
hình sự nhưng trong hoạt động THAHS, tính chấp hành có ý nghĩa chủ đạo trên cơ
sở quy định về thủ tục thi hành mà không có tính tố tụng. Đây là một hoạt động
phức tạp, đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ những vấn đề trên có
thể hiểu, THAHS là hoạt động tổ chức thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án do các cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao quyền thực hiện
7
theo trình tự, thủ tục do pháp luật THAHS quy định, thể hiện qua việc quản lý, tổ
chức các biện pháp tác động đối với người bị kết án hình sự, buộc họ phải thi hành
đầy đủ nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật THAHS quy định, nhằm mục đích quản lý,
giáo dục, cải tạo họ thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Pháp luật thi hành án hình sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình thi hành các loại án hình sự, quá trình giáo dục và cải tạo người phải chịu trách
nhiệm hình sự hoặc bị án.
Hình phạt theo nghĩa chung nhất là “cách trừng trị người phạm tội” [42, tr.
388]. Trong pháp luật hình sự Việt Nam chỉ đến khi ban hành BLHS năm 1999 thì
khái niệm hình phạt lần đầu tiên mới được quy định, theo đó, "Hình phạt là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án
quyết định" [30, tr. 7]. Về phương diện luật học, hình phạt là “biện pháp cưỡng chế
nhà nước nghiêm khắc nhất được luật hình sự quy định và do Tòa án áp dụng có nội
dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm trừng trị, giáo
dục họ cũng như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng,
chống tội phạm” [55, 360]. BLHS quy định có hình phạt chính và hình phạt bổ
sung. Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục
xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, tác giả
chỉ nghiên cứu về công tác thi hành các bản án, quyết định của Tòa án tuyên về hình
phạt chính là các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, trong đó bao gồm: cảnh cáo, phạt
tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất.
Thi hành hình phạt là một nội dung lớn trong THAHS. Thi hành hình phạt
được hiểu là việc thực hiện các hình phạt đã được Tòa án tuyên và có hiệu lực pháp
luật. Thi hành hình phạt là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, là công đoạn
cuối cùng của việc thực thi quyền lực tư pháp, hiện thực hóa công lý đã được Tòa
án tuyên trong các bản án, quyết định. Việc thi hành hình phạt phải tuân theo các
quy định chặt chẽ của pháp luật, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh, đồng thời
cũng phải đáp ứng yêu cầu tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh phòng chống tội phạm
8
– mục đích của pháp luật hình sự. Qua đó, có thể khái quát: thi hành hình phạt là
hoạt động do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục
pháp luật đã quy định, kết hợp giữa phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng
chế để đảm bảo lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
Trong thi hành hình phạt, việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
chiếm một phần rất quan trọng. Nó có bản chất khác với thi hành hình phạt tù. Sự
khác nhau đó xuất phát từ hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là những hình phạt không
buộc người bị kết án cách ly khỏi xã hội và cải tạo dưới sự hỗ trợ của xã hội. Chính
vì vậy, bản chất thi hành án các hình phạt nhẹ hơn tù là khi thi hành án sẽ không
cách ly người bị kết án ra khỏi đời sống xã hội mà cải tạo, giáo dục họ trong môi
trường xã hội dưới sự hỗ trợ, giám sát của cả cộng đồng. Việc thi hành hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù và hiệu quả của công tác này phụ thuộc nhiều vào hiệu quả
quản lý của cơ quan chức năng cũng như sự hỗ trợ tích cực, sự giám sát của cộng
đồng, xã hội giúp cho người bị kết án cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội,
có ý thức tuân theo pháp luật. Qua đó, vai trò của cộng đồng, xã hội được phát huy
một cách tối đa. Như vậy, cơ chế thi hành án đối với các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù phát huy vai trò tích cực của chính quyền địa phương, cộng đồng xã hội
trong quá trình thi hành án. Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù thực chất là
hoạt động quản lý hành chính - tư pháp hình sự.
Từ bản chất đó có thể đưa ra khái niệm: thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật buộc người chấp hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù phải tuân thủ,
chấp hành các hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của
Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ
phạm tội mới cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.
Ngoài ra, theo quy định của Luật THAHS, “Thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của luật này giám sát,
9
giáo dục người chấp hành án tại xã, phường, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ
nhà nước theo bản án đã có hiệu lực pháp luật” [40, tr. 1]. Còn “Thi hành án phạt
trục xuất là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của luật này buộc
người chấp hành án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo bản án đã có hiệu lực pháp luật” [40, tr. 1].
Từ khái niệm và bản chất đã nêu có thể khái quát các đặc điểm của thi hành
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù như sau: Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù thực chất là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành. Điều hành và
chấp hành là đặc trưng của quản lý hành chính. Tuy nhiên, đây là hoạt động điều
hành và chấp hành để thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung
có tính chất tư pháp. Với tính chất là một hoạt động chấp hành, cho dù căn cứ để thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là các bản án, quyết định của Tòa án,
nhưng quá trình thi hành các hình phạt này được thực hiện với những hoạt động,
biện pháp, cách thức không mang tính tố tụng, nghĩa là không thuần túy là luật hình
thức, mà ở đây, có sự kết hợp giữa luật nội dung với luật hình thức.
Trong quá trình thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, các cơ quan có
thẩm quyền thi hành tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác
thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác
định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật,
tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà nước và xã hội, giáo dục họ trở thành người
công dân có ích với xã hội. Phương pháp ở đây là thuyết phục giáo dục và mệnh
lệnh hành chính.
Việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù được giao cho cơ quan thi
hành án dân sự hay cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Có thể nói, trong quá trình thi hành các hình nhẹ hơn
hình phạt tù, pháp luật được áp dụng chủ yếu không phải là pháp luật tố tụng, mà là
các quy định pháp luật về hành chính - tư pháp. Như vậy, thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù trước hết là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của xã hội, quá trình xã hội hóa hoạt động thi hành các hình phạt nhẹ hơn
10
hình phạt tù cũng đang được tiến hành với nhiều triển vọng khả quan. Đây là điểm
khác biệt so với hoạt động tố tụng hoàn toàn mang tính quyền lực tư pháp.
Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nhằm vào đối tượng là những
người bị Tòa án kết án cảnh cáo, trục xuất, phạt tiền và cải tạo không giam giữ.
Trong các hoạt động thi hành án hình sự, hoạt động thi hành các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù không mang tính cưỡng chế nghiêm khắc bằng thi hành án phạt tù.
Người chấp hành án là cá nhân người phạm tội. Họ không bị cách ly khỏi xã hội,
khỏi môi trường sống bình thường mà họ tự cải tạo và chịu sự quản lý, giáo dục
cũng như giúp đỡ của gia đình, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, sau khi chấp hành
xong bản án, quyết định của Tòa án, người bị kết án vẫn còn phải chịu hậu quả pháp
lý trong một thời gian nhất định, đó là án tích.
Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là buộc người bị kết án phải
chấp hành hình phạt. Vì thế mọi phương pháp, cách thức tác động đến việc chấp
hành hình phạt của người bị kết án đều dẫn đến mục đích: trừng phạt và giáo dục
nhằm cải tạo, giúp họ nhận ra lỗi lầm, trở thành người lương thiện. Ngoài ra một
mục đích khác không kém phần quan trọng đối với xã hội là thông qua việc tổ chức
thi hành án, Nhà nước chứng tỏ cho mọi công dân thấy sự trừng phạt nghiêm khắc
và kịp thời đối với người phạm tội, chứng tỏ tính nghiêm minh nhưng cũng rất nhân
đạo của pháp luật.
Tóm lại, thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù tuy có quan hệ chặt chẽ
với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc thù, và
có mục đích trực tiếp riêng biệt. Nếu tất cả các hoạt động tố tụng đều nhằm đạt đến
một phán quyết đúng đắn của Tòa án, thì thi hành án hình sự nói chung và thi hành
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói riêng lại nhằm thực hiện các nội dung trong
phán quyết của Tòa án. Hơn nữa, các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành
chính hơn là tính tố tụng. Nhưng mặt khác, không thể không thấy mối quan hệ biện
chứng giữa quá trình tố tụng hình sự và thi hành các hình phạt phạt nhẹ hơn hình
phạt tù: tố tụng là tiền đề, khởi đầu của việc thi hành các hình phạt phạt nhẹ hơn
11
hình phạt tù; ngược lại, thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là thực hiện kết
quả tố tụng trong thực tế.
1.1.2. Ý nghĩa của việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
Công tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với bản thân công tác thi hành án
cũng như đối với các hoạt động tố tụng, với xã hội và đối với công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung.
Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là hoạt động
đưa phán quyết của Tòa án vào hiện thực xã hội. Hay nói cách khác, THAHS nói
chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói riêng là một hoạt động
mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành
chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Mọi hoạt động tố tụng hình sự
đều dừng lại ở việc phán quyết của Tòa án, còn thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù lại được triển khai bắt đầu từ một phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi
hành. Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nhằm đảm bảo cho các nội dung
trong phán quyết của Tòa án được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. Nếu như
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi
hành không nghiêm thì quá trình tố tụng trước đó như khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử khó có ý nghĩa đầy đủ, đồng thời khó giáo dục được công dân ý thức tôn trọng
pháp luật và trật tự pháp luật. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án,
quyết định của Tòa án hay cụ thể hơn là thực hiện một cách đúng đắn, có hiệu quả
công tác THAHS nói chung, công tác thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
nói riêng là nhằm đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp
luật và quyền lực Nhà nước.
Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là cách thức nhằm đạt mục đích
của hình phạt là cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện. Ngoài
mục đích trừng trị, răn đe, công tác này được thực hiện chủ yếu là nhằm cảm hoá tư
tưởng, giáo dục nhân cách với mục đích làm cho người thụ án trở thành một công
12
dân tốt cho xã hội. Khi thi hành hình phạt với những quy trình tố tụng cụ thể, người
phải thi hành án sẽ nhận ra lỗi lầm của mình, xác định được định hướng cải tạo bản
thân. Mặc dù chế tài áp dụng với họ ở mức độ nhẹ nhưng với ý thức tự cải tạo tốt,
họ sẽ tích cực cải tạo, rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù không buộc người chấp hành án phải cách
ly khỏi xã hội mà vẫn để họ cải tạo trong môi trường xã hội thì ý thức tự cải tạo của
chính bản thân người bị kết án phải rất tốt nhưng họ rất khó để thực hiện một mình.
Chính vì vậy, thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù đòi hỏi phải gắn quá trình
cải tạo, giáo dục người bị kết án với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về thi hành hình phạt, huy động các tổ chức xã hội, đoàn thể, công dân và gia đình
của người bị kết án tham gia cải tạo giáo dục người phạm tội.
Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng chống tội phạm, đẩy lùi tình hình phạm tội. Khi thi hành các hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù bằng những trình tự, thủ tục luật định chặt chẽ với nhiều công
đoạn được thực hiện một cách công khai, pháp luật cũng qua đó mà được tuyên
truyền rộng rãi đến người dân. Do đó, bên cạnh ý nghĩa giáo dục, cải tạo người phải
thi hành án trở thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, việc
thi hành án đồng thời cũng giáo dục những người khác ý thức tuân thủ pháp luật,
đấu tranh phòng chống tội phạm. Cụ thể, việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù một cách nghiêm túc, triệt để đối với người phải thi hành án sẽ có tác dụng
răn đe đối với những người có ý định phạm tội về nguy cơ phải thi hành án tương tự
cũng như răn đe đối với tất cả mọi người trong xã hội nói chung. Bên cạnh đó, nhận
thức pháp luật của người dân phần nào được nâng cao hơn. Họ có thể xác định được
đó là hành vi phạm tội để tránh việc thực hiện cho mình, cho người thân cũng như
phát hiện và tố cáo tội phạm mà họ biết được. Họ còn có thể tham gia giám sát việc
thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù cũng như góp phần tích cực vào việc
giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án. Điều này góp phần rất lớn vào việc nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, đẩy lùi tình hình phạm tội.
13
Như vậy, thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là một bộ phận của
THAHS, có tính nhân đạo sâu sắc, kết hợp giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích,
tạo điều kiện để người chấp hành án cải tạo trong môi trường cuộc sống bình
thường, nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế và đạt
được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, việc nhận thức đúng và áp
dụng đúng đắn chế định thi hành hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trong thực tiễn là
bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định về thi hành các hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Luật thi
hành án hình sự năm 2010
1.2.1. Quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở Việt
Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 1988
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, hệ thống chính trị mới ở Việt
Nam được thành lập. Cùng với sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân, các cơ
quan bảo vệ pháp luật cũng lần lượt được thành lập. Trong những ngày đầu tiên của
chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh xóa bỏ bộ
máy nhà nước của chế độ cũ, như: Sắc lệnh số 18/SL ngày 8/9/1945 bãi bỏ ngạch
học quan; Sắc lệnh số 32/SL ngày 13/9/1945 bãi bỏ ngạch quan hành chính và tư
pháp. Hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật - công cụ đắc lực phục vụ cho chế độ
mới nhanh chóng được thiết lập. Việc ban hành Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945
của Chính phủ lâm thời và bổ sung bằng Sắc lệnh số 21/SL ngày 24/01/1946 về
việc thành lập các Tòa án quân sự, thiết lập hệ thống xét xử của Nhà nước mới.
Đồng thời, cơ quan quản lý và tổ chức THAHS từng bước được hình thành và phát
triển, đáp ứng các yêu cầu của công tác xét xử và bảo vệ pháp luật. Sắc lệnh số
13/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng
hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên
cho tổ chức THAHS ở Việt Nam. Tại khoản 3, Điều 3 Sắc lệnh quy định, ban tư
pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên, bao gồm các
14
bản án và quyết định của Tòa án. Đây là quy định đầu tiên về công tác THAHS nói
chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói riêng của chính quyền
cách mạng thời kỳ đó.
Trong những năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước trong lĩnh vực THAHS được nhiều cơ quan trong bộ máy hành pháp thực
hiện. Với việc ban hành các Thông tư số 1735-P/4 ngày 03/06/1946 về việc thi hành
các án hình và Thông tư số 24-BK, ngày 26/4/1949 về việc thi hành các án hình và
hộ đã đưa ra một số quy định cụ thể về công tác THAHS nói chung và thi hành các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói riêng. Nội dung các thông tư trên đã chỉ rõ vai
trò chỉ đạo các cơ quan hành chính trong việc chấp hành những quy định của pháp
luật về lĩnh vực THAHS và tổ chức THAHS của Bộ Nội vụ. Trong đó, Bộ Tư pháp
đề nghị với Bộ Nội vụ chỉ thị cho các cơ quan hành chính khi nhận được trích lục
án thì: "Nếu phạt tiền thì yêu cầu các cơ quan hành chính thu, nộp tiền phạt cho
chóng. Khi nào bắt được hoặc thu được tiền phạt thì xin báo cho ông thẩm phán nào
đã thỉnh cầu thi hành để ông này biên vào sổ là đã thi hành xong". Bên cạnh đó, các
văn bản trên cũng quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành
các bản án và quyết định của Tòa án, xác định trách nhiệm THAHS của chính
quyền cấp xã. Đây là những quy định tiến bộ mà các nhà làm luật đã vận dụng khi
xây dựng các văn bản pháp luật về thi hành án sau này, bao gồm cả Luật THAHS.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959, ngày 14/07/1960 Quốc hội đã
thông qua Luật tổ chức TAND. Trong đó, Điều 24 quy định: “Tại các TAND địa
phương có nhân viên chấp hành làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định
về dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án và quyết định
về hình sự, cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành những khoản hình phạt trong
những bản án và quyết định về hình sự, trừ những khoản phạt tiền” [41, tr. 3]. Như
vậy, lần đầu tiên trong một văn bản luật có tính pháp lý cao đã chính thức quy định
công tác thi hành án do hai cơ quan là Tòa án (cơ quan xét xử) và cơ quan Công an
(thuộc hệ thống cơ quan hành pháp) đảm nhiệm. Quy định này đã tạo sự thống nhất
cho việc quản lý và tổ chức THAHS nói chung, thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
15
phạt tù nói riêng. Tuy nhiên, việc các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù được thi hành
theo trình tự thủ tục như thế nào thì văn bản này chưa có quy định một cách cụ thể.
Riêng đối với thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, BLHS năm 1985 đã ghi
nhận là hình phạt chính. Vì vậy, Hội đồng thẩm phán đã ban hành Nghị quyết số 02HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS năm 1985. Tại các văn bản này mới chỉ đưa ra các yêu cầu chung nhất về thi
hành hình phạt cải tạo không giam giữ bao gồm: đối tượng áp dụng, chủ thể thi
hành (cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nhưng chưa quy định cụ thể vai trò, chức
năng của từng cơ quan); nội dung thi hành (quy định cơ bản về khấu trừ thu nhập,
miễn khấu trừ thu nhập). Tuy nhiên, về cơ bản các quy định đó vẫn chưa thể coi là
đầy đủ.
Như vậy, ở giai đoạn này, việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù chưa
được quy định một cách cụ thể mà chỉ được nhắc đến ở một số văn bản pháp luật, chủ
yếu đề cập đến các cơ quan có thẩm quyền THAHS nói chung. Quy định về trình tự,
thủ tục, thẩm quyền thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù vẫn còn mang tính chất
sơ thảo, chung chung mà chưa được ghi nhận một cách cụ thể và chi tiết.
1.2.2. Quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở Việt
Nam từ khi có Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ
Luật Tố tụng Hình sự năm 2003
BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc
hội thông qua ngày 28/6/1988. Bộ luật này đã dành riêng một chương để quy định
về thi hành án nói chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói riêng.
Có thể nói đây là văn bản pháp điển đầu tiên quy định cụ thể về THAHS, trong đó
có thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
áp dụng ở thời điểm này được quy định tại BLHS năm 1985. Qua bốn lần được sửa
đổi, bổ sung năm 1989, 1991, 1992, 1997, quy định về các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù của BLHS năm 1985 cũng không thay đổi. Về bản chất, giai đoạn này chỉ có
03 hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù được quy định là: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo
không giam giữ (bao gồm cả cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội). Việc thi hành ba
16
hình phạt này được quy định trong BLTTHS năm 1988 tại Phần thứ năm “Thi hành
bản án và quyết định của Tòa án”. Cụ thể, việc thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội được quy định tại Điều 234, việc
thi hành hình phạt tiền được quy định tại Điều 236 BLTTHS năm 1988.
Khi BLHS năm 1999 được ban hành với nhiều quy định mới so với BLHS
năm 1985, trong đó có việc bổ sung một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là hình phạt
cảnh cáo thì đòi hỏi quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù cũng
phải có một số thay đổi. Nhưng BLTTHS năm 1988 chưa có điều kiện xây dựng
mới nên đã được sửa đổi, bổ sung vào ngày 09/6/2000 để có những quy định phù
hợp hơn với quy định về các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù của BLHS năm 1999.
Vì vậy, quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù đã hoàn thiện hơn.
Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. BLTTHS năm 1988 ghi nhận về
việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân
đội. Vì vậy, tiếp sau Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ, Hội đồng Bộ trưởng đã
ban hành Nghị định số 95-HĐBT ngày 25/07/1989 ban hành quy chế về chế độ cải
tạo không giam giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội. Lần đầu tiên đã có văn
bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Nhưng
sau đó, khi BLTTHS năm 1988 được sửa đổi bổ sung năm 2000, quy định về việc thi
hành hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội bị bãi bỏ; Điều 234 BLTTHS năm
1988 sửa đổi bổ sung năm 2000 chỉ còn quy định về thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ. Việc thi hành hình phạt này được hướng dẫn bởi Nghị định số
60/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2000. Theo đó, chủ thể thi hành hình phạt
cải tạo không giam giữ gồm nhiều chủ thể nhưng chịu trách nhiệm chính trong giám
sát, quản lý, giáo dục người chấp hành án là UBND. Nghị định này đã quy định cụ
thể và chi tiết trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân, người phải thi hành án
cũng như trình tự thủ tục thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc thi hành
hình phạt cải tạo không giam giữ được tiến hành khi có bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án, tuân thủ các nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự và luật tố
17
tụng hình sự. Qua những quy định tại văn bản này, hành lang pháp lý cho việc thi
hành hình phạt cải tạo không giam giữ đã tương đối rõ ràng.
Thi hành hình phạt trục xuất. BLTTHS năm 1988 chưa quy định về việc thi
hành hình phạt trục xuất. Việc thi hành hình phạt này được thực hiện theo quy định
tại Pháp lệnh số 24/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/04/2000 quy định về Nhập cảnh,
xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam của Ủy ban thường vụ Quốc
hội. Pháp lệnh này dành chương IV quy định về trục xuất, trong đó có một số quy
định về thi hành hình phạt trục xuất như: trường hợp bị trục xuất: “Người nước
ngoài bị trục xuất khỏi Việt Nam trong trường hợp bị Toà án có thẩm quyền của
Việt Nam xử phạt trục xuất” [49, tr. 1]; Cơ quan có trách nhiệm thi hành bản án trục
xuất là Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an; Thời hạn giao bản án
cho người bị trục xuất chậm nhất là 24 giờ trước khi thi hành. Như vậy, ở giai đoạn
này, quyết định thi hành án trục xuất chưa được quy định mà việc thi hành chỉ cần
áp dụng trực tiếp bản án; Trường hợp cưỡng chế trục xuất. Hai tháng sau, BLTTHS
năm 1988 sửa đổi, bổ sung năm 2000 bổ sung Điều 234a quy định về thi hành hình
phạt trục xuất. Cơ quan có trách nhiệm thi hành hình phạt này vẫn không thay đổi.
Quyết định thi hành án phạt trục xuất đã được quy định để làm căn cứ cho việc thi
hành hình phạt này: “Người bị trục xuất phải rời khỏi Việt Nam trong thời hạn
chậm nhất là 15 ngày, kể từ khi có quyết định thi hành án”. Trên cơ sở đó, ngày
23/8/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành
hình phạt trục xuất. Theo đó, cơ quan thi hành hình phạt trục xuất được quy định
trách nhiệm cụ thể hơn, Cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an chịu
trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức thi hành hình
phạt trục xuất đối với người bị kết án trục xuất theo quyết định thi hành án của Toà
án. Ngoài ra, văn bản này còn quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người bị
trục xuất; Hồ sơ, thủ tục thi hành và kinh phí thi hành hình phạt trục xuất. Các quy
định đó đã tạo hành lang pháp lý tương đối rõ ràng và đầy đủ cho hoạt động thi
hành án phạt trục xuất.
18
Thi hành hình phạt tiền. Ở giai đoạn này, việc thi hành hình phạt tiền được
quy định một cách độc lập, khác biệt so với việc thi hành các hình phạt khác. Văn
bản ghi nhận việc thi hành hình phạt tiền đầu tiên là Pháp lệnh số 23-LCT/HĐNN
ngày 28/8/1989 của Hội đồng Nhà nước về thi hành án dân sự. Điều 15 Pháp lệnh
này quy định Chánh án Toà án chủ động ra quyết định thi hành án phạt tiền, chấp
hành viên là người được giao trách nhiệm thi hành quyết định đó và có quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành. Bên cạnh đó, Pháp lệnh này còn đưa ra các quy
định về đình chỉ, tạm đình chỉ, hoãn thi hành và trình tự, thủ tục thi hành hình phạt
tiền. Tuy nhiên, do được xây dựng lần đầu tiên nên các quy định này vẫn mang tính
chất chung chung, chưa thực sự cụ thể và rõ ràng. Bốn năm sau, Pháp lệnh thi hành
án dân sự năm 1993 ra đời. Văn bản này tiếp tục quy định về việc thi hành hình phạt
tiền nhưng ở mức độ chi tiết hơn. Trong đó, thẩm quyền ra quyết định thi hành án
đã thay đổi, không còn thuộc về Chánh án Tòa án mà được giao cho cơ quan thi
hành án cùng cấp sau khi được Toà án chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản
sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật của vụ án. Ngoài ra, Pháp
lệnh còn quy định về trình tự thủ tục thi hành, việc hoãn thi hành án, đình chỉ và
tạm đình chỉ thi hành hình phạt tiền.
Như vậy, BLTTHS năm 1988 và các văn bản pháp luật về thi hành án ở giai
đoạn này chưa quy định về thủ tục thi hành hình phạt cảnh cáo. Quy định về thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù khác cũng đã được ban hành nhưng mang
tính chung chung, chưa thực sự rõ ràng và cụ thể. Vì vậy, việc áp dụng các văn bản
đó để thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù còn chưa thực sự thống nhất và rõ
ràng, phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của cơ quan, người có thẩm quyền thi
hành án.
1.2.3. Quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở Việt
Nam từ khi có Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến trước khi ban hành Luật
Thi hành án hình sự
BLTTHS năm 2003 được ban hành khi BLHS năm 1999 đang có hiệu lực.
Điều 28 BLHS năm 1999 quy định về hình phạt, trong đó, với tư cách là hình phạt
19