Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Thực trạng nợ công tại việt nam thời kỳ 2010 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.9 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện cả về lượng
và chất, kéo theo đó là xu thế tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu,
tăng cường hợp tác hóa, chuyên môn hóa và phân công lao động như hiện nay,
toàn cầu hóa với những thế mạnh của nó đang là một trong những mục tiêu
chiến lược quan trọng cần được quan tâm và đề cao ở mỗi quốc gia, mỗi khu
vực và trên toàn thế giới. Không chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã
hội nói chung trên phạm vi toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội và hướng đi sáng lạn
cho các thành phần kinh tế cá biệt, thúc đẩy phát huy nội lực và ngoại lực một
cách có hiệu quả, quá trình “san phẳng thế giới” này đã thực sự trở thành “một
sức mạnh mới” định hình lại thế giới trong khoảng thời gian trở lại đây.
Nợ công đã trở thành một trong những vấn đề quan trọng và rất phức tạp
trong nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như toàn cầu trong giai đoạn hiện nay.
Nền kinh tế thế giới đang phải gánh chịu những món nợ khổng lồ của các chính
phủ mà có thể gây ra những tác động tiêu cực. Nhiều nước có mức nợ công rất
1


lớn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc cân đối tài chính và thực
hiện các nghĩa vụ trả nợ. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ với những món nợ
công đang ngày càng gia tăng. Hiện nay, có nhiều mối lo ngại về nợ công của
Việt Nam như cơ cấu vay nợ, cơ chế quản lý, hiệu quả sử dụng và tích lũy trả
nợ. Các vấn đề của nợ công và bản thân các mối lo ngại sẽ tạo ra những tác
động tiềm tàng mà nếu không được xử lý sẽ gây ra những hệ lụy tiêu cực.
Ở Việt Nam những năm qua, vấn đề thu hút nguồn lực phục vụ cho việc phát
triển kinh tế xã hội luôn có xu hướng phát triển mạnh. Hàng năm, ngoài nguồn
vốn ngân sách nhà nước (NSNN) phục vụ cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn từ
vay, nợ của Chính phủ cũng không ngừng tăng lên đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày
càng cao của xã hội nói chung và của Chính phủ nói riêng. Đây là nguồn vốn


quan trọng và chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng số vốn đầu tư hàng năm
của nước ta. Ngoài ra, một phần nguồn vay, nợ của Chính phủ được sử dụng để
bù đắp thâm hụt ngân sách hàng năm.
Vấn đề đặt ra là, không chỉ quan tâm tới việc thu hút nguồn lực mà quan
trọng hơn là phải tập trung quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vay, nợ của
Chính phủ, tạo đà cho sự phát triển kinh tế đất nước và trực tiếp hoặc gián tiếp
thu hồi vốn để có nguồn thanh toán cho các khoản nợ này. Mặt khác, việc vay,
nợ luôn phải đặt trong bối cảnh của sự cân bằng và đảm bảo an ninh tài chính
của quốc gia, cần phải luôn có sự đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản nợ
công để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tài chính.
Từ thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi: Tình hình nợ công và quản lí nợ công ở
Việt Nam trong 5 năm trở lại đây như thế nào? Những điểm đạt được và những
mặt hạn chế cần khắc phục ra sao để từ đó đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm
quản lí có hiệu quả nợ công ở Việt Nam? Đó cũng là những nội dung chính sẽ
được đề cập trong bài thuyết trình của nhóm 2:“Thực trạng nợ công tại Việt
Nam thời kỳ 2010-2015”.

2


II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm nợ công
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB) nợ công là toàn bộ những
khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó:
- Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của
chính phủ và các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố hoặc các tổ chức chính
trị trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các doanh nghiệp nhà
nước.
- Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài

củakhu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh.
Theo quan điểm của Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) nợ công bao gồm nợ của khu
vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó:

3


- Khu vực tài chính công gồm: Tổ chức tiền tệ (nhân hàng trung ương, các tổ
chức tín dụng nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không
cho vaymà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).
- Các tổ chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phố, các tổ chức
chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước.
Theo Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009 của Việt Nam quy định nợ
công bao gồm:
- Nợ chính phủ: Là các khoản nợ được kí kết, phát hành nhân danh nhà nước
hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài Chính kí kết, phát hành hoặc ủy quyền
phát hành; nhưng không bao gồm các khoản nợ do ngân hàng nhà nước
(NHNNVN) phát hành nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng
thời kỳ.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế trong và ngoài nước, Chính phủ đứng ra bảo lãnh.
- Nợ của chính quyền địa phương: Là các khoản nợ do UBND cấp tỉnh, TP
thuộc trung ương kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ
trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh
tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
2.1.2. Phân loại nợ công
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành
nhiều bộ phận riêng biệt, có mối quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn
nhau. Sau đây là ba trong số những các phân loại chủ yếu được sử dụng đối với

các khoản nợ công của mỗi quốc gia, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu: của quốc
gia đó.


Phân loại theo nguồn vay nợ:

- Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước
- Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.

4


Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số
nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước
ngoài mà mặc nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần
sửa đổi; bởi lẽ, thiếu sót này nhiều khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá
trị nợ công của một quốc gia, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nhận
thức kịp thời và đúng đắn tình trạng nợ của đất nước mình để hoạch định các
chính sách ứng phó kịp thời và hợp lý.


Phân loại theo chủ thể nợ:

- Nợ của Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc
các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo
quy định của pháp luật; không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ của chính quyền địa phương: là các khoản nợ do ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát

hành.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh (áp dụng đối với khái niệm Nợ công bao gồm
khoản nợ chính phủ bảo lãnh): là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế trong và ngoài nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh.


Phân loại dựa vào thời hạn nợ:

- Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống.
- Nợ trung hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm.
- Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm.
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
Một yêu cầu tối quan trong đối với các Chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công so
với GDP là ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân
sách và làm tốt các công tác dự báo, lập kế hoạch Ngân sách Nhà nước, góp
phần ổn định nền kinh tế vĩ mô. Để làm được điều đó, ta cần phải nắm rõ các

5


nhận tố ảnh hưởng đến nợ công, nhận biết các tác động, ngăn chặn từ đầu,
phòng tránh và giải quyết kịp thời các tác động có khả năng gây bất ổn tới tỉ lệ
này.
Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản. Từ bản
chất nợ công đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách phản
ảnh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi
khoảng cách thâm hụt nhỏ, những khoản vay bù đắp giảm đi, làm cho nợ công
được hạn chế.
Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ,
quyết định xem các khỏan nợ này sẽ đắt hơn (khi lãi suất tăng lên) hay giảm đi

(khi lãi suất giảm đi). Mặt khác, việc lãi suất tăng sẽ làm cho các khoản vay của
chính phủ khó khăn hơn, không đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế.
Một là, nền kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến
khả năng nợ công tăng lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm
phát, dẫn đến việc cấp bù lạm phát cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.
Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của chính
phủ. Cơ chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác
nhau đề đối tượng hưởng lãi.
Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động của
tỉ giá ảnh hưởng đến chi phí của khoản nợ công: có thể tăng lên (khi tỉ giá tăng)
hoặc giảm đi (khi tỉ giá giảm).
2.1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công
Dựa vào đặc điểm và điều kiện cho vay của các khoản vay nợ, các hình thức
vay nợ được chia vào hai nhóm chính là: vay nợ gián tiếp (chủ yếu thông qua
phát hành trái phiếu) và vay nợ trực tiếp từ trong và ngoài nước. Mỗi cách vay
nợ có ưu, nhược điểm riêng, thích hợp sử dụng cho những hoàn cảnh riêng,
trong điều kiện xếp hạng tín dụng và vị thế nhất định của mỗi quốc gia.
6




Vay nợ gián tiếp:

Chính phủ các nước có thể tiến hành vay nợ gián tiếp từ các tổ chức, cá nhân
để bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua việc phát hành các công cụ nợ như: tín
phiếu, trái phiếu, hình thức chứng chỉ... Trái phiếu trong trường hợp này được
hiểu theo nghĩa rộng, gồm có: trái phiếu (T-bonds), trái phiếu chính quyền địa
phương (Municipal Bonds), trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc và

trái phiếu công trình. ; trong đó, trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được
coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm
tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành
bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao
hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ
để thanh toán.


Vay nợ trực tiếp

Ngoài cách phát hành giấy vay nợ như một tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả
nợ của mình, Chính phủ các nước còn một lựa chọn khác để tài trợ cho các
khoản thâm hụt đáng kể thông qua con đường vay tiền trực tiếp từ các ngân
hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân
hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á,…). Các nguồn vay này tồn tại dưới
một số hình thức phổ biến như: Vay viện trợ phát triển chính thức, vay có tính
chất thương mại hay vay ưu đãi. Thông thường, các hình thức trực tiếp này
được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì những
nước này khó có khả năng vay nợ bằng phát hành trái phiếu chính phủ.
Trong số các khoản vay trực tiếp đã liệt kê, nguồn vay ODA là nguồn vốn bổ
sung đều đặn nhất và có tầm quan trọng lớn đối với các nước đang phát triển.
Nguồn vay này có thể nhận được dưới các thể thức: viện trợ song phương, viện
trợ đa phương, viện trợ không hoàn lại hay viện trợ của tổ chức phi chính phủ.

7


2.1.5. Quản lý nợ công
Trong thời gian gần đây, công tác quản lý nợ của Việt Nam đã đạt được
những tiến bộ đáng kể, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước, cụ thể

là:
- Thông qua hoạt động vay nợ, Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp
đã huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư phát triển, đồng thời vẫn
đảm bảo quản lý nợ trong các giới hạn an toàn.
- Hoạt động huy động vốn trong nước của Chính phủ thông qua phát hành tín
phiếu, trái phiếu Chính phủ cũng đã giúp hình thành thị trường trái phiếu Chính
phủ trong nước, một thành tố khá quan trọng để hình thành thị trường tài chính
hoàn chỉnh. Trái phiếu Chính phủ được niêm yết và giao dịch trên thị trường
chứng khoán đã góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường trái phiếu
Chính phủ nói riêng và phát triển thị trường vốn trong nước nói chung.
- Trong công tác quản lý nợ, các văn bản pháp lý ngày càng được hoàn thiện,
đồng bộ hơn và tiến gần đến các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, nhất là trong
lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài. Chính phủ đã thực hiện nguyên tắc thống nhất
quản lý nợ Chính phủ, nợ quốc gia trên cơ sở phân công, xác định trách nhiệm
rõ ràng hơn giữa các cơ quan quản lý.
- Công tác trả nợ Chính phủ trong và ngoài nước luôn được thực hiện đầy đủ,
đúng hạn, không để xảy ra nợ quá hạn như những năm về trước. Việc tích cực
đàm phán xử lý các khoản nợ cũ với các chủ nợ nước ngoài đã giúp giảm đáng
kể nghĩa vụ nợ của Việt Nam.
Bên cạnh những thành công đạt được, công tác quản lý nợ công ở Việt Nam
trước khi có Luật Quản lý nợ công còn bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là chưa có
sự nhất quán các khái niệm về nợ cũng như phạm vi quản lý nợ trong các văn
bản pháp quy hiện hành như nợ Chính phủ, nợ khu vực công, nợ quốc gia. Việc
phân loại, tổng hợp nợ vì vậy cũng chưa theo các chuẩn mực quốc tế, việc quản
lý nợ còn chồng chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nước, chưa có kế hoạch cụ
thể để xây dựng và sử dụng cơ sở dữ liệu về nợ công v.v.

8



2.2. Thực trạng nợ công tại Việt Nam
2.2.1. Nợ công tăng nhanh
Bảng 2.1. Tốc độ tăng nợ công Việt Nam qua các năm
Đơn vị: %

Tốc độ tăng nợ công

2011

2012

2013

2014

2015*

24.8

18.4

17.9

23.3

19.9

Nguồn: Báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trước Quốc hội (10/2014);
*: ước tính.


Về thực trạng nợ công, trước 2010 chưa có quy định pháp lý về quản lý nợ
công. Các chỉ số về nợ ở mức thấp phù hợp với định hướng điều hành của giới
hạn an toàn nợ nước ngoài không quá 50% GDP._________________________
Từ 2010 đến nay, Luật quản lý nợ công có hiệu lực, tạo cơ sở pháp lý quan
trọng, công tác quản lý nợ có nhiều chuyển biến tích cực, tăng cường công khai
minh bạch, trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương trong việc quản lý sử
dụng hiệu quả đầu tư; bổ sung nguồn vốn đáng kể đầu tư xã hội và đầu tư từ
ngân sách nhà nước._____
Theo Đồng hồ nợ công toàn cầu, tính đến tháng 1/2015, nợ công của Việt
Nam ở mức 87.063 tỷ USD, chiếm 46.9% GDP, tăng 10.2% so với năm 2013;
bình quân nợ công đầu người 960 USD. Những con số này vẫn nằm trong phạm
vi an toàn theo tiêu chuẩn về ngưỡng trần nợ công/GDP 65% do Bộ Tài chính
đặt ra. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn về đặc điểm và cách tính nợ công của
Việt Nam, cũng như đặt vấn đề hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công trong bối
cảnh nền kinh tế còn nhiều yếu kém như hiện nay, sẽ thấy đây là một thực trạng
đáng quan ngại hơn nhiều so với các con số trên.
Nhiều dự án lớn trọng điểm như dự án lớn về hạ tầng giao thông, điện, hàng
không được sử dụng đầu tư từ nguồn vốn vay đã đi vào sử dụng, góp phần thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, trong điều kiện khó khăn, tăng trưởng
chậm lại, cân đối nguồn lực ngân sách cùng lúc phải sắp xếp cân đối các nguồn

9


lực, dẫn đến tỷ trọng bố trí chi đầu tư phát triển giảm lớn so với giai đoạn trước.
Năm 2010 tỷ trọng chi là 21,6%, 2014 xuống 16,2% và 2015 dự kiến 17,1% dự
toán ngân sách. Chúng ta phải huy động mức trái phiếu chính phủ cho đầu tư rất
lớn, giai đoạn 2014-2016 huy động thêm 170.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ
ngoài 225.000 tỷ đồng giai đoạn 2011-2015.____________________________

Thời gian qua các chỉ số nợ công, nợ chính phủ, nợ quốc gia như tỷ lệ nợ của
Chính phủ, tỷ lệ trả nợ trực tiếp từ cân đối ngân sách Nhà nước so với tổng thu
ngân sách vẫn trong giới hạn Quốc hội cho phép nhưng đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức. Nợ Chính phủ và nợ Quốc gia đều quy định 50%, nợ công
không quá 65%; đảm bảo trả đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ nợ đến hạn và không
phát sinh nợ xấu. Cơ cấu các khoản nợ vay trong nước góp phần vào giảm phụ
trội khoản vay nước ngoài. Tỷ trọng dư nợ trong nước của Chính phủ tăng từ
40,3% năm 2010 lên 54,5% năm 2014. Nợ nước ngoài giảm tương ứng với mức
từ 59,7% xuống 45,5%._____________________________________________
Về sử dụng tiền vay, qua tổng kết cho thấy vay để đầu tư là 98,1%, vay chi sự
nghiệp 0,4%.
Nguồn huy động vốn vay của Chính phủ chủ yếu là phát hành trái phiếu
Chính phủ trong nước và vay ODA, ưu đãi nước ngoài. Trong đó, khối lượng
trái phiếu Chính phủ đã phát hành đạt trên 1.006 nghìn tỷ đồng, chiếm 46,3%
tổng số vốn vay của Chính phủ với mức tăng đạt trên 25%/năm. Tổng số vốn
vay nước ngoài của Chính phủ đã giải ngân đạt gần 597 nghìn tỷ đồng, chiếm
gần 27,5% tổng số vốn vay của Chính phủ. Đặc biệt, nguồn vốn vay nước ngoài
của Chính phủ chủ yếu được sử dụng cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội, xóa đói giảm nghèo, chiếm trên 91% tổng số vốn vay.
Cũng trong giai đoạn này, Chính phủ cấp bảo lãnh thực hiện hàng loạt
chương trình, dự án trọng điểm sử dụng vốn vay nợ trong và ngoài nước, với
tổng số vốn cam kết tương đương 12,4 tỷ USD, trong đó bảo lãnh vay trong
nước chiếm khoảng 54% và nước ngoài chiếm khoảng 46%. Tổng vốn vay của
Chính phủ đưa vào cân đối NSNN cho đầu tư phát triển (tính cả trái phiếu
10


Chính phủ, không bao gồm cho vay lại) đạt trên 1.400 nghìn tỷ đồng, trung bình
đạt 7% GDP và có tốc độ tăng 14%/năm. Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài
chính đối ngoại khẳng định, nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ chỉ sử

dụng để cho vay lại các chương trình, dự án đầu tư phát triển có khả năng hoàn
vốn với trị giá giải ngân ước đạt 237 nghìn tỷ đồng trong 5 năm qua. Việt Nam
đã sử dụng 578 nghìn tỷ đồng vốn vay Chính phủ bảo lãnh để hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn vay dài hạn để thực hiện chương trình, dự án
trọng điểm, cấp bách.

Bảng 2.2. Một số chỉ tiêu nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam
Đơn vị: %
2012

2013

55.7
43.3

54.2
42.3

172

198

24.4
41.1

37.3

Nguồn: Bản tin Nợ công số 03 – MoF (8/2014); Báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính trước
Quốc hội (10/2014); Báo cáo triển vọng thị trường – VPBank Securities (19/01/2015);
*: ước tính


Phương thức phát hành trái phiếu đã được thay đổi để phù hợp với thực

11


trạng phát triển, minh bạch hóa hoạt động của thị trường và từng bước tiếp cận
các chuẩn mực của thị trường quốc tế. Quy mô của thị trường trái phiếu Việt
Nam đã tăng từ mức 2,82% GDP năm 2001 lên mức 19% GDP năm 2011 và
khoảng 21,2% GDP năm 2014. Dự kiến, năm 2015, sẽ phát hành 250 nghìn tỷ
đồng trái phiếu Chính phủ. Thông qua việc phát hành, trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh đã huy động được một khối lượng vốn lớn nhàn rỗi trong nền kinh
tế, đáp ứng nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách và cho đầu tư phát triển.
Ông Trương Hùng Long (Cục trưởng Cục Quản lý Nợ và Tài chính đối
ngoại) cho biết, việc tổ chức thực hiện trả nợ luôn đảm bảo đúng nghĩa vụ nợ
đến hạn hàng năm, đặc biệt là đã chủ động bố trí đầy đủ nguồn NSNN để trả nợ
cho các nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ đúng hạn, đảm bảo trong giới hạn
cho phép, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn làm ảnh hưởng tới các cam kết,
góp phần tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia. Theo thống kê của Bộ Tài chính,
chưa tính số đảo nợ thì số trả nợ của năm 2014 ước khoảng hơn 141 nghìn tỷ
đồng, năm 2015 khoảng hơn 166 nghìn tỷ đồng. Nợ công so với GDP năm 2014
ước khoảng 59,6% GDP, nằm trong giới hạn cho phép không quá 65% GDP.
Ước tính năm 2015 là 62,3%.
2.2.2. Rủi ro về nợ công và quản lý nợ công tại nước ta
a. Rủi ro về cấu trúc nợ công
Mức nợ công của Việt Nam hiện vẫn đang được đánh giá là trong phạm vi
kiểm soát, nhưng nếu xét trên cấu trúc nợ của Việt Nam, thực tế có thể nghiêm
trọng hơn rất nhiều. “Hiện nay về cách tính nợ công của Việt Nam và quốc tế có
sự vênh nhau, không khớp với nhau. Điều đó có nghĩa nợ của doanh nghiệp nhà
nước, nợ của một số chính quyền địa phương hoặc tổ chức thuộc nhà nước

được nhà nước không tính vào đó. Trước quốc tế thực chất hiện nay với khối nợ
của doanh nghiệp nhà nước cực kỳ lớn thì trong tình hình như vậy mức nợ công
không phải là dưới 65%. Thực tế các chuyên gia, các nhà khoa học không phải
tổ chức nước ngoài người ta tính toán nợ công trên 100% tức là trên mức báo

12


động rất nhiều. Với tỷ lệ nợ công so với GDP như vậy đồng thời với những khó
khăn thách thức cũng như xu hướng nợ công tăng, khả năng chi trả và việc xử
dụng không hiệu qủa thì đây là tình trạng đáng báo động…” (Theo Ngô Trí
Long).
Bên cạnh đó, các tính toán về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam có
những sai lệch ở các nguồn khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Vì vậy,
việc đánh giá rủi ro đối với nợ công Việt Nam không thể dựa trên các khoản nợ
ghi nhận trên sổ sách. Những khoản nợ xấu của khu vực DNNN dù không được
Chính phủ bảo lãnh, nhưng khi gặp vấn đề về khả năng thanh toán, có thể vẫn
phải dùng đến ngân sách nhà nước để trả nợ.
b. Rủi ro trong chi tiêu công
Chi tiêu công của nước ta hiện ở mức rất cao so với các nước. Nhìn chung,
các nhà kinh tế đều thống nhất cho rằng quy mô chi tiêu công tối ưu đối với các
nền kinh tế đang phát triển nằm trong khoảng 15-20% GDP. Số liệu của ADB
(2011) cho thấy, Hồng Kông, Đài Loan, Inđônêxia và Singapore là những nước
có quy mô chi tiêu chính phủ nhỏ nhất, từ 15-18% GDP. Trong khi đó, chi tiêu
chính phủ của Việt Nam luôn vượt xa mức tối ưu này, và chiếm tới hơn 30%
GDP trong những năm gần đây . Mức bội chi ngân sách tiếp tục tăng từ mức dự
kiến 224000 tỷ đồng trong năm 2014 lên 226000 tỷ đồng năm 2015
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2014 ước tính
đạt 968.5 nghìn tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển 158 nghìn tỷ đồng (chi
đầu tư xây dựng cơ bản chiếm gần 97% tổng chi đầu tư phát triển); chi phát

triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng,
đoàn thể ước đạt 690.5 nghìn tỷ đồng (chiếm 71.3% tổng chi ngân sách); chi trả
nợ và viện trợ 120 nghìn tỷ đồng. Trong khi tỷ trọng chi đầu tư phát triển có xu
hướng giảm dần từ 25.5% năm 2010 xuống còn 22.0% năm 2011 và ước tính
17% năm 2014 nhờ nỗ lực cắt giảm chi tiêu công, thì tỷ trọng chi thường xuyên
lại tăng nhanh, từ mức 64.9% và 67.2% trong năm 2010 và 2011 lên mức 71.3%
năm 2014. Điều này cho thấy việc điều chỉnh và cắt giảm chi tiêu công có cải
thiện nhưng chưa hiệu quả, bộ máy công quyền hiện vẫn cồng kềnh và tốn kém.

13


Bên cạnh đó, thu ngân sách lại thiếu bền vững. Tổng thu thuế và phí của nước ta
chủ yếu đến từ ba nguồn chính: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp, và thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu. Tỷ
trọng thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng giảm dần trong khi tỷ
trọng thu từ thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt tăng. Điều này tiềm ẩn
nguy cơ thâm hụt ngân sách trong những năm tới tăng mạnh một khi Việt Nam
phải thực hiện các cam kết về giảm thuế xuất nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu
của hội nhập thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, các khoản thu từ dầu thô và các
tài nguyên khác là không bền vững do các nguồn này là hữu hạn, đặc biệt giá
dầu thô phụ thuộc vào thị trường thế giới. Vừa qua, giá dầu thế giới liên tục
giảm mạnh, gây thất thoát không nhỏ cho thu ngân sách: thu từ dầu thô giảm từ
28.8% tổng thu ngân sách xuống còn 11.6% trong năm 2011 và ước khoảng
10.2% cho năm 2015. Mặt khác, thu từ viện trợ không hoàn lại cũng không bền
vững do bản chất ngắn hạn không ổn định, nhất là các khoản này có nguy cơ
giảm mạnh khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp.
c. Rủi ro trả nợ công
Bảng 2.3. Nợ công của Việt Nam 2010 – 2013
2010

2011
2012
2013
Triệ
Triệ
Triệ
Triệ
u
u
%
% u
% u
%
US
US
USD
USD
D
D
Tổng
dư nợ

589 1 663 1
1
1
7790
9089
14.0 0 91.1 0
0
0

3.99
5.53
7
0
8
0
0
0

Nợ
nước
ngoài

327
376
5
5 4215 5 4524 5
41.2
43.9
6
7 7.8 4 3.02 0
7
1

Nợ
trong
nước

287
261 4

4 3574 4 4565 5
47.2
71.8 4
3 6.19 6 2.51 0
7

Nguồn: Bản tin nợ công 03 – MoF (8/2014)
Đối với nợ trong nước: Hệ thống ngân hàng gặp vấn đề về tính thanh khoản
và nợ xấu. Nợ trong nước có tỷ trọng tăng nhanh, hiện chiếm tới hơn 50% (bảng
14


2) nhưng chủ yếu là dưới hình thức trái phiếu Chính phủ mà NHTM mua. Mặc
dù đã có những điều chỉnh nhằm tăng lượng trái phiếu Chính phủ dài hạn trong
tương lai, song ở thời điểm hiện tại thì các khoản nợ này chủ yếu vẫn là lãi suất
khá cao (8-10%) và ngắn hạn (2-5 năm). Với rủi ro lãi suất cao và kỳ hạn ngắn,
nghĩa vụ trả nợ trong nước sẽ vô cùng nặng nề, áp lực tăng cung tiền trả nợ dẫn
đến lạm phát.
Về vấn đề trả nợ nước ngoài, áp lực trả nợ nước ngoài hiện giảm nhẹ một
phần nhờ việc Chính phủ phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu kỳ hạn 10
năm ra thị trường vốn quốc tế với lãi suất ở mức 4.8% (ngày 06/11/2014). Việc
này giúp giải quyết một số nghĩa vụ nợ ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, trong
những năm tiếp theo (2016-2020), hai lô trái phiếu quốc tế phát hành trước đó
sẽ đáo hạn (1 lô trị giá 750 triệu USD năm 2005 và 1 lô 1 tỷ USD năm 2010),
tiếp đó là lô thứ ba này đáo hạn năm 2024. Có thể khẳng định rằng áp lực trả nợ
nước ngoài dưới hình thức trả nợ trái phiếu quốc tế sẽ rất lớn và trường kỳ, có
khả năng đưa Việt Nam rơi vào nguy cơ của một cuộc khủng hoảng nợ tại các
thời điểm nóng về đáo hạn nợ.
Hình 2.4. Dự kiến nghĩa vụ nợ nước ngoài hàng năm của Chính phủ (triệu USD)


Nguồn: Bản tin Nợ nước ngoài số 07 – MoF (7/2011)

d. Vấn đề rủi ro tỷ giá và lãi suất
Sự điều chỉnh tỷ giá VND/USD tác động trực tiếp đến nợ công và quản lý nợ

15


công, mà cụ thể ở phần nợ nước ngoài. Nhưng đến thời điểm hiện tại, quyết
định tăng tỷ giá và rủi ro tỷ giá đến nợ nước ngoài sẽ không đáng ngại. Nguyên
nhân là: dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay cơ bản gắn liền với USD và đạt
36 tỷ USD thời điểm cuối năm 2014. Khoản dự trữ này sẽ đảm bảo sự can thiệp
và điều chỉnh thị trường ngoại hối ngắn hạn, trong đó có việc trả nợ vay nước
ngoài. Vì khả năng trả nợ phụ thuộc vào số ngoại tệ tích lũy kiếm đủ (hoặc dư)
tính theo năm, chứ không phụ thuộc nhiều vào thời điểm tỷ giá tăng giảm trong
năm đó, rủi ro tỷ giá hiện chưa gây áp lực nhiều đến trả nợ nước ngoài của Việt
Nam hiện nay (Châu Đình Linh, 2015).
Trong khi đó, với việc các khoản vay ODA đối với Việt Nam ngày càng bị
thu hẹp, Việt Nam sẽ dần phải tiếp cận với các khoản vay ít ưu đãi và các khoản
vay với điều kiện vay thương mại hoặc các khoản vay có lãi suất thả nổi. Do đó,
rủi ro lãi suất, chứ không phải rủi ro tỷ giá, có thể là một yếu tố quan trọng cần
được tính đến trong những năm tới.
Như vậy, có thể thấy rằng, nợ công của Việt Nam mặc dù vẫn trong ngưỡng
an toàn, nhưng lại tiềm ẩn những rủi ro về bội chi ngân sách và khả năng thanh
toán nợ trong tương lai trung và dài hạn xuất phát từ cách nhìn nhận chưa thực
sự đúng đắn về quản lý và hoạch định chính sách về nợ công hiện nay. Rõ
ràng, thách thức đầu tiên đối với vấn đề nợ công của Viêt Nam chính là xây
dựng một hệ thống phân tích và quản trị nợ công một cách minh bạch, chính
xác và có hiệu quả.
e. Rủi ro tái tài trợ_______________________________________________

Các chính phủ hầu như không bao giờ chỉ đi vay chỉ một lần duy nhất mà thay
vào đó việc đi vay và trả nợ luôn diễn ra thường xuyên. Khi các khoản nợ đáo
hạn, chính phủ thường phải đi vay khoản nợ mới để tái tài trợ cho nhu cầu đầu
tư công. Trong trường hợp này chính phủ phải đối mặt với khả năng tìm được
nguồn tài trợ mới với chi phí hợp lý. Cần nhớ rằng, không phải bất kỳ khoản nợ
nào của chính phủ khi đáo hạn cũng có thể ngay lập tức đượctái tài trợ. Điều
này còn tùy thuộc vào sự phát triển của thị trường trái phiếu trong nước.
Một số chính phủ phát hành trái phiếu có kỳ hạn không hợp lý do không được
16


lập kế hoạch rõ ràng và thống nhất dẫn đến việc một lượng lớn trái phiếu chính
phủ cùng đáo hạn trong một thời hạn gần nhau. Điều này sẽ đặt ra thách thức rất
lớn cho chính phủ không chỉ liên quan đến việc thu xếp nguồn tiền trả nợ mà
còn là rủi ro tái tài trợ với chi phí thấp. Khi nhiều trái phiếu cùng đến hạn và
đều có nhu cầu tái tài trợ sẽ làm tăng cung trái phiếu trên thị trường. Hệ quả là
nhà đầu tư sẽ tăng lãi suất để đáp ứng lại với lượng cung trái phiếu tăng đó. Tất
nhiên điều này còn tùy thuộc vào mặt bằng lãi suất trên thị trường lúc đó như
thế nào. Trong trường hợp này có thể xem như một dạng của rủi ro lãi suất. Tuy
nhiên ở đây cũng cần phải bóc tách rủi ro này ra dưới góc độ là rủi ro tái tài trợ
thay vì là rủi ro lãi suất vì nó liên quan đến khả năng chính phủ gặp khó khăn
trong việc tìm nguồn tài trợ mới cho các khoản nợ cũ đến hạn. Ở một số quốc
gia, để tăng tính hấp dẫn và giảm rủi ro thanh khoản cho nhà đầu tư, đặc biệt khi
thị trường trái phiếu trong nước còn kém phát triển, chính phủ thường trao cho
nhà đầu tư một quyền chọn bán khi có nhu cầu tài chính. Trái phiếu này được
gọi là trái phiếu có quyền chọn bán (putable bond), tức trái chủ có quyền bán lại
trái phiếu cho chính phủ trước khi đáo hạn. Thông thường đối với các trái phiếu
này, trái chủ chỉ thường chọn bán lại khi mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng lên,
vì khi đó việc tái cho vay mới sẽ có lợi hơn cho các trái chủ. Khi trái chủ làm
như vậy thì cũng có nghĩa là chính phủ sẽ bị thiệt hại nhiều hơn, không chỉ là

rủi ro tái tài trợ mà còn là rủi ro thanh khoản, tức khả năng dự trữ thanh khoản
để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ mua lại.
f. Rủi ro thanh khoản
Như đã đề cập ở phần cuối của rủi ro tái tài trợ, trong trường hợp các khoản
nợ đến hạn cùng lúc quá nhiều sẽ khiến cho chính phủ không thể xoay trở kịp
nguồn tiền để trả nợ cho các chủ nợ và trái chủ. Trong trường hợp này chính
phủ buộc phải bán đi các tài sản dự trữ của mình để trả nợ. Tuy nhiên không
phải lúc nào việc bán các tài sản cũng diễn ra nhanh chóng với chi phí thanh lý
thấp. Điều này còn tùy thuộc vào tính thanh khoản của các tài sản dự trữ của
chính phủ cũng như khả năng chính phủ có thể huy động tạm thời nguồn tiền
mặt trên thị trường tiền tệ trong thời gian ngắn để đáp ứng nghĩa vụ nợ đến hạn

17


hay không. Trong trường hợp này chính phủ xem như đã gặp phải rủi ro thanh
khoản.
Lưu ý rằng, rủi ro thanh khoản không có nghĩa là chính phủ không đủ khả năng
thanh toán nghĩa vụ nợ đến hạn mà chỉ là rủi ro khi chính phủ không thể ngay
lập tức bán đi các tài sản dự trữ để thanh toán nợ đến hạn ngay lập tức. Tức là,
khả năng chính phủ vẫn có đủ nguồn tài sản cần thiết để trả hết nghĩa vụ nợ chứ
không phải là không đủ khả năng thanh toán nợ đến hạn. Trường hợp chính phủ
không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ nợ cam kết với nhà đầu tư, chẳng hạn
như thanh toán lãi hoặc nợ gốc trái phiếu đến hạn thì được gọi là rủi ro tín dụng.
2.2.3.Vì sao nợ công tăng nhanh
Thứ nhất, nhu cầu chi tăng mạnh trong thời gian vừa qua, đặc biệt là chi đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chi cho con người và cho an sinh xã hội. Thực
trạng kết cấu hạ tầng của nước ta còn yếu kém, nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện
đột phá chiến lược về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và áp
lực cạnh tranh, hội nhập quốc tế không ngừng gia tăng là nguyên nhân tăng các

khoản vay để bổ sung cho đầu tư._____________________________________
Thứ hai, bội chi ngân sách nhà nước cao, kéo dài và có xu hướng gia tăng.
Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2011 - 2013, bội chi ngân sách nhà nước bình
quân 5,2% GDP, trong khi thu ngân sách nhà nước chỉ tăng có 1,13 lần thì quy
mô chi ngân sách nhà nước tăng 1,29 lần. Năm 2013, Quốc hội đã thông qua
Nghị quyết nới trần bội chi ngân sách nhà nước trên GDP từ 4,8% lên 5,3%
GDP ước thực hiện, nhưng do mức GDP thực tế thấp hơn so với kế hoạch dự
kiến nên với số bội chi tuyệt đối được Quốc hội thông qua, con số này tương
đương 5,45%. Khi bội chi ngân sách nhà nước tăng thì nợ công cũng sẽ tăng lên
tương
ứng. ___________________________________________________
Thứ ba, chi phí nợ công tăng lên trong những năm vừa qua cũng góp phần
làm gia tăng nợ công. Từ năm 2010, việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi (ODA)
khó khăn hơn do Việt Nam thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Đặc
biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã phải chuyển sang các nguồn vốn
vay thương mại với lãi suất cao hơn và các điều kiện vay khắt khe hơn, điều này
làm gia tăng chi phí trả nợ hằng năm. Tính bình quân giai đoạn 2010 - 2012, chi
trả lãi chiếm 32% trong tổng chi trả nợ hằng năm và có xu hướng ngày càng
tăng
lên.______________________________________________________
Thứ tư, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn

18


cầu, kinh tế nước ta tăng trưởng chậm lại, tỷ trọng thu ngân sách thấp hơn cùng
kỳ năm trước nhưng vẫn phải giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp. Tỷ lệ huy động
thuế, phí vào ngân sách nhà nước giảm từ 24,8% GDP bình quân giai đoạn 2006
- 2010 xuống còn 21% GDP giai đoạn 2011 - 2015. Cùng với đó, kinh tế Việt
Nam bước vào giai đoạn khó khăn đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp miễn,

giảm, gia hạn thuế để hỗ trợ doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến nguồn động
viên vào ngân sách nhà nước.______________________________________
Thứ năm, lượng vốn huy động qua kênh phát hành trái phiếu chính phủ tăng
nhanh. Trong bối cảnh nguồn ngân sách bố trí cho trả nợ và đầu tư phát triển rất
hạn hẹp nhưng nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện đột phá chiến lược là rất lớn, do
đó, việc duy trì huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ là cần thiết.
Giai đoạn 2011 - 2015, phải phát hành 335 nghìn tỷ đồng trái phiếu chính phủ,
gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006 - 2010 (giai đoạn 2011 - 2014 đã phát hành 250
nghìn tỷ đồng, năm 2015 theo kế hoạch phát hành thêm 85 nghìn tỷ đồng).
Thứ sáu, chính sách mở rộng phạm vi, đối tượng bảo lãnh của Chính phủ cho
doanh nghiệp vay vốn góp phần làm nợ công tăng cao. Phạm vi bảo lãnh của
Chính phủ rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh như sản xuất thép,
xi măng, giấy, điện, than, khoáng sản, cảng biển, năng lượng, y tế và các dự án
đầu tư xây dựng hạ tầng. Theo Bộ Tài chính, tính đến 2013, nợ được Chính phủ
bảo lãnh là 396.114 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn 2010 - 2013
khá cao 20,8%. Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục bảo lãnh doanh nghiệp
vay thực hiện các dự án trọng điểm với giá trị bảo lãnh bình quân 3 tỷ - 4 tỷ
USD/năm. Về phát hành trái phiếu trong nước, mức tăng dư nợ bình quân
10%/năm với nhu cầu vay Chính phủ bảo lãnh từ 60.000 tỷ - 70.000 tỷ
đồng/năm.
Thứ bảy, đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những
nước mà Việt Nam vay vốn như Nhật Bản, EU… Trong tổng số tiền vay nợ
nước ngoài của Việt Nam năm 2010 thì có đến hơn 39% vay nợ bằng đồng yên
Nhật Bản (JPY); 22% là vay nợ bằng đồng đôla Mỹ (USD); 9% là bằng đồng
euro (EUR); còn lại là những đồng tiền khác. Vay nước ngoài có những tác
động nguy hại đến nền kinh tế. Thời gian đầu, một dòng ngoại tệ lớn chảy vào
trong nước sẽ làm giảm sức ép cân đối ngoại tệ. Tuy nhiên, trong trung và dài
hạn, việc Chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu
cầu ngoại tệ tăng cao, làm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết
bị và nguyên liệu, tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm

phát. Tỷ giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm
19


tăng nguy cơ vỡ nợ, nếu quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà
nước. Việc vay nợ nước ngoài lớn nhất bằng đồng JPY và USD sẽ rất bất lợi vì
hiện nay đồng JPY và USD đang có xu thế tăng giá, do đó tỷ giá JPY/VND sẽ
tiếp tục tăng lên, điều này sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam
bởi: Một là, khi đa số các khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn thì rủi
ro tín dụng và rủi ro tỷ giá cao; Hai là, rủi ro kép với mức chênh lệch lãi suất
được đánh giá theo lãi suất thị trường. Nếu như chênh lệch lãi suất quá lớn giữa
thị trường trong nước và thị trường quốc tế để thực hiện cân bằng tài khoản vốn
có thể gia tăng mức độ đôla hóa và tạo áp lực lên tỉ giá. Ba là, khi tính toán tỉ
giá thực và sức mua ngang giá của tiền đồng vào từng thời kỳ. Giữa số vốn vay
và số vốn trả nợ khi đáo hạn vốn vay nước ngoài sẽ chịu tác động
của tỉ giá rất lớn, nếu như sử dụng và quản lý vốn vay không có hiệu quả.
Thứ tám, thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư lại
không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất cao khiến cho việc hoàn trả
nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, mức
thâm hụt ngân sách của Việt Nam tăng tương đối cao (6,5% GDP năm 2010),
vượt mức qui định quốc tế (5% GDP) do việc thực hiện chính sách kích cầu
kinh tế. Trong khi các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử
nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực
nhất định.
2.2.4. Giải pháp quản lý nợ công hiệu quả ở Việt Nam trong thời gian tới
Những phân tích trên cho thấy, Việt Nam đang có nhiều dấu hiệu giống với
một số nước châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công, đó là:
i) Tăng trưởng kinh tế giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008
đến nay;
ii) Thâm hụt ngân sách và nợ công lớn, cóxu hướng tăng nhanh;

iii) Lạm phát tăng cao và khó kiềm chế;
iv) Cơ cấu nợ công nước ngoài tăng cao trong khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối/tổng
dư nợ ngắn hạn giảm mạnh;
20


v) Nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn nhưng chưa được tính vào
cơ cấu nợ công;
vi) Việt Nam đang bị áp lực không được vay các khoản vay ưu đãi lãi suất thấp
(như ODA) mà tiến tới phải vay các khoản vay thương mại với lãi suất caohơn,
thời gian vay ngắn hơn.
Những yếu tố này khiến nợ công ở Việt Nam có nguy cơ nằm trong vùng rủi
ro cao, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng dựa vào khai
thác tài nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động, vốn, năng suất lao động thấp.
Cho đến nay, nợ công Việt Nam đã vượt ngưỡng an toàn, trong vài năm tới có
khả năng tiếp tục tăng cao và thiếu bền vững.__

________________________
Nhìn vào định hướng phát triển kinh tế - xãhội của Việt Nam từ nay đến năm
2020, có thể thấy trong thời gian tới Việt Nam sẽ tiếp tục phải đi vay để bù đắp
những thiếu hụt đầu tư, bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa của Việt nam hiện nay chỉ là
khoảng 27% GDP, trong khi mức đầu tư toàn xã hội đòi hỏi mỗi năm là 42%

21


GDP. Tính không bền vững của nợ công trong thời gian tới có thể quy về một số
yếu

tố


sau

đây:______________________________________________

Thứ nhất, Nhà nước tiếp tục đầu tư lớn để xây dựng các công trình cơ sở hạ
tầng hiện đại và quan trọng như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam (dự tính 56
tỷ USD), dự án xây dựng Thủ đô (60 tỷ USD), nhà máy điện hạt nhân ở Ninh
Thuận (trên 10 tỷ USD)..., trong đó nguồn vốn chủ yếu lấy từ ngân sách nhà
nước và nợ công. Điều này sẽ khiến nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài, của
Việt Nam tăng nhanh trong thời gian tới.
Thứ hai, nợ công phụ thuộc vào cán cân ngân sách và tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt
thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, nếu mô hình kinh tế ở Việt Nam không có sự
đổi mới, tiếp tục dựa vào các yếu tố vốn và thâm dụng tài nguyên lao động thì
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới sẽ giảm, dẫn đến
thâm hụt ngân sách và nợ công cao hơn. Thực trạng phát triển kinh tế hiện nay ở
Việt Nam cho thấy, việc đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam đang gặp rất
nhiều vấn đề khúc mắc, đặc biệt trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực, doanh
nghiệp nhà nước, công nghiệp hỗ trợ, cơ sở hạ tầng mềm... Theo dự báo năm
2011 của Economist Intelligence Unit (EIU), tốc độ tăng GDP trung bình hàng
năm của Việt Nam sẽ chỉ đạt trung bình 7,4% vào năm 2015, giảm còn khoảng
5% sau năm 2020 và chỉ đạt khoảng 3-4% sau năm 2030.
Trên quan điểm phân tích thực trạng nợ công và những rủi ro trong sử dụng nợ
công và trả nợ công của Việt Nam trong thời gian qua, bài viết đưa ra một số
kiến nghị chính sách sau đây:
Một là, cần thay đổi cách tính nợ công, trong đó tính cả nợ của các doanh
nghiệp nhà nước được bảo lãnh trong cơ cấu nợ công. Với cách tính mới này,
chúng ta mới có thể tính chính xác số nợ công hiện tại là bao nhiêu, có ở
ngưỡng rủi ro cao hay không, từ đó mới có thể quản lý hiệu quả nợ công.

Hai là, cần thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước
nhiều hơn nợ nước ngoài. Nợ trong nước có thể huy động thông qua các đợt
phát hành trái phiếu với lãi suất phù hợp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong
22


người dân. Nếu không thay đổi được cơ cấu nợ công theo hướng tăng cao nợ
trong nước, Việt Nam sẽ rất khó khăn trong việc trả nợ nước ngoài bởi trong
thời gian tới những ưu đãi từ nguồn vốn ODA cho Việt Nam sẽ giảm mạnh,
buộc Chính phủ tiếp tục phải đi vay nợ tại các ngân hàng thương mại nước
ngoài với lãi suất cao và thời gian ngắn hạn hơn rất nhiều. Hơn nữa, việc vay nợ
các ngân hàng nước ngoài rất nguy hiểm nếu gặp những biến động bất lợi về tỷ
giá.
Ba là, cần thực hiện kỷ luật tài khóa một cách rõ ràng và nghiêm ngặt để tránh
tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên và luôn ở mức cao, gây ảnh hưởng bất
lợi đến nợ công. Kỷ luật tài khóa cần thực thi nhằm giảm thâm hụt ngân sách
một cách cứng rắn theo lộ trình rõ ràng, chẳng hạn như thâm hụt ngân sách duy
trì ở mức 4% từ nay đến năm 2020, duy trì ở mức 3% kể từ sau năm 2020...
Bốn là, phải có những lĩnh vực ưu tiên rõ ràng trong chi tiêu sử dụng nợ
công. Những ưu tiên cần đặt ra là: các cơ sở hạ tầng công ích, các dịch vụ an
sinh xã hội, các doanh nghiệp nhà nước không vì mục đích thương mại. Các
doanh nghiệp nhà nước vì thế cũng cần phải thu hẹp theo hướng: tiếp tục phát
triển các doanh nghiệp nhà nước vì lợi ích công ích và được Chính phủ bảo
lãnh, đồng thời bán các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thương mại cho nhà
đầu tư nước ngoài và tư nhân trong nước._____________________________
Năm là, cẩn trọng hơn đối với quản lý rủi ro nợ công của khu vực doanh
nghiệp nhà nước. Nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ chính phủ và nợ công đều
đang tăng lên rất nhanh, mỗi bộ phận nợ này có tính chất và cấu trúc khác nhau,
đem lại những rủi ro khác nhau và cần phải có những biện pháp quản lý rủi ro
một cách hiệu quả. Để quản lý nợ hiệu quả, cần phải tính cả nợ của khu vực

doanh nghiệp nhà nước để tránh tình trạng một hoặc vài doanh
nghiệp nhà nước mất khả năng trả nợ sẽ ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp nhà nước khác, gây đổ vỡ hàng loạt hệ thống tài
chính - ngân hàng do nợ xấu của các doanh nghiệp, khiến
Chính phủ mất khả năng giúp doanh nghiệp trả nợ và dẫn đến
tình trạng vỡ nợ như Hy Lạp và một số nước châu Âu đang gặp
23


phải._________________
Sáu là, cần xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả.
Chế độ kiểm toán rất cần sự minh bạch và có trách nhiệm giải
trình cao để có thể kiểm soát tốt nợ công của Việt Nam. Hiện
tại, chất lượng đội ngũ kiểm toán nhà nước của Việt Nam còn
thấp, chưa đủ khả năng để đánh giá, phân tích bản chất của nợ
công, phân loại nợ công và đánh giá những tác động có thể xảy
ra đối với nợ công. Hơn nữa, việc giám sát chi tiêu của Chính
phủ cũng cần phải được thể chế hóa và bắt buộc thi hành để
tránh tình trạng chi tiêu không đúng mục đích, chi tiêu vượt quá
mức cho phép. Luật Ngân sách Nhà nước cũng cần phải được rà
soát lại nhằm nâng cao hiệu quả của chi tiêu công. Nếu không
có cơ chế quản lý nợ công hiệu quả, chúng ta không thể đánh
giá thấu đáo tình hình tăngtrưởng kinh tế, lượng dự trữ quốc gia
là bao nhiêu, nợ công trong nước hay nợ công nước ngoài đang
gặp mối nguy hiểm gì, do vậy nguy cơ vỡ nợ là điều không thể
lường trước.

24



III. KẾT LUẬN
Nợ công là một vấn đề mà quốc gia nào trên thế giới cũng phải đối mặt. Trong
cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ công là danh mục nợ lớn nhất. Đây là một cơ
cấu tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự ổn
định tài chính trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong quá
trình hội nhập tài chính, vần đề nợ công đang ngày một trở thành vấn đề nghiêm
trọng, là gánh nặng với các nước nghèo và có thể là nguyên nhân gây bất ổn
chính trị, ảnh hưởng không tốt đến chủ quyền quốc gia. Đây cũng là một cơ cấu
tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm năng có thể ảnh hưởng đến
tài chính trong nước. Nếu không sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay, không kiểm
soát chặt chẽ các tổ chức, cá nhân có vốn vay thì chắc chắn thực trạng không có
khả năng trả nợ của quốc gia sẽ xảy ra và điều đó thực sự là thảm họa của dân
tộc. Do vậy, nâng cao hiệu quả quản lý nợ công là vấn đề đang được Chính phủ
và các nhà lãnh đạo quan tâm. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã thành công
trong chính sách quản lý nợ công thận trọng, kiểm soát nợ công ở mức khá an

25


×