Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Ứng dụng của enzyme trong công nghiệp bột giặt, chất tẩy rửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.8 KB, 40 trang )

BÀI DỊCH NHÓM 6

5.2.1 Enzymes in Household Detergents (trang 154 đến 178)
(Các enzyme trong chất tẩy rửa gia dụng)
Thành viên nhóm và bảng phân công việc


Ứng dụng của enzyme
trong công nghiệp bột giặt, chất tẩy rửa
5.2.1 Enzyme trong chất tẩy rửaa gia dụng
Sự cần thiết của chất tẩy rửa gia dụng là việc loại bỏ một loạt các vết bẩn phức tạp trên bề
mặt những sợi khác nhau. Những vết dơ và thành phần của vết bẩn có độ hòa tan trong
nước tốt nên rất dễ dàng loại bỏ vết bẩn trong quá trình làm sạch. Hầu như các vết bẩn
khác nhau đươc loại bỏ từ bề mặt/từ hệ thống xây dựng/ hệ thống chất tẩy rửa tẩy trắng,
mặc dù kết quả vẫn không như mong muốn do vẫn còn tùy thuộc vào điều kiện giặt.
Hầu hết các trường hợp, enzyme tẩy rửa phù hợp với việc hổ trợ để loại bỏ các loại bụi và
vết bẩn.Ngược lại các thành phần chất tẩy rửa hoàn toàn có sự hoạt động của hóa lý.
Những enzyme hoạt động bởi việc làm cho vết bẩn ngày càng nhỏ hơn và những mạnh
vụn mau hòa tan hơn. Tuy nhiên để loại bỏ một vết bẩn hoàn toàn vẫn đòi hỏi có sự phối
hợp của các enzyme, bằng hệ thống hoạt động bề mặt, và sự khoaays trộn cơ học.
5.2.1.1 Lịch sử phát triển (154)
Các chất tẩy rửa có chứa enzyme đầu tiên đã được giới thiệu trên thị trường đến các hộ
gia đình từ rất sớm năm 1913 khi ông Ro¨hm &Haas ở Đức đã thêm emzyme trypsin
protease, được chiết xuất từ tụy heo, để tạo ra chất tẩy rửa Burnus cho riêng họ, đang sử
dụng bản quyền của ông OTTO RO¨ HM.
Bởi vì các hoạt động và tính ổn định của trypsin hiện diện điển hình trong thành phần
của chất tẩy rửa là ở mức trung bình, nên khái niệm về enzyme tẩy rửa vẫn chưa thực sự
được phổ biến cho đến năm 1963. Khi Novo phát triển và trên thị trường emzyme
protease của vi khuẩn có nhiều tính kiềm và tính chống chịu cao được gọi là Alcalase.
Các nhà sản xuất chất tẩy rửa nhỏ ở Thụy Sĩ (BIO-40 from Gebrueder Schnyder) và Hà
Lan (Biotex from Korman and Schulte) đã sử dụng Alcalase vào thị trường, lúc đầu nó




được coi là hữu ích trong việc giặt các vết máu từ những bệnh viện và những cơ sở giết
mổ.
Gist – Brocades một vài năm sau với alkaline Maxatase protease (1965).
Trong vòng 5 năm việc giới thiệu những chất tẩy rửa của họ, có hơn 50% bột giặc sử
dụng cho các hộ gia đình ở Châu Âu là có chứa enzyme protease, nó được so sánh với
15% ở Mỹ.
1970 – 1980: Sự phát triển nhanh chống của các chất tẩy rửa có chứa enzyme đã tạm thời
bị gián đoạn vào đầu những năm 1970 khi có những vấn đề vệ sinh an toàn trong công
nghiệp. Cần có cải tiến đáng kể trong kỹ thuật sản xuất chất tẩy rửa.Sự phát triển của
những hạt bụi nhỏ đã được đóng gói nhờ vào enzyme prills, và có những cải tiến trong
công nghiệp về vấn đề thực hành và vệ sinh. Kể từ đó doanh số bán enzyme một lần nữa
tăng lên đều đặn.
Lần đầu tiên enzyme - amylase của chất tẩy rửa (Termamyl, từ Novozymes) đã được phát
triển trong đầu những năm 1970 và đã tăng khả năng chống chịu nhiệt và kiềm.
Vào giữa những năm 1970 các chất tẩy rửa lỏng đầu tiên đã được giới thiệu ở Châu Âu
và Hoa kỳ, bằng cách sử dụng đặc biệt chế phẩm enzyme lỏng.
1980 – 1990: Những điều kiện tẩy rửa, đặc biệt là ở Châu Âu, dần dần chuyển sang
hướng nhiệt độ thấp, giảm lượng nước, rút ngắn thời gian giăc và có những sự thay đổi
trong công thức chính ( đầu tự do photphat của chất tẩy rửa, đã được kích hoạt). Protease
mới đã thích nghi tốt hơn với các điều kiện làm việc và hoạt động của enzyme mới này
trở nên phổ biến.
Chất tẩy rửa đầu tiên cellulose Celluzyme (Novozymes) – một cellulose đa thành phần đã
được phát triển để cải thiện cho việc làm sạch và loại bỏ vết bẩn.
Công nghệ và kỹ thuật protein Newgenetic đã được giới thiệu thiết kế các enzyme tối ưu
hơn nữa cho các chất tẩy rửa hoặc để được chấp nhận vào sản xuất trên thị trương.Bằng


cách này lần đầu có sự phù hợp của protease và lần đầu tiên các chất tẩy rửa lipase

(Lipolase, Novozymes) đã được phát triển.
1990 – 2000:Thị trường của các chất tẩy rửa đã được mở ra ở Ấn Độ, Nam Mĩ, phía,
Đông Châu Âu, Liên Xô cũ và Trung Quốc. Vì các điều kiện riêng của những vùng này
chẳng hạn như việc giảm chi phí, giảm nồng độ chất tẩy rửa, giảm thấp nhiệt độ giặt rửa,
sự phát triển của những enzyme mới một lần nữa khẳng định được tính cần thiết trong
những điều kiện giặt rửa khó khăn.
Enzyme proteases, amylases và lipases là chất tẩy rửa thế hệ thứ 2 và được phát triển bởi
sử dụng kỹ thuật protein và kỹ thuật di truyền để cải thiện được hiệu suất trong những
điều kiện giặc rửa khó khăn ( nhiệt độ thấp, ảnh hưởng việc giặc rửa đơn ( làm sạch, loại
bỏ vết bẩn, làm trắng da, làm mềm,…và đã đạt được một thành tựu về chất tẩy rửa) và đã
cải thiện được mức độ phù hợp với công nghệ chất tẩy rửa mới ( cải thiện trong việc kích
hoạt thuốc tẩy và ứng dụng rộng hơn ( ví dụ trong rửa bát đĩa tự động, chất tẩy rửa dạng
lỏng, viên nén hoặc là miếng gel).
Tính đến năm 1980 các enzyme đã được phát triển chủ yếu và được sử dụng trong việc
hỗ trợ loại bỏ vết bẩn và làm sạch các loại vải. Kể từ giữa những năm 1990 các enzyme
đặc biệt ảnh hưởng đến vải ( độsáng màu , độ làm mềm vải) đã được xuất hiện trên thị
trường (Carezyme và Cellulase monocomponent Endolase từ Novozymes) là những
enzyme mang nhiều lợi ích mới trong việc loại bỏ vết bẩn và làm sạch (Mannaway,
Novozymes).
Những sản phẩm enzyme chất tẩy rửa ở bảng 18 cho thấy lần lượt theo loại và nhà sản
xuất.
5.5.1.2 Tẩy rửa những vết bẩn
Cần tẩy rửa, cần phải loại bỏ một loạt các vết bẩn phức tạp từ các loại vải khác nhau và
các loại sợi trong những điều kiện giặt giũ. Hầu như các vết bẩn thường ở trên quần áo và


các loại vải bao gồm tất cả các loại vết bẩn của cơ thể lên áo sơ mi, đồ lót, vớ và nhiều
loại vết bẩn từ thức ăn và đồ uống, vết bẩn từ dầu, vết bẩn từ bụi.
Những vết bẩn trên cơ thể là hỗn hợp phức tạp được tiết ra từ tuyến bã nhờn và mồ hôi
trong da hoặc có thể xuất phát từ phân nước tiểu hoặc dịch tiết âm đạo. Các vết bẩn này

là hỗn hợp của chất béo, protein, glycoprotein, máu và sự thoái hóa các thành phần máu,
các mảnh vụn biểu bì da và các vật liệu khác được thu nhận từ môi trường. Thành phần
của các lipit sạch là có chứa các acid béo không bảo hòa (linoleic và linolenic acid) và
các triglyceride và hydrocarbon không bão hòa (squalene) của chúng, có thể được nhanh
chóng autoxited khi tiếp xúc với không khí , nhiệt độ

và độ ẩm. Các phản ứng

autoxidation lipid mang lại các hợp chất có phân tử khối phức tạp với chất béo, protein và
carbohydrate.
Những vết bẩn để lâu rất khó khăn để loại bỏ chúng ra khỏi các loại vải và chúng có xu
hướng dính chặt trên vải của quần áo.
Những vết bẩn của thức ăn cũng rất phức tạp trong việc giặc giũ. Chúng chứa một lượng
đáng kể chất béo, dầu động vật, thực vật và protein, ví dụ sản phẩm từ trứng và thịt, các
đường carbohydrate, tinh bột và các carbohydrate phức tạp khác, cặn từ thực vật ví dụ từ
cỏ hoặc rau dền và các hỗn hợp oxi hóa. Hóa chất và enzyme hóa nâu của các sản phẩm
thức ăn xảy ra trong suốt quá trình lưu giữ và chuẩn bị thức ăn. Hầu như sự hình thành
các sản phẩm phản ứng Maillard màu tối từ carbohydrate và protein tại nhiệt độ
cao.Thuốc nhuộm trong tự nhiên và các sắc tố hiện diện trong thực phẩm như carotenes
và chlorophyll đã thêm màu vào cho một số vết bẩn trong thực phẩm.Đặc biệt, carotenes
là hòa tan cao trong các loại dầu và chất béo, ví dụ như trong nước xốt cà chua, và điều
này làm cho việc loại bỏ các vết bẩn từ các loại vải trở nên khó khăn hơn.Một số thực
phẩm từ sữa có chứa một lượng đáng kể carbohydrat không phổ biến để ổn định, chẳng
hạn như carraneenan, guar, và đây là những chất thường rất khó để loại bỏ ra khỏi vải
bằng chất tẩy rửa và thậm chí bởi amylase.


Màu vết bẩn từ đồ uống như rượu vang, rau cải, nước trái cây và trà chứa hỗn hợp phức
tạp của màu tự nhiên và sắc tố như anthocyanine và các hợp chất màu polyphenolic ,
đường và acid hữu cơ.

Các hạt bụi có thể bao gồm cacbonat kim loại không hòa tan, oxit, silicat (đất sét), carbon
màu đen, bụi và mùn thu được từ môi trường ví dụ như bụi than trong không khí trên cổ
áo sơ mi hoặc ở vớ.
Các vết bẩn hữu cơ trên các loại vải có nguồn gốc từ quá trình giặt và bảo vệ vải, chẳng
hạn như hoạt động bề mặt và xậy dựng lượng dư thừa, chất làm mềm vải, hỗ trợ quần áo
ví dụ như tinh bột. Tuy nhiên, tần số và loại vết bẩn trên quần áo là khác nhau, do thói
quen người tiêu dùng khác nhau, Hình 52 minh họa sự khác biệt về tỷ lệ vết bẩn điển
hình ở một số quốc gia phía bắc và phía nam châu Âu.
5.2.1.3 Thành phần của chất tẩy rửa ( xà phòng) và quy trình tẩy rửa
5.2.1.3.1 Quy trình tẩy rửa
Bất kỳ một quy trình tẩy rửa nào cũng đều là sự tương tác, tác dụng tương hỗ lẫn nhau
giữa thiết bị rửa được sử dụng với vật liệu được đưa vào quá trình tẩy rửa, tức là các
thành phần của chất tẩy rửa và các chất phụ gia; chất lượng nước; thành phần tải rửa, và
các thủ tục tẩy rửa tiếp sau, ví dụ như thời gian, nhiệt độ, kích động ( tác động cơ học).
Thiết bị và quy trình rửa cho việc tẩy rửa của ba khu vực địa lý chính được tóm tắt trong
bảng 19.


Như có thể thấy trong bảng 19: Những điều kiện giặt ủi trung bình giữa các khu vực địa
lý chính ở trong bảng có thể là khác nhau đáng kể
Trong mỗi khu vực, ở các địa phương tồn tại các thói quen giặt, rửa như bổ sung chất tẩy
rửa riêng biệt dựa trên chất hypochlorite ở phía nam Châu Âu; kéo dài mở rộng việc tẩy
rửa bằng các đun sôi ở Thổ Nhĩ Kỳ; và sử dụng nước rửa đa chu kỳ (tái sử dụng nước
rửa) ở Nhật Bản.
Tất cả điều này không tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng có hiệu quả trong loạt
các điều kiện sử dụng chất tẩy rửa. Thường thì các chế phẩm của chất tẩy rửa sẽ được
điều chỉnh để thích nghi với thói quen rửa địa phương.

Hình 52 : Biểu đồ thể hiện mức độ làm bẩn từ một số chất ở Đức và Tây Ban Nha: (tỷ
lệ xếp hạng [596])



Không phải tất cả các thành phần của chất tẩy rửa đều có hiệu quả trong phạm vi nhiệt độ
từ 40C đến nhiệt độ rửa và trên phạm vi của nồng độ chất tẩy rửa. Ở đây enzyme có thể
trở thành một cái máy tăng thế đặc biệt quan trọng cho chất tẩy rửa (tức là một tác nhân
xúc tác, làm tăng quá trình tẩy rửa của các chất tẩy rửa) trong điều kiện tẩy rửa ở phạm vi
nhiệt độ thấp và trong điều kiện sử dụng sản phẩm thấp.
5.2.1.3.2 Thành phần chất tẩy rửa
Thành phần của tẩy rửa cũng khác nhau tùy theo vị trí địa lý và các quốc gia (từ quốc gia
này tới quốc gia khác) . Các chất tẩy rửa gia dụng có sẵn cho người tiêu dùng có thể được
chia tạm thành năm phân đoạn theo đặc tính hóa lý của các chất tẩy rửa từ các giải pháp
rửa dự trù.


Gần pH trung tính, các chất tẩy rửa mạnh các ion yếu, hầu hết là chất tẩy rửa lỏng
( dạng lỏng, dung dịch) pH 7.5-9. Chúng không chứa chất tẩy và chỉ ở nồng độ
muối thấp. Pha loãng ( các mức độ pha loãng khác nhau) và các chất tẩy rửa đậm
đặc dạng lỏng được bán trên thị trường. Loại thứ 2 của chất tẩy rửa dạng lỏng chỉ
chứa một lượng nhỏ nước (<10%).



pH hơi có tính kiềm, chất tẩy rửa mạnh ion trung bình thường là chất tẩy rửa dạng
bột ( tức dạng chất tẩy rửa được cô đặc thành bột để tiện, gọn nhẹ) từ Nhật Bản và
loại bột tẩy rửa bình thường từ Mỹ. pH được chọn thích hợp là khoảng 9 và chúng
cũng không chứa thuốc tẩy



pH kiềm, chất tẩy rửa mạnh các ion mạnh, pH tối ưu 9,5-11 với một hệ thống tẩy

trắng được kính hoạt, hoạt hóa. Ví dụ chất tẩy rửa bình thường dạng bột ở Châu
Âu. Chúng chứa một chất là natri sulfat như một chất phụ và các hệ thống xây
dựng, ví dụ như natri phosphat hoặc zeolit (là khoáng chất) và natri carbonat.
Được sử dụng với liều lượng cao, trong đó cung cấp một lượng dung dịch rửa với
cường độ (nồng độ) ion cao.




pH kiềm, chất tẩy rửa mạnh các ion trung bình với việc tẩy trắng được đại diện
bởi chất tẩy rửa dạng bột nhỏ gọn ở Châu Âu, nó có một thị trường tiêu thụ rộng
lớn đầu thập niên 1990, chất tẩy rửa được cô đặc lại thành bột với những hạt nhỏ li
ti, kết quả chúng được loại bỏ hoàn toàn natri sulfat, có pH từ 9,5-11.

Các chất tẩy rửa gia dụng thì hầu hết được phân phối, chuyển giao với lượng bột có
lượng bụi thấp hoặc được kết tinh tạo thành những hạt nhỏ hoặc như dạng lỏng (dung
dịch) với độ nhớt thấp hoặc cao (gels). Thanh (thỏi) xà phòng (xà bông) giặt vẫn phổ biến
ở một số nước ( Nam Châu Âu, Mỹ La Tinh).
Gần đây (năm 2000) chất tẩy rửa ở dạng viên nén hoặc như dạng một chiếc túi (bao) nhỏ
chứa chất tẩy rửa dạng lỏng trong đó đã được đưa ra với sự thành công ở châu Âu và Bắc
Mỹ của Unilever và P & G [598-600]
Thực tế tất cả các chất tẩy rửa đều chứa enzyme, mặc dù một số thương hiệu độc quyền,
đặc biệt thì tùy ý, tự do trong việc sử dụng các loại enzyme khác nhau trong việc sản xuất
chất tẩy rửa, bột giặt. Một số chất tẩy rửa đặc biệt kết hợp việc chuyển giao công nghệ
làm sạch và chăm sóc vải trong quá trình giặt rửa mà không sử dụng các chất phụ gia (sản
phẩm hai trong một).
Ví dụ về các chế phẩm bột giặt được cho trong bảng 20


Chất có hoạt tính bề mặt: alkyl benzene sulfonates mạch thẳng, alcohol sulfates, alcohol

ether sulfate,alcohol ethoxylates, cationic có hoạt tính bề mặt. Xây dựng (kết cấu): zeolit
, natri cacbonat, natri silicat, natri citrat, natri tripolyphosphate (STTP), natri
nitrilotriacetate (NTA), polycarboxylates. Chất tẩy trắng: Natri perborate, natri
percarbonate, tetraacetylethylenediamine (TAED), nonanoyl sulfonate benzen (Nobs) và
những chất phụ khác
Các chất phụ gia (không được liệt kê): chất điều chỉnh bọt, chất ổn định, chất hỗ trợ chế
biến, chất làm sáng quang học, tác nhân gây lắng đọng, chất ức chế ăn mòn, nước hoa,
chất màu, chất độn như natri sulfat trong bột hoặc nước trong chất tẩy rửa lỏng
5.2.1.4 Enzyme- Aided Detergency (enzyme hỗ trợ tẩy rửa) và loại bỏ đất, chất bẩn
Các thành phần của đất và các vết bẩn với độ tan trong nước tốt có thể dễ dàng được loại
bỏ trong quá trình làm sạch. Tất cả các vết bẩn được loại bỏ một phần trong hệ thống các
chất có hoạt tính bề mặt/xây dựng hoặc hệ thống tẩy trắng của chất tẩy rửa, mặc dù kết
quả thường là không đạt yêu cầu, tùy thuộc vào các điều kiện tẩy rửa.
Trong hầu hết trường hợp các chất tẩy rửa chứa những loại enzyme thích hợp có thể giúp
loại bỏ các loại bùn đất và vết bẩn. Trái với hoạt động của hệ thống enzyme hoạt động bề
mặt là hoạt động vật lý thuần túy để làm giảm lượng bụi bẩn bằng cách làm cho các bụi
bẩn đó vỡ thành những mảnh nhỏ hơn và hòa tan nhiều hơn trong nước. Tuy nhiên, để
loại bỏ một vết bẩn hoàn toàn đòi hỏi những tác động chung của các enzym, hệ thống
hoạt động bề mặt, và rung động cơ học.
Protease và amylase là các loại enzyme có thể loại bỏ các vết bẩn có bản chất tương ứng
với chúng, tức là enzyme protease có thể loại bỏ các vết bẩn protein và enzyme amylase
có thể loại bỏ vết bẩn là tinh bột. Dầu mỡ và các loại chất béo nói chung là khó tẩy rửa để
loại bỏ các vết bẩn do dầu mỡ dính vào nhất là ở điều kiện nhiệt độ tẩy rửa thấp (<40 0C)
bằng các chất tẩy rửa thông thường. Bằng cách sử dụng enzyme lipase, có thể cải thiện


việc loại bỏ các chất béo / các loại dầu mỡ có nguồn gốc động vật, thực vật, ngay cả khi ở
nhiệt độ mà tại đó các chất béo ở dạng rắn.
Bụi đất có thể là khó khăn để loại bỏ, đặc biệt là nếu chúng có kích thước hạt nhỏ. Việc
loại bỏ lớp bụi đất từ vải bông có thể được cải tiến bằng cách sử dụng enzyme cenllase,

đó là enzyme này có thể loại bỏ các vết bụi bẩn từ các sợi cellose trên bề mặt sợi của
chúng.
Các loại bụi bẩn có thể bám chặt lên bề mặt của các sợi vải, dệt may thông qua một chất
keo trong proteinaceous, tinh bột, hoặc chất béo. Trong những trường hợp của neo bụi
bẩn, một loại enzyme có thể hỗ trợ trong việc loại bỏ các bụi bẩn mặc dù nó không tác
động trực tiếp lên bụi bẩn đó. Các chất bẩn có thể là sự kết hợp pha trộn giữa các hợp
chất khác nhau, ví dụ như các chất bã nhờn, mồ hôi trên cổ áo sơ mi của con người, sữa
ca cao, nước thịt hoặc sô cô la.
Thuốc tẩy không phải là nhóm sản phẩm enzyme duy nhất được ứng dụng làm chất tẩy
rửa để làm sạch các chất bẩn đã được bán trên thị trường cho đến nay. Tuy nhiên, trong
các tài liệu cũng như các ý tưởng được cấp bằng sáng chế, bản quyền đã cho thấy những
nỗ lực đang được thực hiện bởi các nhà cung cấp enzyme chính và các nhà sản xuất chất
tẩy rửa để phát triển một hệ thống enzyme tẩy trắng cho chất tẩy rửa.
5.2.1.5 Đánh giá hiệu suất của chất tẩy rửa (bột giặt) có chứa enzyme và sàng lọc
chúng
Không phải tất cả các enzyme đều có khả năng (tiềm năng) loại bỏ và làm sạch các vết
bẩn một cách triệt để đưa chúng vào các sản phẩm chất tẩy rửa. Hiệu suất (sự hoạt động)
của enzyme bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như pH của dung dịch chất tẩy rửa, cường độ
ion, nhiệt độ rửa, thời gian giặt, thành phần chất tẩy rửa, và xử lý cơ học. Hoạt động bề
mặt của chất tẩy rửa, hệ thống chất tẩy rửa, và các enzyme khác có thể ảnh hưởng đến
hiệu suất và sự ổn định.


Các enzym phải có một bề mặt đặc hiệu đủ rộng bởi vì trong bình quân lượng quần áo
bẩn có chứa các enzyme bề mặt ở nhiều dạng, hình thức khác nhau. Ví dụ, trong trường
hợp của protease, chất nền protein có thể bị thay đổi sự oxi hóa- khử hoặc sự tạo phức với
carbohydrate.
Một enzyme tẩy rửa sẽ hoạt động trong khoảng pH tối ưu của chất tẩy rửa là khoảng (từ
7 đến 11) và ở nhiệt độ rửa thích hợp là (4-60 0C). Một enzyme chất tẩy rửa phải được
hoạt động tại độ pH của các giải pháp chất tẩy rửa (từ 7 đến 11) và ở nhiệt độ rửa có liên

quan (4-60 8C). Quan trọng hơn, các enzyme phải phù hợp với các thành phần của chất
tẩy rửa như bề mặt, kết cấu, chất tẩy và các enzym khác, không chỉ trong quá trình rửa
mà còn khi lưu trữ các hợp chất trong chất tẩy rửa. Đặc biệt là, một loại enzyme như vậy
phải chịu được với sự biến tính bề mặt hoạt động và chất tẩy và hướng tới làm suy thoái
protease trong các điều kiện
Các enzyme có thể được sàng lọc, kiểm tra bằng việc khảo nghiệm các hoạt động của
chúng trên các chất nền hòa tan trong các điều kiện khác nhau từ những quá trình tẩy rửa
trong thực tế. Các enzyme được kiểm tra, sàng lọc thường xuyên bằng các xét nghiệm
phân tích quang phổ với chất chất hòa tan chromophoric và các quy trình này đều được tự
động hóa hoàn toàn để giúp cho việc phân tích nhanh chóng, đạt hiêu suất, thông lượng
cao. Kết quả khảo nghiệm có thể cho biết hoạt động của enzyme trên chất nền hòa tan đối
với sự thay đổi của pH và nhiệt độ và đối với các enzyme phù hợp với các thành phần
chất tẩy rửa hoặc điều kiện enzyme ức chế, vv. Tuy nhiên kết quả các dữ liệu phân tích
thu được với các chất nền hòa tan không nhất thiết phải đại diện cho hoạt động rửa của
enzyme, và thường có mối tương quan thấp với kết quả thu được với các enzyme trong
điều kiện giặt rửa trong thay thực tế (tức kết quả thực nghiệm hoạt động của enzyme giặt
rửa trên lý thuyết có mối tương quan thấp với kết quả hoạt động của enzyme trong điều
kiện giặt rửa thực tế (hình 53).


Hình 53- Ví dụ về sự sai lệch trong các số liệu phân tích hoạt động của các chất hòa tan
và quá trình giặt ủi trong hiệu suất của các quy mô làm sạch [602]. Protease Savinase:
một enzyme protein trong phân tích hiệu suất trên hemoglobin đã biến tính ở 25 0C, 10
phút; hiệu suất rửa trên các vết bẩn trên cỏ, 300C, 10 phút
Một điều quan trọng phải nhận ra rằng enzyme có tác động đáng kể đến hiệu suất hoạt
động trên bề mặt chất nền mà dường như không liên quan tới chất nền mục tiêu. Ví dụ,
như enzyme proteases có thể mang lại nhiều lợi ích đáng kể về hiệu quả loại bỏ các vết
máu protein và các vết bẩn từ cỏ dính trên vải. Việc nghiên cứu thử nghiệm quá trình
trình tẩy rửa bằng các sử dụng một loạt các vết bẩn của những người tiêu dùng, những
khác hàng là việc làm cần thiết đánh giá hiệu quả hoạt động tẩy rửa hoàn toàn của các

enzyme tẩy rửa.
Để đánh giá hiệu suất tẩy rửa thường sử dụng một miếng thử nghiệm vết bẩn. Ví dụ, các
vết bẩn như sữa, máu, các mẩu cỏ dính trên bông hoặc vải tổng hợp thường sử dụng
protease để đánh giá hiệu suất tẩy rửa. Các vết bẩn cũng có thể chứa các hạt vật chất ở
dạng các hạt bụi, ví dụ như các hạt carbon đen, như là một phần của các vết bẩn. Các tài
liệu kiểm tra tiêu chuẩn sẵn có đã được sử dụng trong việc kiểm tra trong các nghiên cứu
và thử nghiệm ở các viện ở châu Âu và Mỹ, ví dụ như Trung tâm Thử nghiệm Vật liệu,
Vlaardingen, , Hà Lan; Viện Wascherei Forschungs, Krefeld, Đức [603]; EMPA St


Gallen, Thụy Sĩ [604] (Bảng 21); Instituut voor Reinigingstechnieken TNO, Delft, Hà
Lan [605]; Kiểm tra Vải, Middlesex, New Jersey [606] và SDL dệt Innovators [607].
Ngoài ra, các nhà sản xuất enzyme có thể cung cấp quy trình chuẩn bị vết bẩn, hoặc vật
liệu bị bẩn cụ thể hoặc các tài liệu cụ thể về các loại vết bẩn có thể được thực hiện tại nhà
với hàm lượng enzyme cao. Cuối cùng, các vết bẩn trên các loại vải tự nhiên và vải
nhuộm màu thu được từ các hộ gia đình có thể được sử dụng để đánh giá hoạt động, hiệu
suất thực tế hơn.

Bảng 21: Ví dụ về các vật liệu thử nghiệm hiệu suất tiêu chuẩn từ EMPA [604]
Các nghiên cứu, thử nghiệm về quá trình tẩy rửa trong phòng thí ngiệm thường được tiến
hành trong các mô hình quy mô nhỏ của máy giặt. Các Terg-o-tometer [608] mô phỏng
các loại máy giặt hàng đầu từ Mỹ của máy giặt, và Launder-o-mét [609] hoặc Linitest
[610] mô phỏng các loại tang (thùng) ở châu Âu [611]. Các mô hình quy mô nhỏ sử dụng
0,2-1 L dung dịch rửa. Cả hai đều có hệ thống nhiệt kiểm soát nhiệt độ và một bộ đếm
thời gian. Các biện pháp trong quá trình tẩy rửa thường sử khuấy trộn bằng cánh khuấy
trong thiết bị Terg-o-tometer và luân phiên của một nồi kín trong Launder-o-mét hoặc
thiết bị Linitest. Việc kiểm tra xác định kích thước các vết bẩn trong dung dịch giặt rửa
với nồng độ chất tẩy rửa và pH được kiểm soát và có hoặc không có các enzyme được



thử nghiệm. Nồng độ enzyme trong xét nghiệm sàng lọc ban đầu có thể nằm trong
khoảng từ 1-100 mg / L của protein phân hủy enzyme.
Việc đánh giá những tác động của enzyme trên miếng thử nghiệm có thể được thực hiện
trực quan bằng cách phân loại bởi một nhóm chuyên gia trong điều kiện kiểm soát về ánh
sáng và các dụng cụ đo lường phản xạ của ánh sáng trong điều kiện quy định. Thông
thường, cường độ ánh sáng chuyển R ở 460 nm khi chiếu sáng phần thử nghiệm với một
nguồn ánh sáng ban ngày chuẩn được thể hiện theo phần trăm,
ánh sáng tới có cùng bước sóng. Giá trị DR hoặc DE (

, cường độ của

) là một thước đo về hiệu

quả (tác động ) của enzyme; nó được định nghĩa là sự khác biệt (sự chênh lệch) về R giữa
các loại vải được giặt với các enzyme và không có enzyme. Giá trị tương quan R tốt được
biết đến là cảm giác ấn tượng về mặt thị giác khi nhìn vào độ tắng sáng của vải. Tùy
thuộc vào loại và mức độ bẩn, sự khác biệt về R hoặc E từ 2-3 đơn vị có thể phát hiện
bằng mắt thường.
Hệ thống hình ảnh kỹ thuật số có thể được sử dụng như công cụ cho việc đánh giá hiệu
quả tác động trong việc sàng lọc các enzyme thường có hiệu suất lớn hơn việc sử dụng
vết bẩn tiêu chuẩn và phương pháp quy mô nhỏ thực hiện kiểm tra trong phòng thí
nghiệm.
Để đánh giá đầy đủ các tác dụng tẩy rửa của một loại enzyme, hai bước có thể được xem
xét: (1)'' Tác động giặt sơ cấp'' (hiệu quả làm sạch) đề cập đến việc loại bỏ các vết bẩn và
đất sau khi giặt rửa lần 1. Thử nghiệm được thực hiện như mô tả ở trên bằng cách sử
dụng các loại vải nhân tạo làm bẩn chúng rồi thử nghiệm với vết bẩn đó hoặc cho bẩn tự
nhiên trên vải để thử nghiệm.
(2)'' Hiệu ứng giặt thứ cấp'' (tác dụng sau khi quá trình được rửa lặp đi lặp lại) đề
cập đến hiệu quả tiềm năng tẩy rửa đa năng của một số enzyme (ví dụ, với Lipase) hay để
phát hiện các tổn thương chẳng hạn như mất cường độ ăn mòn, phá vết bẩn là những lớp



vỏ, lớp phủ đã lâu ngày khó phá vỡ ( incrustations ) như hresidues,. Các đánh giá sau
thường được dựa trên 25 hay 50 lần giặt rửa, bao gồm cả kiểm soát một loại vải.
Một cách tiện lợi để báo cáo hiệu suất của chất tẩy rửa enzyme là việc sử dụng các đường
cong đáp ứng liều lượng. Thông thường, các enzyme liên quan đến hiệu suất tăng đáng kể
trong khoảng nồng độ enzyme thấp hơn, nhưng đạt đến một mức tối đa ở liều lượng
enzyme cao hơn.
Hình 54 : So sánh hiệu suất protease như một hàm số của liều lượng enzyme. Việc thực
hiện tại 600C đạt đến sự ổn định ở một liều lượng enzyme khoảng 0,04% khối lượng của
enzyme kết tinh (ở dạng kết thành hạt) trong chất tẩy rửa. Ở nồng độ enzym này, vải sạch
và các vết bẩn có thể được loại bỏ hoàn toàn, nghĩa là, giá trị R đo được giống như của
một phần thử nghiệm giặt rửa loại bỏ bẩn trong cùng điều kiện.

Hình 54: Ví dụ về đường cong liều lượng đáp ứng cho Savinase 6.0 T protease
(Novozymes) trong một chất tẩy rửa bột, 4 g / L trong một thử nghiệm Launder-o-mét
60 8C trong 40 phút. Nguồn: Novozymes.
Phạm vi mà các enzyme có thể loại bỏ vết bẩn và đất từ vải phụ thuộc vào thành phần
chất tẩy rửa, nhiệt độ rửa, pH rửa, thời gian giặt, lượng chất tẩy rửa, vv. Hiêu suất tẩy rửa
của enzyme có sự khác nhau, thay đổi giữa chất tẩy rửa ở dạng lỏng và chất tẩy rửa dạng


bột với các thành phần của bẩn. Hình 55 cho thấy các thành phần vải cũng ảnh hưởng đến
cấu hình của vết bẩn với những vết bẩn có cấu hình tương tự (EMPA 117 trên sợi bông
tổng hợp và EMPA 116 chỉ trên bông).

Hình 55: Hiệu quả xử lý vết bẩn ở nước Mỹ, chất tẩy rửa lỏng (0,4% Savinase 16L) và
bột giặt (dạng bột) (0,8% Savinase 8.0T) của Mỹ về sự khác nhau trong tiêu chuẩn về
vết bẩn trong một Terg-o-tometer hoạt động ở 6 0 dH độ cứng của nước, 200 C, 10 phút.
EMPA 117 (sữa, máu, và mực in về polyester / vải cotton); AS 10 (sữa, dầu, và các sắc

tố trên 100% cotton); cỏ (trên 100% cotton); EMPA 116 (sữa, máu, và mực in trên
100% cotton); WFK bẩn máu (trên 100% cotton). Nguồn: Novozymes.
Hơn nữa việc giảm quy mô đánh giá hiệu suất của các enzym chất tẩy rửa đã đạt được, và
màn hình hiệu suất thông lượng cao cho các enzyme đang được phát triển. Đây là loại
đánh giá hiệu suất sử dụng các tấm đa hiệu giá, từng nắm giữ khối lượng ml dung dịch


rửa trong điều kiện kiểm soát nhiệt độ (hình 56). Mức độ khuấy trộn thực tế trong dung
dịch được đảm bảo với việc khuấy được thu nhỏ. Trong điều kiện thử nghiệm tối ưu hóa
một mối tương quan tốt với điều kiện giặt thực tế có thể đạt được. Hiệu suất có thể được
đánh giá trực quan hoặc tốt hơn là sử dụng phương pháp đọc tấm hiệu giá và phần mềm
thường được sử dụng trong ngành công nghệ hóa học protein. Đánh giá hoạt động thu
nhỏ như vậy có nhiều lợi thế như lượng tiêu thụ thấp của enzyme, và thứ tự của
microgram so với mg trong các thử nghiệm quy mô nhỏ khác, và đánh giá tốc độ cao của
nhiều điều kiện hoạt động trong một thí nghiệm đa chức năng.

Hình 56: Hình thể hiện hiệu suất thông lượng cao của các enzyme tẩy rửa. Hiệu suất
tẩy rửa của enzyme trên các vết bẩn từ cỏ được đánh giá ở một mức độ enzyme so với
cấu hình độ cứng của các giải pháp rửa (0-10mmol Ca2 +). Trái: các loại vết bẩn từ
cỏ sau khi xử lý; bên phải: đánh giá các dụng cụ dính vết bẩn từ cỏ. Nguồn: các số
liệu, biểu đổ chưa được công bố của G. Bechmann, C. Joos, S. Cooremans (Procter &
Gamble Eurocor).
Kết luận cuối cùng về hoạt động của một enzyme chất tẩy rửa phải được xác nhận trong
một thiết bị giặt thực tế sử dụng với lượng giặt rửa thực tế và với các chương trình rửa ở


nhiệt độ rửa khác nhau và sử dụng chất tẩy rửa so với độ cứng của nước. Cuối cùng các
thử nghiệm hiệu suất có thể được lặp đi lặp lại trong mọi điều kiện địa lý rửa hoặc địa
phương quan trọng để xác nhận sự vững mạnh của các loại enzyme trong các điều kiện
rửa.

5.2.1.6 Các loại enzyme
Proteases
Protease thủy phân protein thành các mảnh nhỏ hơn, ví dụ như, các peptide hoặc các axit
amin. Trong điều kiện chất tẩy rửa, những vết bẩn protein trên vải (giặc đồ) hoặc trên các
bề mặt cứng (ví dụ như trong việc rửa bát đĩa) đã bị phân hủy thành các mảnh vỡ mà
chúng được loại bỏ hoặc được hòa tan bởi các thành phần khác của dung dịch rửa.
Proteases là những thành phần được thiết lập ở hầu hết các chất tẩy rửa gia dụng ở trên
toàn thế giới ngoại trừ ở một số nước đang phát triển chúng được sử dụng để loại bỏ các
viết bẩn như vết máu hoặc là vết bẩn.Những tác động của protease là rất rõ ràng, và chi
phí enzyme, xem xét đến ảnh hưởng là tương đối thấp. Trên một số vết bẩn thực phẩm, ví
dụ, ca cao, là sự kết hợp có hiệu quả với amylase và lipase có thể quan sát được.

Bảng 22: Ví dụ về các chất tẩy rửa protease thương mại có sẵn (Novozymes) [613-617]
Hấu hết chất tẩy rửa protease ngoài thị trường là subtilisins và đã được phân loại trong
bảng tóm tắt hóa học.Số enzyme phân loại là EC 3.4.21.62. Tên subtilisin xuất phát từ tên


của một loài vi khuẩn, Bacillus subtilis, mà protease lần đầu tiên được phân
lập.Subtilisins là serine endo-peptidase ngoại bào, và bây giờ cũng gồm các protease
được phân lập từ các loài vi khuẩn Bacillus.
Protease đầu tiên của loại này đã được subtilisin Carlsberg từ licheniformis Bacillus,
phân lập vào năm 1947 ( còn gọi là subtilisin A, Alcalase Novo). Sau đó vào năm 1954
subtilisin cũng được phân lập từ B. amyloliquefaciens và cũng được biết như là subtilisin
BPN0, Nagase, Primase, vi khuẩn proteinase Novo, Novo Sub.
Chất tẩy rửa ngoài thị trường protease có cấu trúc tương tự và không có sự khác biệt giữa
chúng, tất cả chúng được đặc trưng bởi tính chất đặc hiệu và chủ yếu khác nhau ở nhiệt
độ tối ưu và pH tối ưu, độ nhạy của thuốc tẩy và nhu cầu về ion Ca. Một số có tính kiềm
cao, ví dụ như có một hoạt động mạnh nhất trong khoảng pH cao, chẳng hạn như
Maxacal và Savinase. Còn những khác có tính kiềm thấp, ví dụ như Maxatase, Alcalase,
và subtilisin Novo (BPN0). Bảng 22 trình bày ví dụ về protease trên thị trường và phạm

vi ứng dụng.Tất cả đều có một phân tử trọng lượng từ 20 – 30 000,và có một lượng serine
dư thừa trong hoạt động của enzyme. Hình 57 và 58 minh họa cho độ pH và nhiệt độ của
một số protein trên thị trường thấp và kiềm cao trong khảo nghiệm phân tích trên
dimethylcasein (DMC) bề mặt.
Hiệu suât protease có thể ảnh hưởng mạnh mẽ bởi pH và độ bền của ion.Hoạt động bề
mặt cũng có ảnh hưởng cả về hiệu suất protease và tính ổn định trong các phương pháp
rửa. Nhìn chung hoạt động bề mặt của anion mạnh hơn nhiều so với bề mặt lưỡng tính và
mạnh hơn nhiều so với bề mặt không ion.
Tất cả các chất tẩy rửa protease bị mất ổn định bởi alkylbenzenesulfonate( LAS) và
sunfat alkyl (AS), hầu hết là những loại phổ biến của bề mặt anion trong chất tẩy rửa.
Nồng độ LAS và nhiệt độ rửa cao, làm bất hoạt enzyme.Sự có mặt của bề mặt không ion
sunfat hoặc alkyl ethoxylat hóa, tuy nhiên mất tác dụng của ở một mức độ tác động tiêu
cực của LAS.Hầu hết các chất tẩy rửa đều có chứa một số hoạt động bề mặt không ion


ethoxylat hóa hoặc AS sự ổn định của protease trong việc tẩy rửa và đó không phải là vấn
đề.
Xây dựng gốc phosphate như natri triphosphate và không phosphate như zeolite và citrate
nhằm loại bỏ nhưng canxi tự do từ dung dịch rửa. Sau khi xây dựng acid như
nitrilotriacetic và polycarboxylates cũng có thể tích hợp vào xây dựng các chất tẩy rửa.
Hiệu suất rửa của chất tẩy rửa giảm nồng độ canxi tăng.Hiệu suất protease khác nhau,
nhưng nồng độ canxi cao có xu hướng làm giảm hiệu suất protease.Vì vậy, nó là một lợi
thế để thêm một hệ thống xây dựng các chất tẩy rửa.Protease cần một lượng nhỏ canxi
mục đích cho sự ổn định, nhưng ngay cả với các hệ thống xây dựng hiệu quả nhất, ổn
định trong quá trình rửa thường cũng không phải là vấn đề.
Hình 57: Hoạt động của chất tẩy rửa
protease khác nhau phụ thuộc vào độ
pH ở 25 0 C, thời gian phản ứng 10
phút, chất DMC [614-616].


Hình 58: Hoạt động của protease chất
tẩy rửa khác nhau phụ thuộc vào nhiệt
độ trong dung dịch ở pH 8,5 (Alcalase)
và 10,1 (Savinase, Esperase), thời gian
phản ứng 10 phút, chất DMC [614616].
Hệ thống tẩy trắng trong các sản phẩm giặt cũng có thể bị ôxy
hóa các vết bẩn trên vải proteinaceous, thường cũng làm cho


chúng khó khăn hơn để loại bỏ.Chất tẩy rửa protease có thể phần nào chống lại những tác
động tiêu cực của thuốc tẩy. Hầu hết các chất tẩy rửa là ổn định trong suốt chu kỳ có sự
hiện diện của hệ thống thuốc tẩy.
Hình 59: Lưu trữ
ổn định thuốc tẩy
protease
(Everlase,
Novozymes) chất
tẩy rửa ở dạng
bột ở châu Âu với
hệ thống tẩy kích
hoạt. Lưu trữ ở
37 8C, 70% R.H.,
mở chai thuốc
[613].
Sự ổn định trong
chất tẩy rửa có
chứa chất tẩy trắng có thể là một vấn đề cho việc tạo ra chất tẩy rửa protease.Đặc biệt,
methionine axit amin trong phân tử protease có thể được oxi hóa trong suốt quá trình lưu
trữ bằng hệ thống tẩy trong chất tẩy rửa dẫn đến ngừng hoạt động của protease.Ví dụ như
Savinase chất tẩy rửa protease chứa lượng dư thừa methionine ở 3 vị trí, bên cạnh các

serine hoạt động. những kỹ thuật mới được giới thiệu vào trong thị trường hầu như là các
amino acid nhạy cảm, ví dụ methionine gần vị trí hoạt động, thay thế bằng acid amin
khác không nhạy cảm đối với quá trình oxy hóa. Thay đổi nhỏ này trong cấu trúc phân tử
làm tăng tính ổn định lưu trữ trong chất tẩy rửa có chứa thuốc tẩy. Thuốc tẩy rửa protease
đã được phát triển bởi việc sử dụng kỹ thuật protein bao gồm Everlase (một amino acid
thay đổi từ Savinase) và Purafect OxP mà cao hơn là Durazym và Purafect liên quan đến
hiệu suất rửa với chất tẩy trắng có chứa chất tẩy rửa. Ngoài ra , chất tẩy rửa ổn định


protease cũng được lưu trữ tốt khi đươc hình thành trong chất tẩy rửa có chứa chất tẩy
trắng.
Thuốc tẩy clo (sodium hypochlorite, NaOCI) không được phối trộn vào trong những chất
tẩy rửa quần áo nhưng có thể được sử dụng như một phụ gia riêng biệt để rửa, phổ biến ở
một số nơi trên thế giới.Thuốc tẩy hypochlorite vượt quá 200 ppm trong việc rửa sạch
bình thường có thể nhanh chóng oxy hóa những enzyme, dẫn đến mất ý nghĩa về hoạt
tính của enzyme.Chất tẩy rửa protease có thể tồn tại nồng độ thấp như NaOCl, như mô tả
ở hình 60.

Hình 60: Hiệu suất hoạt động của một chất tẩy trắng ổn định protease (Everlase,
Novozymes) so protease cũ (Savinase, Novozymes) hiện diện trong thuốc tẩy. Loại bỏ vết
cỏ, Terg-o-tometer, Mỹ HDP 1 g / l, pH 9.3, 40 0C, 10 phút, 10 0 dH độ cứng của nước
[613].


5.2.1.6.2 Amylase
Amylases trong bột giặc trên thị trường gồm có các -amylase từ Bacillus
amyloliquefaciens và nhiệt độ ổn định của -amylase từ Bacillus licheniformis và từ các
loài Aspergillus.a-Amylase (EC 3.2.2.1) xúc tác cho việc thủy phân của liên kết 1,4alpha-D-glycosidictrong polysaccharides chứa ba hoặc nhiều hơn liên kết 1,4 glucose.
Enzyme đóng vai trò chính là tinh bột, glycogen, và oligosaccharides.- amylase được đặc
trưng bằng cách tấn công vào các polymer tinh bột, tách ngẫu nhiên sợi 1,4 để mang lại

sản phẩm ngắn hơn, dextrin tan trong nước, chúng là những loại ưa thích của amylase
cho bột giặc và bao gồm cả dạng bột và dạng lỏng trên nhiều quốc gia -amylase làm tăng
hiệu suất tổng thể chất tẩy rửa ở nhiệt độ thấp hơn và Rửa sạch với hệ thống hóa chất tẩy
rửa nhẹ.
Enzyme thủy phân tinh bột cũng có tiềm năng thú vị như -amylase (EC 3.2.1.2) và
pullulanase (EC 3.2.1.41), nhưng nó chưa được thương mại hóa trên thị trường ứng dụng
chất tẩy rửa. -amylase khác với -amylase ở chỗ chúng thủy phân liên kết 1,4 -Dglycosidic, loại bỏ các đơn vị maltose từ chuỗi chuỗi polysaccharide. Những hoạt động
này không có hiệu quả cho việc loại bỏ vết bẩn.Pullulanase là enzyme thủy phân tinh bột
và thủy phân liên kết 1,6--D-glycosidictrong amylopectin và pullulan, thủy
phânamylopectin. Trong hỗn hợp hệ thống enzyme amylase và pullulanase có thể thực
hiện việc thủy phân tinh bột đầy đủ hơn.
Bảng 23 Liệt kê một số điều kiện áp dụng cho - amylase trong những ứng dụng của chất
tẩy rửa.
-amylase xúc tác cho sự thủy phân những vết bẩn có chứa tinh bột, cải thiện việc làm
sạch bằng cách thủy phân các vết bẩn có tinh bột dạng keo gắn kết với các vết bẩn khác
và các vết bẩn trên vải


Tuy nhiên tinh bột trong tự nhiên chậm bị thoái hóa bởi - amylase.Sự hồ hóa và sự căng
lên là cần thiết để làm cho tinh bột dễ bị enzyme phân hủy. Đối với hầu hết những vết bẩn
thực phẩm, sự hồ hóa có nhiều cấp độ khác nhau từ việc nấu thực phẩm có chứa tinh bột
ví dụ như, mì ống, khoai tây, nước thịt, và thức ăn trẻ em.
Nếu như quy trình chế biến thực phẩm không vượt qua nhiệt độ hồ hóa tinh bột, tinh bột
có thể ở dạng một phần hoặc không hồ hóa.Tinh bột như vậy là vô định hình, thường rất
khó khăn để loại bỏ khỏi bề mặt mà không cần đến việc giặc bằng cách tăng nhiệt độ
nước.Sự hiện diện của một amylase làm cho việc giặc rửa bằng nước nóng là không cần
thiết trong quá trình giặc và nên tăng cường hiệu suất giặc sạch của các chất tẩy rửa tại
nhiệt độ giặc thấp.
Tinh bột hồ hóa có thể hình thành một màng trên vải có thể dẫn đến việc tăng bụi bám
sau khi giặc. Những vết bẩn tinh bột kết hợp với các vết bẩn khác gây ra nhiều khó khăn

cho việc loại bỏ tinh bột. Kết quả là các sản phẩm giặt trắng ngày càng xám hơn sau khi
lặp đi lặp lại các chu kỳ giặc, có một hiệu ứng mà đã được chứng minh bởi việc thêm
khoảng 0,5 g tinh bột cho mỗi kg bông vải. Tinh bột có thể có những phản ứng khác nhau
phụ thuộc vào hàm lượng tinh bột, mà được cho là màng hình thành thành phần của tinh
bột.Hình thành màng được ưa chuộng với điều kiện giặt ở Châu Âu, trong đó nhiệt độ
gần với nhiệt độ của hồ tinh bột.


×