Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
PHẦN 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Tổng quan về rủi ro:
1.1 Khái niệm rủi ro:
Rủi ro là biến động tiềm ẩn ở kết quả .
1.2 Nguy cơ rủi ro:
Một tình huống được tạo nên bất kỳ lúc nào gây nên tổn thất hay lợi ích có thể có
mà chúng ta không thể tiên đoán.
1.3 Phân loại rủi ro:
-
Rủi ro thuần túy và rủi ro suy đoán.
Rủi ro có thể đa dạng hóa và rủi ro không thể đa dạng hóa.
1.4 Quy trình quản trị rủi ro :
NHẬN DẠNG
ĐO LƯỜNG
KIỂM SOÁT
TÀI TRỢ
2. Những vấn đề chung về rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCK :
2.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch
mua bán chứng khoán thì đó là hoạt động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đó có
Nhóm SUPERKIDS
Page 1/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
thể là thị trường chứng khoán có tổ chức hoặc không có tổ chức, tập trung hay không tập
trung.
Thị trường tập trung là các Sở giao dịch chứng khoán hay Trung tâm giao dịch
chứng khóan. Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung tại một
địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép
lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
Thị trường chứng khoán phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter).
Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng
khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá
trên thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận (Nguồn: Công ty
chứng khoán ngân hàng ngoại thương). Thị trường chứng khoán TP.HCM là thị
trường tập trung, các lệnh giao dịch được khớp tại Sở giao dịch chứng khoán.
Thành phần tham gia thị trường chứng khoán
Thành phần tham gia thị trường chứng khoán có 6 thành phần như sau: Các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư riêng lẻ, các tổ chức tài chính, nhà môi giới kinh doanh chứng
khoán, người tổ chức thị trường và Nhà nước.
Các doanh nghiệp: tham gia thị trường với tư cách là chủ thể tạo ra hàng hóa để
cung cấp cho thị trường. Các doanh nghiệp này cũng có thể được gọi là các công ty niêm
yết hay nhà phát hành theo cách gọi thông thường. Ngoài chức năng chính tạo ra hàng
hóa (cổ phiếu) để huy động vốn, các doanh nghiệp cũng có thể mua đi bán lại các chứng
khoán do các công ty khác phát hành.
Nhà đầu tư riêng lẻ và các tổ chức tài chính: hai thành phần này ta có thể gọi
chung là nhà đầu tư. Trong đó nhà đầu tư riêng lẻ là những người có vốn nhỏ nhàn rỗi
tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời. Các tổ
chức tài chính bao gồm công ty đầu tư quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, công ty tài chính,
ngân hàng, các công ty chứng khoán…tham gia thị trường cả tư cách người mua và
người bán. Thông thường các tổ chức tài chính có thời gian đầu tư và khối lượng giao
Nhóm SUPERKIDS
Page 2/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
dịch trên thị trường dài và lớn hơn nhà đầu tư riêng lẻ. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức
trên thị trường thì rất ít so với số lượng nhà đầu tư riêng lẻ.
Nhà môi giới kinh doanh chứng khoán: có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Đa phần
các hoạt động môi giới hiện nay là những công ty chứng khoán. Ngoài nghiệp vụ môi
giới các công ty này có thể thực hiện nhiều chức năng khác như tự doanh, quản lý quỹ
đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Người tổ chức thị trường: chiếm vai trò chủ yếu của người tổ chức thị trường là
các Trung tâm giao dịch chứng khoán hay Sở giao dịch chứng khoán. Các Trung tâm, Sở
này cung cấp địa điểm và phương tiện để thực hiện việc mua bán chứng khoán cho các
chủ thể tham gia giao dịch, điều hành thị trường để các giao dịch diễn ra công bằng và
minh bạch. Ngoài các Trung tâm và Sở giao dịch, Trung tâm lưu ký, công ty dịch vụ
máy tính chứng khoán... cũng có chức năng không kém phần quan trọng làm cho thị
trường hoạt động hiệu quả.
Nhà nước: góp phần đảm bảo cho thị trường hoạt động theo đúng các qui định của
pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người đầu tư, đảm bảo thị trường hoạt động
bền vững và hiệu quả. Ngoài ra Nhà nước cũng có thể tham gia thị trường với tư cách là
nhà phát hành. Đó là thông qua Chính phủ hoặc các chính quyền địa phương phát hành
các trái phiếu nhằm huy động vốn trên thị trường chứng khoán để vay nợ hoặc tài trợ các
dự án công. Nhà nước cũng có thể bán hoặc mua các chứng khoán của các doanh nghiệp
nhằm kiểm soát quyền chi phối các doanh nghiệp theo mục đích.
2.2. Phân loại thông tin trên thị trường chứng khoán :
TTCK là một thị trường có sức tác động mạnh mẽ của thông tin và thực tế hầu như
không có ai có thể bác bỏ được là thông tin ảnh hưởng đến giá CP. Khi có thông tin liên
quan đến công ty hay cổ phiếu, thị trường sẽ tiếp nhận và phản ứng thông qua việc thay
đổi giá. Thông tin trên thị trường chứng khoán có nhiều loại khác nhau:
• Thông tin chính thức là thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước, từ UBCKNN và
từ những cá nhân được giao trọng trách công bố thông tin. Những thông tin chính
Nhóm SUPERKIDS
Page 3/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
thức cần phải có được sự kiểm định kỹ càng, đánh giá mức tác động đến thị trường,
vì những thông tin này có chức năng điều chỉnh thị trường.
• Thông tin tin cậy, là nguồn thông tin từ những cơ quan nghiên cứu , từ những
chuyên gia có uy tín. Những thông tin này không có chức năng điều tiết thị trường
nhưng cũng có tác động lớn đến thị trường do uy tín của những cơ quan hay cá nhân
công bố nguồn thông tin tin cậy.
• Nhận định cá nhân: mỗi nhận định của cá nhân đều dựa trên những số liệu và phân
tích khác biệt. NĐT cá nhân có thể tham khảo những nhận định này và đưa ra quyết
định đầu tư của mình.
Nếu so với kỳ vọng thì thông tin chia làm hai loại: thông tin tốt làm cổ phiếu tăng
giá và thông tin xấu làm cổ phiếu giảm giá.
Vai trò của thông tin trên TTCK
Thị trường được xem là hiệu quả khi nó thể hiện ở ba khía cạnh: phân phối hiệu
quả, hoạt động hiệu quả và thông tin hiệu quả.
Phân phối hiệu quả khi các nguồn vốn được đầu tư có hiệu quả nhất, tức có nghĩa
vốn của nhà đầu tư đầu tư vào những công ty có tiềm năng phát triển nhất.
Hoạt động hiệu quả khi các chi phí giao dịch trong thị trường được quyết định
theo quy luật cạnh tranh. Chi phí giao dịch hiệu quả là chi phí mà nhà đầu tư trả cho các
nhà môi giới có sự cạnh tranh lẫn nhau và chi phí này được xem là chi phí bình thường
mà nhà đầu tư phải bỏ ra. Hoạt động của thị trường được xem là hiệu quả nhất khi nó có
chi phí giao dịch bằng không. Thực tế thì điều này không xảy ra vì phí môi giới là nguồn
thu giúp các nhà tạo lập thị trường, nhà môi giới được tồn tại.
Thông tin hiệu quả khi giá giao dịch phản ảnh đầy đủ và tức thời các thông tin có
ảnh hưởng tới thị trường. Để đánh giá được vai trò của thông tin, chúng ta hãy xem xét
hành vi mua bán cổ phiếu của nhà đầu tư trên thị trường theo phương pháp của Kendall,
theo ông các nhà đầu tư sẽ tìm cách mua khi giá có khuynh hướng tăng và bán khi giá có
Nhóm SUPERKIDS
Page 4/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
khuynh hướng giảm. Thực tế, khi nhà đầu tư dự đoán giá có khuynh hướng tăng thì ngay
lập tức giá chứng khoán trên thị trường sẽ tăng.
Vì vậy giá chứng khoán sẽ phản ứng ngay lập tức khi có thông tin dự đoán giá sẽ
tăng và ngược lại đối với trường hợp dự đoán giá sẽ giảm. Như vậy, thông tin là một
trong ba yếu tố cấu thành để làm nên một thị trường chứng khoán hiệu quả. Trong đó
thông tin có vai trò quyết định đến giá chứng khoán trên thị trường. Thị trường có thông
tin minh bạch và đầy đủ sẽ hình thành nên giá chứng khoán hợp lý và tạo được niềm tin
của công chúng vào thị trường chứng khoán.
2.3. Rủi ro thông tin đối với NĐT :
Thật hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của NĐT lại đòi hỏi và
gắn liền với yêu cầu về tính đa dạng, tính hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác của
các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư CK. Theo đánh giá của một
số chuyên gia, TTCKVN có tiềm năng rất lớn nhưng cũng chứa đựng mức độ rủi ro cao,
trong đó đáng chú ý nhất là thông tin. Ngoại trừ những quỹ đầu tư và CTCK có điều
kiện nắm bắt phần nào thông tin của các công ty đã và sắp niêm yết, hầu hết các nhà đầu
tư cá nhân đều khó biết được chính xác tình hình hoạt động của các công ty do số liệu
liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty chưa được công khai và minh bạch vì
nhiều lí do khác nhau, mặc dù đó là yêu cầu cơ bản của TTCK. Mặt khác, NĐTCK là
người luôn náo nức trước mọi tin đồn và hăng hái góp phần vào tin đồn, và trong số họ
ai nắm được thông tin tốt hơn cả thì dễ dàng chiến thắng và giảm thiểu được nhiều rủi
ro. Nói cách khác rủi ro trong kinh doanh CK có nguồn gốc rất sâu đậm từ số lượng và
chất lượng thông tin mà NĐT cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư. Rủi ro luôn
rình rập ở mọi nơi và NĐT sẽ phải trả giá sớm hay muộn, đắt hay rẻ, không nắm được
các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan đến môi trường đầu tư,
chất lượng chứng khoán và tình hình thị trường. Một báo cáo tài chính hay bản cáo bạch
chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và
trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén, không chính xác về
Nhóm SUPERKIDS
Page 5/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp lý, đều có thể
gây ra thiệt hại cao cho NĐT CK.
Thông tin có vai trò quan trọng trong thị trường chứng khoán nhưng có một điều
làm chúng ta ngạc nhiên là nhiều doanh nghiệp niêm yết thời gian qua vẫn chưa hiểu rõ
các quy định về công bố thông tin, hoặc bị động trong công bố thông tin. Từ trước đến
nay mỗi khi cần công bố thông tin, doanh nghiệp chỉ gửi thông tin đến TTGDCK và coi
đây là kênh duy nhất công bố một cách chính thống những thông tin của doanh nghiệp
niêm yết ra thị trường.
Kể từ khi TTCKVN ra đời cho đến nay, với một cơ sở pháp lý chưa hoàn thiện,
những công bố thông tin không kịp thời, không minh bạch của các công ty niêm yết,
cùng với sự hạn chế về năng lực đã làm các NĐT trong nước bao phen hoang mang.
Hơn thế nữa, thực tế cho thấy việc công bố thông tin trên TTCK( cả niêm yết và chưa
niêm yết) hiện nay rất sơ sài và mức phạt khi vi phạm công bố thông tin lại rất thấp,
mức phạt làm cho người ta không thấy sợ. Nếu ai đó tung tin và sau đó trục lợi từ thông
tin đó, chẳng may bị phát hiện thì mức phạt tối đa cũng chỉ là 70 triệu đồng.
PHẦN 2 : ĐÁNH GIÁ RỦI RO
1.
Nhận dạng rủi ro:
1.1. Giới thiệu chung :
Những khó khăn đã làm cho thị trường chưa phát huy hết được vai trò thực thụ là
những vấn đề như hệ thống pháp luật chưa bao quát, chính sách điều hành còn mang tính
mệnh lệnh – hành chính, cơ sở hạ tầng tham gia phục vụ thị trường còn hạn chế …và
đặc biệt là các rủi ro thông tin nhất là đối với các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường
Nhóm SUPERKIDS
Page 6/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
chứng khoán, vì hầu hết đây là những người ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư tương đối
mới này.
Hiện có rất nhiều thông tin về công ty niêm yết được công bố, nhưng độ tin cậy lại
không cao hoặc có những thông tin ảnh hưởng lớn đến quyết định mua hay bán của nhà
đầu tư thì rất khó tìm kiếm như chi phí nghiên cứu và đầu tư phát triển là bao nhiêu, các
bài phân tích các chỉ số lợi nhuận, các yếu tố đầu vào để dự báo các chỉ số kế hoạch, cơ
cấu và số lượng cổ đông nội bộ, các kế hoạch hợp tác và định hướng dài hạn vv….
Trên thị trường chứng khoán, khi niềm tin là yếu tố quan trọng nhất thì thông tin là
của quý. Càng có nhiều thông tin về doanh nghiệp, niềm tin của nhà đầu tư về một quyết
định đầu tư sáng suốt với cổ phiếu của doanh nghiệp càng cao. Đặc biệt, khi nhà đầu tư
tin tưởng rằng mình nắm giữ những thông tin không mấy ai có. Điều tưởng chừng như
rất hợp lý này lại chính là cái bẫy nguy hiểm và là sai lầm dễ mắc phải của nhiều nhà
đầu tư.
Từ đó , ta xác định được các yếu tố :
- Mối hiểm họa: ( gồm các điều kiện tạo ra hoặc làm tăng khả năng tổn thất): là cơ sở
pháp lý chưa hoàn thiện , hoặc DN chưa tuân thủ pháp luật, do tâm lý bầy đàn và sự hạn
chế về năng lực của nhà đầu tư, đồn thổi và phản ánh không chân thực của báo chí, hay
là cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu ...
- Mối nguy hiểm: ( các nguyên nhân của tổn thất).
+ Thông tin không minh bạch
+ Thông tin thiếu chính xác
+ Thông tin chậm
+ Thông tin nội gián
- Nguy cơ rủi ro: ( các đối tượng chịu các kết quả , có thể là được hoặc mất): Nhà đầu tư
cá nhân trên thị trường không nắm được các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời.
1.2. Nguồn rủi ro :
Nhóm SUPERKIDS
Page 7/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
Môi trường luật pháp :
Có rất nhiều sự bất định và rủi ro phát sinh từ hệ thống pháp luật.
Ở Việt Nam , cơ sở pháp lý về việc công bố thông tin vẫn chưa hoàn chỉnh, đồng
thời những thay đổi trong chính sách cũng không được công bố và cảnh báo kịp thời
và nhà đầu tư không thể biết được gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Điểm
khác biệt giữa TTCK nước ta so với TTCK các nước, đó là có sự can thiệp/chi phối rất
lớn từ phía Chính phủ, do vậy, các biện pháp can thiệp nhằm định hướng phát triển hoặc
đưa thị trường ra khỏi tình trạng khó khăn. Đồng thời khi các DN xảy ra các sai phạm
như chậm công bố thông tin, giao dịch nội gián....thì mức độ xử phạt cũng chưa cao, các
biện pháp xử lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa đủ sức răn đe.
Môi trường hoạt động :
Quá trình hoạt động của DN có thể làm phát sinh rủi ro và bất định cho NĐT. Mức
độ bất định sẽ phụ thuộc vào khối lượng, loại thông tin có được để nhận ra những kết
quả có thể có và đánh giá khả năng xảy ra của chúng.
Nhà đầu tư có thể bị đánh lừa bởi những dấu hiệu sai lệch liên quan đến những
hoạt động của DN đối với những vấn đề ảnh hưởng đến lợi tức của NĐT. Ngoài những
thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì DN không chủ động cung cấp thông
tin đầy đủ, kịp thời (chỉ công bố bảng báo cáo tài chính mà không công bố thuyết minh
báo cáo tài chính ....). Đặc biệt, đối với DN có cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi tập
trung (OTC), tình trạng phổ biến là NĐT hầu như không biết về tình hình hoạt động của
DN. Hoặc đối với DN chào bán cổ phiếu ra công chúng, có thể chính ban lãnh đạo DN
che giấu thông tin để "dìm giá" sao cho những người trong DN có thể mua được cổ
phiếu với giá thấp.
Vấn đề nhận thức :
Đối với Doanh Nghiệp :
Nhóm SUPERKIDS
Page 8/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
- Mức độ tuân thủ pháp luật về công bố thông tin của tổ chức phát hành chưa
cao. Có thể nói, các quy định pháp luật về công bố thông tin trên TTCK đã được
quy định tương đối đầy đủ, song ở nước ta, các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông
tin không phải là không công bố thông tin mà công bố thông tin không kịp thời,
thậm chí có một số trường hợp DN che đậy hoặc làm giả thông tin để đánh lừa
NĐT, khi công bố thông tin trên TTCK, các DN thường che giấu các thông tin bất
lợi, thổi phồng thông tin có lợi.
- Các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của
website với hoạt động của mình. Mức độ truy cập thông tin của các công ty chưa
thường xuyên, các website của các công ty niêm yết hiện còn sơ sài và chưa cập
nhật đầy đủ thông tin, đặc biệt đối với các công ty có quy mô vốn nhỏ, nằm trên
địa bàn vùng sâu xa.
- Trình độ của người quản trị công ty còn yếu, ý thức và trách nhiệm của người
công bố thông tin của tổ chức phát hành còn nhiều hạn chế.
Đối với nhà đầu tư :
-
Đây là dấu hiệu của tâm lý hay hành vi bầy đàn: Hầu hết các NĐT cá nhân bị
ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông, họ thường bị ảnh hưởng của thông tin từ thị
trường, không có chiến lược đầu tư rõ ràng, mua bán theo cảm tính, ai bảo gì mua
nấy. Động cơ mua bán thường theo xu hướng của thị trường và luôn đi ngược lại so
với nhà đầu tư dài hạn, giá cổ phiếu càng tăng thì càng mua, càng giảm thì càng
bán.
- Trình độ của nhà đầu tư chưa cao, chưa mang tính chuyên nghiệp và chưa có
được các kỹ năng để phân tích thông tin.Vì vậy chỉ cần một tin đồn từ các phương
tiện truyền thông hoặc truyền miệng, NĐT chưa có kinh nghiệm, kỹ năng để kiểm
chứng nguồn thông tin, đồng thời do cơ chế thông tin của DN còn yếu kém, chậm
chạp sẽ có tâm lý hoang mang, ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường.
1.3 Phương pháp nhận dạng rủi ro :
Nhóm SUPERKIDS
Page 9/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
Phương pháp lưu đồ
Quy trình công bố thông tin
Các tổn thất tiềm năng có thể có là :
Thiếu thông tin, thông tin không minh bạch:
Theo lý thuyết thị trường hiệu quả, giá của một chứng khoán là kết quả của những
thông tin về nó. Nắm được thông tin luôn là lợi thế kinh doanh trên TTCK, thông tin cơ
sở để các nhà đầu tư căn cứ vào đó ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên việc tiếp cận thông
tin trên TTCKVN hiện nay rất khó khăn. Đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán
việc tiếp cận thông tin cũng không dễ dàng, còn đối với các NĐT cá nhân thì không chỉ
thiếu thông tin mà những thông tin mà họ có thường chỉ là những thông tin tản mạn, rời
Nhóm SUPERKIDS
Page 10/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
rạc và thiếu chính xác. Bởi vì các DN khi công bố thông tin thường có khuynh hướng
che giấu thông tin bất lợi và thổi phồng thông tin có lợi cho mình.
Thông tin thiếu chính xác:
Vì TTCK chưa có hệ thống kiểm chứng thông tin một cách độc lập nên các NĐT
khó kiểm chứng được tính xác thực của thông tin, không thể đảm bảo rằng báo cáo kinh
doanh của các công ty niêm yết là hoàn toàn chính xác, các giao dịch buôn bán CK được
thực hiện theo đúng chuẩn mực. Nhằm mục đích tăng giá trị cổ phiếu khi phát hành, các
công ty, DN có thể cung cấp cho NĐT những thông tin sai lệch về lợi nhuận, hướng
đầu tư, khả năng phát triển của công ty.
Đồng thời, trong quy trình công bố thông tin, cuối cùng thông tin sẽ được Sở
GDCK và các phương tiện truyền thông đại chúng công bố đến NĐT. Tuy nhiên, tính
công khai và đại chúng của thông tin trên các phương tiện truyền thông, báo chí có thể
có những tác động tiêu cực lan truyền nếu người viết, người nói có ý thức trục lợi cá
nhân mà biên tập rất khó kiểm soát và kiểm chứng. Những tồn tại này là tất yếu vì quyền
năng tiếp cận thông tin của báo chí truyền thông là hữu hạn.
Thông tin chậm trễ- bị nhiễu:
Giá trị của thông tin trên TTCK là phải đúng lúc, kịp thời. Theo quy trình công bố
thông tin thí các công ty niêm yết phải chuyển các tài liệu, thông tin về doanh nghiệp
mình về TTGDCK để trung tâm công bố. Tuy nhiên do một số yếu tố chủ quan hay
khách quan trong quy trình công bố thông tin mà nhiều thông tin khi đến tai NĐT thì đã
quá muộn. Hoặc trường hợp đã đến thời gian DN phải công bố thông tin nhưng DN lại
gia hạn thêm thời gian công bố khiến cho việc thông tin đến với NĐT bị chậm trễ .
Mặc khác, phần đông vì thiếu hiểu biết, trước khi các thông tin được công bố, các
NĐT thường có xu hướng nghe ngóng mà không có khả năng kiểm định thông tin đó là
đúng hay sai. Cái sự nghe láng máng và truyền tai nhau trở nên nguy hiểm, vì phương
pháp thu thập, chọn lọc và xử lý thông tin là một trong những điều kiện quyết định sự
Nhóm SUPERKIDS
Page 11/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
thành công của NĐT nhất là trong thị trường chứng khoán mà các NĐT mang nặng tâm
lý bầy đàn như hiện nay.
Thông tin nội gián :
Giao dịch nội gián là khi một tổ chức hay cá nhân mua bán chứng khoán biết được
tông tin nội bộ( xấu hoặc tốt) về doanh nghiệp phát hành có thể ảnh hưởng tới giá chứng
khoán trong khi thông tin này chưa được công bố rộng rãi ra công chúng, hay nói cách
khác, giao dịch nội gián là giao dịch dựa vào những thông tin nội bộ chưa được công bố.
Dựa vào quà trình công bố thông tin, chúng ta thấy khả năng này có thể xảy ra ở
hai giai đoạn:
• Rò rỉ thông tin nơi cung cấp thông tin hay rò rỉ tại công ty phát hành và niêm yết
CP. Thông tin tại các đơn vị này là thông tin nguồn, giá trị của nó rất cao. Vì vậy,
người sở hữu thông tin này, nếu đạo đức kinh doanh của họ không đảm bảo thì khả
năng họ sử dụng thông tin này để làm lợi cho cá nhân là rất lớn. Tuy nhiên cúng ta
chưa có hệ thống kiểm soát chặt chẽ tính nghiêm minh của quá trình công bố thông
tin của các đơn vị phát hành cũng như niêm yết nên việc rò rỉ thông tin là khó tránh
khỏi. Thực tế không ít người, đặc biệt là những người giữ trọng trách trong các công
ty niêm yết, có thể lộ cho những NĐT trên TTCK về kế hoạch kinh doanh trong
quý, tháng và cả những vấn đề nội bộ trong doanh nghiệp chưa công bố.
• Rò rỉ thông tin tại Trung tâm và sàn giao dịch chứng khoán. Theo quy trình công
bố thông tin thí các công ty niêm yết phải chuyển các tài liệu, thông tin về doanh
nghiệp mình về TTGDCK để trung tâm công bố. Trung tâm hoặc sàn giao dịch
chứng khoán có quyền chậm công bố thông tin do các công ty niêm yết công bố
trong thời gian cho phép đến 5 ngày để kiểm chứng lại tính chính xác của thông tin.
Việc làm này trên nguyên tắc là bảo vệ quyền lợi của NĐT. Tuy nhiên, chính trong
thời gian này thông tin có thể bị rò rỉ và làm hại cho nhà đầu tư. Các nhân viên của
các CTCK nắm được thông tin trước các NĐT, họ có thể mua bán trước làm lợi cho
cá nhân hoặc báo cho người thân quen mua dưới nhiều hình thức (vì nhân viên công
Nhóm SUPERKIDS
Page 12/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
ty chứng khoán không được phép mua bán ngắn hạn). Việc sử dụng thông tin chưa
công bố để mua bán chứng khoán kiếm lời (hay tránh lỗ) gây thiệt hại cho các NĐT.
• Với các giao dịch lớn của các quỹ đầu tư thì thông tin bị rò rỉ ở các CTCK – nơi
các quỹ này đặt lệnh. Các nhân viên ở phòng mô giới là những người tiếp cận thông
tin này trước, và một số đã nhanh chân hơn vì khi các quỹ mua cổ phiếu, giá sẽ tăng.
Theo giới tài chính, hiện tượng này được xem là một hoạt động giao dịch nội gián
với tên gọi phổ biến là “fun- running”, tức “cầm tiền chạy trước…quỹ (đầu tư)”.
2. Phân tích tổn thất và hiểm họa :
2.1. Phân tích tổn thất :
2.1.1. Thiếu thông tin, thông tin không minh bạch:
Trong bản báo cáo của HSBC mới đây, một trong những điểm cần được sớm khắc
phục của TTCK Việt Nam chính là nguồn dữ liệu. Ngay tại website của UBCKNN, Sở
GDCK TP. HCM, TTGDCK Hà Nội, thông tin về DN niêm yết cũng bị phân tán rải rác,
đặc biệt là những thông tin về bản cáo bạch mới của công ty niêm yết, phần tóm tắt
thông tin chung hầu như chưa được cập nhật hoặc thiếu các thông tin chỉ dẫn. Với đặc
trưng như vậy, nhà đầu tư sẽ rất khó khăn để có được thông tin toàn diện và đầy đủ về
DN mình cần tìm kiếm.
Nguyên nhân của vấn đề :
Do hệ thống công bố thông tin chưa hoàn chỉnh; cho đến nay TTCK chưa có đơn
vị hay tổ chức nào chịu trách nhiệm công bố thông tin một cách kịp thời, đầy đủ và
chính xác.
Kết quả :
Sự thiếu minh bạch và bình đẳng trong tiếp cận thông tin sẽ hỗ trợ cho các kiểu làm
ăn chụp giật và như thế có thể nhanh chóng hủy hoại lòng tin của nhà đầu tư và gây ảnh
hưởng tiêu cực rất lớn tới sự phát triển bền vững của thị trường. Suốt cả một thời gian
khá dài bắt đầu từ đầu năm 2007, do thị trường tăng nóng, lợi nhuận dễ dàng, hầu hết
Nhóm SUPERKIDS
Page 13/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
các nhà đầu tư không quan tâm lắm đến tính minh bạch trong thông tin chứng khoán.
Nhưng giờ đây, tình hình đã hoàn toàn khác, những tin đồn thiếu cơ sở, những thông tin
nội gián và những sự rò rỉ có ý đồ của không chỉ một vài doanh nghiệp mà cả những
người môi giới thiếu lương tâm đã trở thành điều nhức nhối của thị trường.
Tuy Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 quy định mức tiền phạt đối với
hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật sẽ chịu mức phạt từ 20 đến
70 triệu đồng, nhưng thời gian vừa qua, TTCK nước ta đã trải qua không ít vụ việc mà
thông tin vẫn còn chưa minh bạch theo đúng với nguyện vọng NĐT và quy định của
pháp luật.
Một ví dụ Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2009 của Tổng Công ty cổ phần
Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco), một số cổ đông tỏ ra không mấy đồng
tình với việc HĐQT của Habeco đề ra mục tiêu lợi nhuận 2009 tăng so với năm 2009
trong khi cổ tức năm 2009 theo kế hoạch lại giảm so với năm 2008.
Cụ thể, năm 2008 tổng doanh thu và thu nhập của Habeco là 3.379,788 tỷ đồng, lợi
nhuận sau thuế đạt 247.133 tỷ đồng. Trong khi đó, kế hoạch năm 2009 mà HĐQT đề ra
là 3.667,051 tỷ đồng tổng doanh thu và thu nhập, lợi nhuân sau thuế theo kế hoạch là
250.294 tỷ đồng. Thế nhưng, mức cổ tức mà NĐT được hưởng trong năm 2009 chỉ là
10%, giảm 1% so với mức 11% của năm 2008. Trả lời thắc mắc của NĐT, ông Lê Bá
Cơ, Chủ tịch HĐQT của Habeco cho biết sản lượng tiêu thụ cũng như doanh thu của
Habeco có tăng nhưng chưa được như mong muốn, sau khi cân đối kế hoạch một cách
chi tiết, HĐQT mới đưa ra mức tỷ lệ 10% cho cổ tức 2009.
Vấn đề cốt lõi nằm ở chỗ HĐQT của Habeco đã không đưa ra được một bản báo
cáo chi tiết về kết quả SXKD năm 2008 và triển khai kế hoạch năm 2009 dẫn đến việc
NĐT và HĐQT không tìm được tiếng nói chung.Tỏ ra hiểu rõ tâm tư của NĐT, Thứ
trưởng Khu cho rằng tỷ lệ chia cổ tức cao hay thấp thì HĐQT vẫn phải giải trình rõ ràng.
Sở dĩ mức cổ tức có giảm so với năm ngoái là vì Habeco tập trung mọi nguồn lực cho
những dự án mới với 8 dự án đang triển khai.
Nhóm SUPERKIDS
Page 14/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
Bên cạnh những khúc mắc về tỷ lệ cổ tức, việc đầu tư ngoài ngành của Habeco
cũng chỉ được HĐQT báo cáo một cách sơ sài trong bản báo cáo đến tay NĐT. Và chỉ
đến khi Thứ trưởng Bùi Xuân Khu phát biểu, nhiều NĐT mới vỡ lẽ rằng gần 30% vốn
của Habeco được đem đi tham gia vào hoạt động ở các nơi khác. Tuy nhiên, hiệu quả
của các dự án đó đến đâu thì NĐT cũng chẳng biết hỏi ai. Một vấn đề nữa khiến cổ đông
của Habeco bức xúc là việc họ chưa nhận được cổ tức của năm 2008 mặc dù đã có thông
báo của Tổng Công ty. Tuy nhiên, khi cổ động gọi điện hay gửi bản fax đến để yêu cầu
được nhận cổ tức thì lại không nhận được hồi âm từ phía bộ phận tài vụ của Habeco.
2.1.2 . Thông tin thiếu chính xác:
Việc công bố thông tin của tổ chức niêm yết là nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho các NĐT và duy trì thị trường công khai, công bằng, có trật tự. TTCK là nơi xử lý
nhanh nhất các thông tin của nền kinh tế và phát ra các tín hiệu cho chính phủ, doanh
nghiệp, công chúng đầu tư để xác định hướng đầu tư có hiệu quả. Những thông tin trên
TTCK phải là thông tin phản ánh trung thực tình hình hoạt độnng, đặc biệt là các diễn
biến có liên quan đến giá của từng loại chứng khoán và chỉ số chung của thị trường.
Nguyên nhân :
Ngày 18/4/2007, Bộ tài chính đã ban hành thông tư hướng dẫn việc công bố thông
tin trên TTCK. Nhưng thông tư này còn quy định khá chung chung, không bao quát hết
những lĩnh vực thông tin cần công bố. Chính quy định về công bố thông tin còn chung
chung cũng tạo điều kiện cho mỗi doanh nghiệp công bố một kiểu.Việc công bố thông
tin qua bảng cáo bạch của các công ty cũng khác nhau.
Sự thiếu vắng tính minh bạch và chuẩn mực quốc tế trong báo cáo tài chính của
các công ty làm cho người ta khó thực hiện việc phân tích năng lực thật sự của các công
ty niêm yết.
Như đã đề cập, nhằm mục đích tăng giá trị cổ phiếu khi phát hành, các công ty đã
cung cấp cho NĐT những thông tin sai lệch về lợi nhuận, hướng đầu tư, khả năng phát
triển của công ty. Điều này minh chứng qua ví dụ cụ thể sau: chỉ với việc loan tin rằng
Nhóm SUPERKIDS
Page 15/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
tập đoàn tài chính quốc tế Goldman Sachs là đối tác chiến lược của công ty Chứng
khoán Thiên Việt (TVS), mặc dù không có bất cứ một lễ ký kết hay văn bản họp tác nào,
cũng đã khiến cho giá cổ phiếu của công ty dễ dàng tăng lên gấp 6-7 lần mệnh giá.
Bên cạnh đó không ít nhà môi giới đã dẫn dắt NĐT theo hướng lợi cho mình hoặc
một nhóm người nào đó bằng những thông tin không đầy đủ. Lãnh đạo một công ty CK
cũng thừa nhận rằng, đã có CTCK vì mục đích lợi nhuận đã thổi phồng tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp lên để phát hành cổ phiếu giá cao. Sau đó bỏ mặc các NĐT với
những thua lỗ của doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu.
Báo chí và các phương tiện truyền thông là cầu nối nói thay, nói hộ nhà đầu tư
những yêu cầu chính đáng mà cơ chế và luật pháp chưa vươn hết . Nhưng tin tức báo chí
đôi khi cũng gây không ít phiền toái vì thông tin là lĩnh vực rất đặc thù do tính lan truyền
dễ dàng nhưng rất khó kiểm chứng và kiểm soát.
Nhìn lại, chưa bao giờ các phương tiện thông tin truyền thông về TTCK lại đua
nhau nở rộ như những ngày nay. Nhà đầu tư cảm ơn họ vì có được góc nhìn đa chiều và
trung thực hơn về mỗi sự kiện đã, đang và sẽ diễn trong nền kinh tế trong và ngoài nước.
Thế nhưng nhu cầu về thông tin tin cậy, kịp thời, đầy đủ và ngày càng đa dạng của thị
trường ngày càng cao, đặc biệt là thông tin quốc tế đang là những thách thức lớn cho các
phương tiện thông tin truyền thông và báo chí.
Ngoài những thông tin rời rạc về tình hình kinh doanh được công bố trên những
phương tiện truyền thông là những tin đồn. Theo một nghiên cứu gần đây của công ty
tư vấn kiểm toán Pricewaterhouse Coopers VN (PwC), chính những thông tin đồn thổi
mới là mối quan tâm lớn nhất và đồng thời có tác động rõ nét nhất đến niềm tin của
NĐT. Những tác động này được ghi nhận vượt trội hơn cả những bản báo cáo tài chính
đẹp đẽ hay một chiến lược kinh doanh tiềm năng của doanh nghiệp. Cụ thể như trường
hợp công ty bánh kẹo Biên Hòa (Bibica) đã cung cấp thông tin sai lệch về tình hình hoạt
động của công ty. Từ một công ty hoạt động kém hiệu quả thành một công ty có lợi
nhuận khổng lồ. Tháng 9/2002, công ty công bố lãi 4,1 tỷ đồng. Sau 4 kỳ hoãn báo cáo,
đến tháng 5/2003, công ty công bố lãi 5,422 tỷ đồng. Hay trường hợp của công ty Hòa
Nhóm SUPERKIDS
Page 16/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
Bình, công bố doanh số năm 2005 và 2006 là 133 và 200 tỷ đồng, lợi nhuận ròng đạt 3,1
và 8,3 tỷ đồng. Nhưng con số kế hoạch 4 năm tới tăng “chóng mặt”: doanh số theo thứ
tự 4 năm là 450 tỷ, 700 tỷ, 1.000 tỷ và 1.400 tỷ đồng, lợi nhuận ròng tương ứng là 23,3
tỷ, 37 tỷ, 53,5 tỷ và 76 tỷ đồng. Điều này có nghĩa là chỉ trong vòng 5 năm từ 2005 đến
2010, lợi nhuận ròng tăng 24,5 lần; mức kỷ lục mà nhiều công ty nổi tiếng trên thế giới
cũng không thể thực hiện được.
2.1.3. Thông tin chậm trễ - bị nhiễu:
Theo phản ánh của nhiều NĐT, việc ém tin vẫn thường xảy ra khi doanh nghiệp
niêm yết hoặc đấu giá; và chỉ riêng độ trễ của thông tin cũng đã khiến nhiều NĐT thiệt
thòi lớn. Các loại công bố thông tin như bất thường, theo yêu cầu, giao dịch của cổ đông
nội bộ và người có liên quan cũng thường chậm.
Thông tin chậm trễ thể hiện qua trường hợp Hội đồng quản trị của công ty Sông Đà
9 đã họp và ra quyết định về việc chia cổ tức 15% bằng cổ phiếu; trình đại hội cổ đông
sắp tới kế hoạch sản xuất kinh doanh và chia cổ tức 18% năm 2007. Từ ngày
12/01/2007, kế hoạch được giao cho tổng giám đốc xem xét phương án chuyển sàn
HASTC. Nhưng mãi đến 25/01/2007 vẫn chưa có thông báo của HASTC.
Một điển hình khác là thông tin về những nhận định bi quan của tập đoàn đầu tư tài
chính hàng đầu thế giới Merrill Lynch (Mỹ) đã làm cho cổ phiếu của cả hai sàn TPHCM
và Hà Nội đồng loạt giảm giá vào ngày 16/07/2007. Những nhận định như “ TTCKVN
đang bị xói mòn” hay “chúng tôi phải hạ mức khuyến nghị phân bổ các khoản đầu tư của
mình vào Việt Nam xuống con số 0” của tập đoàn này khiến nhiều nhà đầu tư phải giật
mình, lo ngại. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là thông tin này đã nằm trong danh mục tham
khảo của nhiều NĐT tổ chức và cả những cá nhân thạo tin, nhưng khi thông tin này đến
rộng rãi với công chúng đầu tư, đặc biệt là đối với nhà đầu tư cá nhân thì nó đã có độ trễ
nhất định và vì thế nó gây thiệt thòi cho NĐT.
Ông Nguyễn Thế Thọ, Trưởng ban Quản lý phát hành (Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước), đưa ra một số thống kê đáng chú ý: Tính đến ngày 31/3/2009, số công ty đã nộp
Nhóm SUPERKIDS
Page 17/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
báo cáo thường niên năm 2008 trên HASTC mới chỉ có 33/177, trên HOSE là 32/177;
số báo cáo tài chính năm 2008 đã nộp khả quan hơn, tương ứng 105/177 và 91/177,
nhưng vẫn cho thấy nhiều trường hợp còn phải chờ.
Ngược về những mùa báo cáo trước đó, số lượng công ty công bố báo cáo tài chính
quý 4/2008 chậm tại HASTC là 37/168, tại HOSE có tới 66/170. Đáng chú ý là của quý
2/2008, các con số tương ứng là 53/146 và 68/156. Tình trạng này cũng có ở các mùa
khác trong năm 2008…
Theo ông Dominic Scriven, tổng giám đốc Dragon Capital, thông tin về TTCKVN
không những thiếu minh bạch mà còn vắng bóng những bình luận, phân tích có chiều
sâu từ những chuyên gia am hiểu và có kiến thức uyên bác. Chính sự hạn chế thông tin,
truyền thông chậm chạp có thể dẫn đến những tình trạng tư lợi về thông tin mà chúng ta
thường gọi tên là “tin nội bộ”, “giao dịch nội gián”.
2.1.4. Thông tin nội gián:
Trong lĩnh vực chứng khoán, nội gián được hiểu là cổ đông (shareholder) sở hữu
hơn 10% cổ phần của một công ty (nên nắm được một số thông tin về hoạt động của
công ty), có thể là một giám đốc(director) hay một viên chức lãnh đạo khác (executive,
officer). Nội gián còn được hiểu rộng ra là bất kỳ ai nắm được thông tin nội bộ (inside
information) để lợi dụng. Thông tin nội bộ trên nguyên tắc chỉ hội đồng quản trị, ban
lãnh đạo và một ít chuyên viên của công ty nắm. Nếu để lọt ra công chúng, thông tin này
sẽ tác động tới giá cổ phiếu. Vì vậy, luật pháp các nước đều nghiêm cấm hành vi “giao
dịch nội gián”, nhất là trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán.
Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK ban hành chỉ yêu cầu công bố tổng số NĐT
tham gia đấu giá và tổng lượng cổ phiếu đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh
hưởng lớn đến việc đặt giá như số lượng NĐT nước ngoài tham gia đấu giá; số lượng cổ
phiếu đặt mua của đối tượng này, lại không được công bố cụ thể. Điều đáng nói là,
những thông tin này có thể không được bảo mật chặt chẽ, mà được cung cấp một cách
riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu. Nếu nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ
Nhóm SUPERKIDS
Page 18/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
phiếu của thị trường, các cá nhân, tổ chức tham gia đấu giá sẽ tính toán được hợp lý mức
giá mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các NĐT khác không có thông tin. hình
thức kinh doanh CK bằng thông tin nội gián đã xuất hiện và tồn tại trong TTCK, vì có
hiện tượng một số NĐT ồ ạt mua vào một loại cổ phiếu nào đó mặc dù hoạt động của
các công ty phát hành loại CP này đang hoạt động không mấy khả quan nên giá CP ở
mức thấp. Nhưng sau đó một thời gian ngắn, các công ty này công bố một số kế hoạch
đầy triển vọng, đã được dự trù từ trước, vì thế đã đẩy giá CP tăng cao, giúp những NĐT
nói trên thu được những khoản lợi nhuận lớn. Hiện tượng này đã làm cho các nhà quản
lý cũng như các nhà nghiên cứu kinh tế nghi ngờ khả năng thông tin nội gián đã được sử
dụng.
Ở thị trường Việt Nam, chưa từng có ai bị xử lý về việc giao dịch liên quan đến
thông tin nội gián. Lẽ ra, khi có tin tức về giao dịch kiểu này, mọi thông tin phải được
truy ngược để tìm ra những người có liên quan trực tiếp, người thân của họ...Do quản lý
lỏng lẻo, những người có liên quan đến ban quản trị, ban điều hành đã lợi dụng để tạo ra
thông tin tác động đến xu hướng giá của thị trường để kiếm lợi. Sử dụng thông tin nội
gián dể giao dịch làm ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK. Những người mua bán
trung thực sẽ bị lỗ hơn những người mua bán, đầu tư với thông tin nội bộ, và thường
những người bị thua lỗ này là những NĐT cá nhân
2.2. Phân tích hiểm họa :
• Yếu tố nhận thức và hành vi con người :
o Đối với NĐT :
Tâm lý đầu tư theo đám đông dẫn đến rủi ro “bầy đàn”.
Minh chứng cụ thể, năm 2006, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam có mức
tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với 145% và đầu năm 2007
tăng thêm 46% – cao nhất trên thế giới. Rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho sự
phát triển mãnh liệt này, nhưng phần lớn ý kiến cho rằng, một trong những nguyên nhân
chính là do tâm lý đầu tư bầy đàn, đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước.
Nhóm SUPERKIDS
Page 19/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
Chơi chứng khoán đã được báo chí nói tới như một thứ “mốt”, một “phong trào”
lan truyền với tốc độ cực nhanh. Bình thường, các nhà đầu tư cá nhân có thể rất bình tĩnh
và sáng suốt, nhưng cũng có lúc, họ bị áp đảo bởi những cảm xúc tiêu cực khi các nhà
đầu tư khác hành động theo một cách thức phổ biến nào đó. Hiểu một cách đơn giản
nhất thì chính sự sợ hãi bị “bỏ rơi” hay thất bại khi bạn bè, người thân, hàng xóm của họ
có thể kiếm tiền một cách nhanh chóng, đã đưa đến sức mạnh áp đảo của đám đông. Khi
thị trường đảo chiều đi xuống thì nhà đầu tư cá nhân “mạnh ai nấy chạy” và cũng đã
không ít nhà đầu tư cá nhân“bơ vơ” trong việc lựa chọn con đường đầu tư trong tương
lai của mình.
Trình độ của nhà đầu tư cá nhân
Để có được cái nhìn toàn cảnh về TTCK thì nhà đầu tư cá nhân không chỉ am hiểu
lĩnh vực kinh tế vĩ mô mà cả kinh tế vi mô cũng như kỹ năng phân tích diễn biến thị
trường trong ngắn hạn và dài hạn dựa trên nhiều công cụ khác nhau. Tuy nhiên, mức độ
am hiểu về cơ chế hoạt động của TTCK của các nhà đầu tư cá nhân nước ta chưa cao.
Đa số NĐT cá nhân đầu tư theo tin đồn, cảm tính. Sự phát triển quá nhanh của TTCK đã
dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho thị trường trong
những năm 2006, 2007 và từ đầu năm 2008 đến nay, sự suy giảm của TTCK đã khiến
nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm chuyển sang lĩnh vực khác.
o Đối với Doanh nghiệp :
Mức độ tuân thủ pháp luật về công bố thông tin của tổ chức phát hành chưa cao.
-
Có thể nói, các quy định pháp luật về công bố thông tin trên TTCK đã được quy
định tương đối đầy đủ, song ở nước ta, các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin
không phải là không công bố thông tin mà công bố thông tin không kịp thời. Việc
công bố thông tin không kịp thời đã làm tăng thêm tình trạng thông tin bất cân xứng
trên TTCK vốn đã tồn tại từ lâu.
-
Có trường hợp những thông tin có thể không được bảo mật chặt chẽ, mà được
cung cấp một cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu. Nếu nắm được cụ thể,
Nhóm SUPERKIDS
Page 20/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá nhân, tổ chức tham gia đấu giá sẽ
tính toán được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các
NĐT khác không có thông tin.
-
DN cung cấp thông tin không công bằng đối với NĐT. Ưu tiên cung cấp thông tin
cho các NĐT chiến lược, NĐT tổ chức mà không công bố rộng rãi cho các NĐT cá
nhân khiến những NĐT không có nguồn tin nội bộ, khi muốn mua thì không thể nào
tìm được nguồn mua do NĐT lớn đã thâu tóm toàn bộ, khi muốn bán thì cũng không
thể nào bán được do thị trường bão hòa.
Trong 124 trường hợp vi phạm về chứng khoán bị xử lý năm 2008, chiếm 75,8%
là về phát hành và công bố thông tin. Một trường hợp nổi bật là doanh nghiệp niêm yết,
cũng là một trong những sự kiện nổi bật của thị trường chứng khoán năm 2008, là vi
phạm về công bố thông tin của Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết (mã BBT, HOSE),
với mức xử phạt 90 triệu đồng
Mức độ truy cập thông tin của các công ty chưa thường xuyên.
Trong số hơn 100 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố
Hồ Chí Minh, hiện vẫn còn hơn 40 doanh nghiệp chưa có cổng thông tin điện tử
(Website) để giao tiếp với nhà đầu tư. Tuy nhiên, phần lớn các website của các công ty
niêm yết hiện còn sơ sài và chưa cập nhật đầy đủ thông tin, đặc biệt đối với các công ty
có quy mô vốn nhỏ, nằm trên địa bàn vùng sâu, xa. Tại sàn TPHCM, dù đã có 176/177
công ty có website nhưng vẫn có tới 31 công ty chưa cập nhật đầy đủ thông tin đã công
bố, 7 website không truy cập được hoặc đang được xây dựng lại. Một số doanh nghiệp
khác dù có website nhưng chỉ tồn tại trên danh nghĩa, vì nhà đầu tư không thể truy cập
hoặc nội dung không được cập nhật thường xuyên. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp
vẫn chưa thực sự nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của website với hoạt động của
mình.
Ngay tại website của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội, thông tin về doanh
Nhóm SUPERKIDS
Page 21/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
nghiệp niêm yết cũng bị phân tán rải rác, đặc biệt là những thông tin về bản cáo bạch
mới của công ty niêm yết, phần tóm tắt thông tin chung hầu như chưa được cập nhật
hoặc thiếu các thông tin chỉ dẫn. Với đặc trưng như vậy, nhà đầu tư sẽ rất khó khăn để có
được thông tin toàn diện và đầy đủ về doanh nghiệp mình cần tìm kiếm, làm tăng thêm
sự bất ổn cho thị trường..
• Môi trường luật pháp :
Một trong những cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO, đó là phải bảo đảm được sự
minh bạch trong cơ chế, chính sách và pháp luật. Minh bạch là tính tin cậy, nhất quán
của thông tin, không thể có trường hợp cùng một thông tin mà một cơ quan nhà nước
cấp Bộ đưa ra một dạng, một đơn vị quản lý nhà nước khác lại cung cấp dạng khác.
Minh bạch là thông tin phải có tính dự báo. Minh bạch còn là sự cởi mở của chính cơ
quan cung cấp thông tin. Mọi văn bản pháp luật, mọi chính sách của Nhà nước cũng
như các thông tin có tính minh bạch của doanh nghiệp sẽ không đi đến đâu nếu những
người nắm thông tin, những người cung cấp thông tin không cởi mở, khi đó mọi thông
tin đều nằm một chỗ và không thể phát huy tính minh bạch. Như vậy, minh bạch trong
hệ thống pháp luật cũng như cơ chế chính sách là yếu tố rất quan trọng vì nó có ảnh
hưởng trực tiếp đến lòng tin của người dân đối với nhà nước và trong thị trường, đó
chính là niềm tin của nhà đầu tư. Lòng tin trong đầu tư chứng khoán được coi là quan
trọng nhất, vì nó có tác động đến việc nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư hay không.
• Do đồn thổi và phản ánh thông tin không chân thực của báo giới.
Có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín của DN niêm yết, đặc biệt tin đồn liên
quan đến người đứng đầu DN. Những tin này thường được tung ra trên các diễn đàn, sàn
giao dịch chứng khoán hoặc được truyền miệng gây ra tâm lý hoang mang cho NĐT, ảnh
hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường. Trong khi đó, cơ chế phát hiện và xử phạt đối
với việc tung tin đồn chưa rõ ràng Thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến không ít những
tin đồn đủ loại gây tâm lý hoang mang cho dân chúng và thiệt hại cho doanh nghiệp.
Chẳng hạn, mọi người không quên tin đồn gây xôn xao dư luận vào thời điểm năm 2003
về việc Tổng Giám đốc ACB bỏ trốn, hàng ngàn người xếp hàng trước trụ sở của ACB
Nhóm SUPERKIDS
Page 22/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
để rút tiền. Tổng Giám đốc ACB nhiều lần xuất hiện để giải thích nhưng nhiều người
vẫn không tin. Đích thân Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phải đứng ra tuyên bố đảm
bảo cho ACB thì “cơn bão” mới qua đi. Hoặc trường hợp sau khi công bố đối tác chiến
lược, mua cổ phần của nhau giữa Kinh Đô và Eximbank thì xuất hiện tin đồn Kinh Đô
bán cổ phiếu Eximbank. Đối với nhà đầu tư cá nhân có kinh nghiệm, những tin kiểu này
thường không có tác dụng. Nhưng trên thực tế, không phải nhà đầu tư cá nhân nào cũng
có thể nhìn nhận được vấn đề này.
Một số phương tiện truyền thông cũng cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ.
Đây không phải là hiện tượng phổ biến, nhưng đôi khi khiến NĐT chuyên nghiệp không
mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí, truyền thông. Mặt khác,
nội dung thông tin do các kênh truyền thông cung cấp, chủ yếu vẫn là tin tức, diễn biến
thị trường, chưa có nhiều nhận định, phân tích mang tính định hướng cho NĐT và thị
trường.
Điển hình từ những ngày đầu tháng 7/2007 khi chỉ số VNIndex trên mức 1000
điểm, ngân hàng HSBC đã đưa ra báo cáo là VNIndex sẽ giảm xuống còn 900 điểm thì
ngay lập tức, thị trường đã giảm liên tục và giảm xuống vùng đáy 883-891 điểm trong
tuần giữa tháng 8/2007. Có thể nói trong thời gian qua những nhà đầu tư cá nhân cũng
có người được và người mất, nhưng đa phần là người mất. Những người được là những
người có kiến thức chứng khoán, biết dự báo, chiếm tỷ lệ rất ít. Những người mất là
những người hám lợi tức thời, đầu tư theo những tin đồn.
• Hệ thống hạ tầng kỹ thuật
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động công bố thông tin còn yếu, làm tăng
rủi ro cho nhà đầu tư và khó ngăn chặn, phát hiện các hành vi phạm tội. Ở hầu hết các
nước có thị trường chứng khoán phát triển đều có hệ thống giám sát công nghệ thông tin,
toàn bộ các giao dịch trên thị trường có thể phục hồi lại được và trên cơ sở đó, thanh tra
sẽ phân tích và tìm các hành vi bất thường trong quá trình giao dịch.Internet có thể gây
khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc phát hiện và xử lý các vi phạm về
công bố thông tin, nhất là việc tung tin đồn như truy tìm nghi can, xác định người cung
Nhóm SUPERKIDS
Page 23/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
cấp thông tin, việc bảo mật các tài khoản và giao dịch chứng khoán…Với các hành vi vi
phạm liên quan đến công nghệ cao thì khó phát hiện song hậu qủa mà nó gây ra là cực
kỳ lớn. Hiện tại, để có đủ chứng cứ về một cá nhân, tổ chức vi phạm, cơ quan chức năng
phải điều tra bằng phương pháp thủ công, và phải rà soát khoảng 300 nghìn tài khoản
trên thị trường. Đây là khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện việc xử lý vi phạm pháp
luật về chứng khoán và TTCK.
PHẦN 3 : ĐO LƯỜNG RỦI RO
1. Thiết kế nghiên cứu
1.1 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện qua hai giai đoạn: nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng.
1.1.1 Nghiên cứu định tính:
Nghiên cứu định tính là nghiên cứu trong đó thông tin thu thập được dưới dạng
định tính; đó là thông tin không thể đo lường bằng số lượng. Mục tiêu của nghiên cứu
định tính là xác định những yếu tố rủi ro đối với NĐT cá nhân trên TTCKVN. Trong bài
này phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện qua việc thu thập thông tin trên
TTCK.
Thông tin được thu thập từ các nguồn chủ yếu sau: các văn bản của UBCKNN,
các thông tin chính thức của sàn giao dịch TP.HCM, các thông tin báo chí có liên quan,
mạng Internet.
1.1.2 Nghiên cứu định lượng
Sau khi tiến hành nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng sẽ được thực hiện
nhằm lượng hóa các yếu tố khảo sát. Phương pháp thực hiện nghiên cứu định lượng là
Nhóm SUPERKIDS
Page 24/55
Rủi ro thông tin đối với NĐT trên TTCKVN
TS.Ngô Quang Huân
phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi thiết kế gồm những câu hỏi
liên quan đến những yếu tố gây rủi ro cho NĐT cá nhân, bao gồm cả những yếu tố khách
quan và yếu tố chủ quan. Tác giả sử dụng thang đo likert 05 điểm để lượng hóa những
biến quan sát này.
Bảng câu hỏi ban đầu sẽ phỏng vấn trực tiếp 10 đối tượng để phát hiện và điều
chỉnh những điểm chưa rõ hoặc dễ gây nhầm lẫn cho đối tượng được phỏng vấn.
Những bảng câu hỏi đã phỏng vấn xong thì tiến hành sàng lọc sơ bộ; sau đó sử
dụng phần mềm SPSS 13.0 để xử lý. Bảng câu hỏi được thiết kế gồm hai phần:
-
Phần A: những thông tin vềNĐT cá nhân và phần này tác giả sử dụng thang đo
thứ bậc và thang đo định danh.
-
Phần B: những câu hỏi liên quan đến rủi ro đối với NĐT cá nhân trên TTCKVN,
phấn này tác giả sử dụng thang đo 5 điểm.
-
Phương pháp lấy mẫu là phương pháp thuận tiện. mẫu được chọn là các NĐT cá
nhân tại sàn giao dịch trên địa bàn TP.HCM. Số mẫu là 330.
1.2. Xây dựng thang đo:
Bảng câu hỏi được thiết kế với thang đo 5 điểm. Mức 1 là hoàn toàn đồng ý đến
mức 5 là hoàn toàn không đồng ý.
1.2.1 Thang đo về việc đánh giá độ tin cậy của thông tin.
Thang đo được đo bằng thang đo likert với 6 biến quan sát, ký hiệu từ ĐG1 đến ĐG6
Ký hiệu biến
ĐG1
ĐG2
ĐG3
ĐG4
ĐG5
ĐG6
câu hỏi
Thông tin mà tôi tin tưởng nhất là
Thông tin từ bảng cáo bạch
Thông tin từ các cổ đông
Thông tin từ các nhà đầu tư trước
Thông tin qua báo chí
Thông tin qua mạng
Thông tin từ các chuyên gia tư vấn
1.2.2 Thang đo rủi ro thông tin
Thang gồm 4 biến, ký hiệu từ T1 đến T4, đo bằng thang likert 5 điểm.
Nhóm SUPERKIDS
Page 25/55