KẾ HOẠCH HỎI TRUNG + HẢI
Hỏi bị cáo Hải
1. Trog bien bản lời khải tất cả biệ bản này có chữ ký của bị cáo tại sao có sự
mẫu hâunx, một biên bản hỏi cũng ngày 16/3/2012 bị cáo khai có bán ma túy ,
biên bản hỏi cung ngày 12 và 14 /11/2012 là không bán bán ma túy cho Thành
và Trung?
2.
3. Bị can có bán ma tuý cho Trung và Thành không?
Dự kiến: Không
4. Tại sao bị can Trung và Thành lại khai bị can có bán ma tuý cho Trung và Thành.?
Dự kiến trả lời: Việc Trung và Thành khai như vậy tôi không biết.
5. Bị cáo cho biết trong biên bản ghi lời khai ngày 16.3.2012 bị cáo khai như thế
nào?
Trong biên bản ghi lời khai ngày 16/3/2012, tôi khai ngày 8/3/2012 tôi gặp 1 người tên là
Mạnh Đình (không biết rõ tên) tại phòng 62 khách sạn Khánh Ngọc, người này hỏi mua
của tôi một hộp 10 ma túy tổng hợp (hàng đá) tầm hơn 12 triệu. Tôi khai gọi điện cho anh
Thúng hỏi mua số ma túy đó với giá hơn 11 triệu. Sau đó tôi lấy hàng của anh Thúng tại
quán cà phê quận 7 và về đưa cho Mạnh Đình. Tôi bảo Trung theo Mạnh Đình qua quận
4 lấy tiền sau đó Trung về đưa cho tôi tại phòng 62 khách sạn Khánh Ngọc.
Tôi còn khai trước đây đã bán cho Mạnh Đình rồi nhưng tôi không nhớ rõ số
lượng và chi tiết trong lời khai.
6. Trong lời khai ngày 16.3, bị cáo khai như thế này:
Ngày 2.3.2012, bị cáo bán cho Mạnh Đình (tức Thành) nửa hộp 5 hàng đá tại
khách sạn Nam Anh đường Nguyễn Hữu Thọ Quận 7 giá 3.500.000 đồng
Ngày 12.3.2012, bị cáo lên Tân Bình mua của Minh bê đê 1 hộp 10 hàng đá giá 12tr rồi
mang về khách sạn Khánh Ngọc. Đến 21 giờ thì bán cho Thành ½ hộp 5.
Vậy tại sao tại phiên tòa bị cáo lại không nhớ những lần bán trước đây?
7. Trong bản hỏi cung ngày 14/11/2012 (trang 141), bị cáo có khai đã bị công an
đánh. Có đúng là bị công an đánh không?
Dự kiến trả lời: Thưa VKS đúng là tôi bị công an đánh.
Vậy bị cáo có bằng chứng nào chứng minh mình bị đánh không?
Dự kiến trả lời: Dạ không.
Hỏi bị cáo Trung
1. Trong các bút lục số 75, 76, 77, 78, 95, 96 và 101 bị cáo khai đã mua ma túy của
Hải 02 lần và một lần đi lấy tiền cho Hải ở Đường Tôn Đản quận 4. Tuy nhiên
trong bút lục 112, 113, 114, 115 và 138, bị cáo lại khai không mua ma túy của Hải
mà mua của Minh bê đê? Vậy bị cáo giải thích cho mọi người nghe vì sao trong
lời khai của bị cáo lại mâu thuẫn như vậy?
Dự kiến trả lời: Do bị cáo lúc đầu mới vào trại còn hoảng sợ, lo lắng nên suy nghĩ, lời
nói không được đúng, không rõ ràng. Sau này, khi đã bình tĩnh trở lại và nhớ lại được các
sự việc thì bị cáo đã khai sao cho đúng với sự thật ạ.
2. Như vậy là bị cáo thừa nhận 20 gói ma túy bị Công an thu giữ hôm 16.3.2012 là
bị cáo mua của Minh bê đê chứ không phải của Lê Hy Minh Hải có đúng không?
Dạ đúng.
3. Bị can đã tới nơi ở của Minh Bê Đê tất cả mấy lần, bị can quan hệ với Minh Bê
Đê như thế nào?
Dự kiến: Từ trước đến nay tôi chỉ đên nhà Minh Bê Đê duy nhất có một lần vào ngày
15/03/2012 tôi quen biết Minh Bê Đê thông qua Lê Hy Minh Hải.
4. Vậy tại sao đi chỉ điểm bị can biết là Minh Bê Đê còn xác minh lại không có
Minh Bê Đê ở tại địa phương?
Dự kiến: Bản thân tôi có chỉ được nơi ở của Minh Bê Đê tại 129/1 Bạch Đằng,
phường 2, Tân Bình. Còn quá trình đi xác minh tại địa chỉ trên không có tên Minh Bê Đê
thì tôi không biết.
5. Theo lời khai của bị can trình bày nguồn ma túy bị can bị công an quận 7 thu giữ
ngày 16/03/2012 bị can lấy của Minh Bê Đê để trừ nợ cái loa súp đúng ko?
6. Bị cáo giải thích tại sao bị cáolời khai ngày 16/3/202 bị cáo nhờ Hải bán giùm
sup loa cho Minh bê đê nhưng tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo Hải khai không
hề c
1. Bị cáo đã bán lại ma tuý cho những ai? Bao nhiêu lần rồi?
Dự kiến trả lời: Bị cáo chưa bán ma túy cho ai cả.
dự kiến: Bị cáo chia thành nhiều gói nhỏ cho tiện sử dụng với cũng tiện cất giấu
1. Bị cáo giải thích thế nào về việc BC chia nhỏ lượng ma túy có được thành từng gói
nhỏ?
2. Bị cáo có biết Hải lấy ma tuý ở đâu không? Và bán cho những ai ngoài bị cáo?
Dự kiến trả lời: Bị cáo không mua của ai cả, số ma túy đó là bị cáo lấy từ Minh bê đê để
trừ tiền cái loa súp Minh mua trước đó mà chưa trả tiền.
BÀI LUẬN TỘI
PHẦN MỞ ĐẦU
Thưa hội đồng xét xử
Tôi tên , là kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 Thành phố
Hồ Chí Minh. Tôi được giao nhiệm vụ thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật tại phiên tòa xét sử sơ thẩm vụ án hình “Lê Hy Minh Hải, Lê
Quang Trung, Tống Hữu Thành, TRần Thị Mỹ Thảo bị truy tố về tội “ Mua bán trái
phép chất ma tuý” theo điểm b, khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự.
Trong những năm vừa qua, công tác phòng chống và kiểm soát ma túy đã đạt
được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên tình hình mua bán, vận chuyển, tàng trữ
vẫn chưa giảm; tình hình nghiện hút, tiêm chích và tổ chức sử dụng ma túy đang
diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên. Ma túy đã gây tác hại
rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm nguy hại và suy thoái giống nòi,
trực tiếp gây ra những cái chết trắng, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội
phạm, , gây hoang mang, lo lắng trong cộng đồng, cần được loại trừ triệt để. Hôm
nay, Toà án Nhân dân thành phố HCM mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình
sự gồm các bị cáo “Lê Hy Minh Hải, Lê Quang Trung, Tống Hữu Thành, Trần thị
Mỹ Thảo” bị VKSND Q7 tp HCM truy tố về tội “mua bán trái phép chất ma tuý”
là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm giúp các bị cáo nhận
thức được hành vi phạm tội của mình; răn đe, giáo dục các bị cáo và mang tính
chất phòng ngừa chung để mọi người nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng
quy tắc của cuộc sống xã hội và tham gia đấu tranh tích cực đối với không chỉ tội
phạm ma tuý nói riêng mà với tất cả các loại tội phạm nói chung.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và trên cơ sở các tình tiết,
chứng cứ tại phiên tòa ngày hôm nay, với trách nhiệm, quyền hạn là người thực
hành quyền công tố nhà nước, thay mặt Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 Tp. Hồ Chí
Minh, tôi xin trình bày bản luận tội như sau:
PHẦN NỘI DUNG
Trên cơ sở kết quả điều tra và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa đã xác định
được như sau:
Cơ sở buộc tội các bị cáo:
*** Đối với Lê Quang Trung
Vào lúc 1h ngày 16/03/2012, Đội cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an
Quận 7 kết hợp với công an phường Bình Thuận, quận 7 kiểm tra phòng số 101,
khách san Khánh Ngọc địa chỉ : 30A, đường số 1, phường Bình Thuận, quận 7 bắt
quả tang các đối tượng : Lê Quang Trung, sinh năm 1982; Phạm Ngọc ThànhVõ
Quí Hiếu, sinh năm 1987; Nguyễn Thị Diễm, sinh năm 1989 ; đang sử dụng trái
phép chất ma túy tổng hợp.
Vật chứng thu giữ gồm : 20 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methmphetamine
(MA), trọng lượng : 4,0852 gram, một máy điện thoại hiệu NOKIA; 3,500,000
đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp.
Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận 7, Lê Quang Trung khai nhận toàn
bộ số ma túy và dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy là của Trung. Còn nguồn
ma túy bị Công an quận 7 thu giữ, Lê Quang Trung mua của Lê Hy Minh Hải 2 lần
vào các ngày 12/03/2012 và 15/03/2012 mỗi lần ½ hộp 5 về phân ra từng gói nhỏ
có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện
Ngoài ra, Trung còn khai nhận việc đi lấy tiền mà Hải bán ma tuý cho Thành vào
ngày 10/3/2012 – đây là hành vi tiếp tay cho hoạt động mua bán trái phép chất ma
tuý của Hải. (Theo Biên bản ghi lời khai tại bút lục số 75,76,77,78, 95,96 và tự
khai ở bút lục số 101).
Qua quá trình xét hỏi, các bị cáo Thành, Thảo, Hải đã khai nhận hành vi của
mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các nhân chứng, người liên
quan, và chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được. Riêng bị cáo Trung có hành
vi quanh co, khi được hỏi bị cáo mua 20 gói ma tuý từ ai thì ban đầu bị cáo khai
mua của Lê Hy Minh Hải, sau lại khai là mua của Minh Bê Đê (chưa xác định rõ
lai lịch).
Lê Hy Minh Hải khai Trong bản điều tra bổ sung của Cơ quan điều tra công
an quận 7 đã làm rõ hành vi quanh co, khai báo gian dối của Trung.
*** Đối với Lê Hy Minh Hải
Lê Hy Minh Hải
Ngoài việc bán ma túy cho Lê Quang Trung, Lê Hy Minh Hải còn bán ma
túy cho Tống Hữu Thành tổng cộng 03 lần: lần thứ nhất vào ngày 02/03/2012, tại
khách sạn Lam Anh địa chỉ 30A đường số 1, phường Bình Thuân, quận 7. Lần này
Lê Hy Minh Hải bán cho Tống Hữu Thành ½ hôp năm ma túy tổng hợp giá
3,500,000 đồng, Thành trả trước 1000,000 đồng và thiếu lại 2,500,000 đồng. Lần 2
vào ngày 10/03/2012, tại quán café điểm hẹn quận 7, Lê Hy Minh Hải bán cho Lê
Hữu Thành 01 hộp 10 mà túy tổng hợp, giá 12.200.000 đồng. Lê Hy Minh Hải nói
Lê Quang Trung đi qua đường Tôn Đản quận 4 lấy tiền rồi đem về đưa Hải. Lần
thứ 3 vào ngày 12/03/2012, tại khách sạn Khánh Ngọc, Lê Hy Minh Hải bán cho
Tống Hữu Thành ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Thành chưa trả
tiền cho Hải. Tổng cộng Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Hy Minh Hải 03
lần, riêng lần mua 10 hộp ma túy tổng hợp Thành mang bán cho Tuấn (không xác
định nhân thân lai lịch) giá 12.800.000 đồng.
Qua quá trình xét hỏi, các bị cáo Thành, Thảo, Hải đã khai nhận hành vi của
mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các nhân chứng, người liên
quan, và chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được. Riêng bị cáo Trung có hành
vi quanh co, khi được hỏi bị cáo mua 20 gói ma tuý từ ai thì ban đầu bị cáo khai
mua của Lê Hy Minh Hải, sau lại khai là mua của Minh Bê Đê (chưa xác định rõ
lai lịch). Trong bản điều tra bổ sung của Cơ quan điều tra công an quận 7 đã làm rõ
hành vi quanh co, khai báo gian dối của Trung.
***Đối với Tống Hữu Thành
Tống Hữu Thành thu lợi bất chính 600.000 đồng. Còn hai lần Tống Hữu
Thành mua của Lê Hy Minh Hải ½ hộp năm ma túy tổng hợp, Thành mang về nơi
tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000 đến 300.000 đồng cất giấu sẵn trong
người. Chờ khi nào có các đối tượng nghiện cần mua lẻ sử dụng, điện thoại cho
Thành theo số 0903536313, Thành sẽ mang đi bán cho các đối tượng nghiện. Các
đối tượng nghiện thường mua ma túy của Tống Hữu Thành gồm có: Phạm Văn
Chính (tự Ty), Phạm Quốc Hiệp và Nguyễn Văn Lành và Võ Quốc Cường (cùng bị
bắt ngày 16/03/2012) và 5 đối tượng khác không biết rõ tên và địa chỉ). Địa điểm
Tống Hữu Thành thường bán ma túy là những địa bàn vắng người trên quận 4 và
quận 7. Vào lúc 16 giờ ngày 16/03/2012, tại ngã ba đường Phan Huy Thực và
đường Lê Văn Lương phường Tân Kiểng, quận 7, đội ma túy phát hiện Tống Hữu
Thành đang được tên Võ Quốc Cường, sinh năm: 1985, HKTT: 450/110 Đoàn Văn
Bơ, phường 4, quận 4, dùng xe NOUVO biển số 54Z4-2723 chở Thành mang ma
túy đi bán cho đối tượng nghiện (Nhưng Cường không biết Thành đi bán ma túy).
Thu giữ của Thành 01 gói ma túy tổng hợp (MA), qua Kết luận giám định tại
Bút lục 49 xác định tinh thể trắng trong túi nilon là Mathamphetamine (MA), trọng
lượng 0,0852gram ; 01 điện thoại di động và 300.000 đồng và xe gắn máy mang
biển số 54Z4-2723. Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ
sơ bắt quả tang Tống Hữu Thành thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Thành
để mua ma túy nên bị đội ma túy mời về làm việc; Phạm Văn Chính; (tự Ty) sinh
năm: 1984; HKTT: ấp 2, thị trấn Cần Giuộc, Long An; Phạm Quốc Hiệp; sinh năm
1988, HKTT: C84 xóm Chiếu, phường 14, quận 4.
Ngoài việc mua bán ma túy của Lê Hy Minh Hải ra, Tống Hữu Thành còn
mua ma túy của Dũng (không xác định thân nhân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01
cách ngày Tống Hữu Thành bị công an quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là
ngày 17/03/2012. Mỗi lần Tống Hữu Thành mua ma túy của Dũng thì Dũng không
trực tiếp mang đi bán, mà Dũng nhờ Trần Thị Mỹ Thảo mang đi bán cho Dũng.
Trong thời gian thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy (kể từ ngày
17/02/2012 đến ngày 17/03/2012), tổng số tiền Tống Hữu Thành thu lợi bất chính
là 6.000.000 đồng, số tiền này Thành đã ăn sài và mua ma túy sử dụng hết.
Vào lúc 0 giờ 30’ ngày 17/03/2012, trước khách sạn Lam Anh địa chỉ A77 khu
dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, quận 7,Đội ma túy Công an quận 7 đã bắt
quả tang Trần Thị Mỹ Thảo đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa (sinh năm 1956 HKTT:
245A/22 đến Ba Đình, phường 8, quận 8) mang ma túy đi bán. Thu giữ của Thảo
01 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methamphetaminne, qua giám định tại Bút lục số
49 – Kết luận giám định số 475 của Phòng Kỹ thuật công an Quận 7 trọng lượng
2,3947 gram; 2 máy ĐTDĐ và 600.000 đồng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra công
an quận 7, Trần Thị Mỹ Thảo khai nhận đã được Dũng nhờ đem ma túy đi bán 02
lần, ngoài việc bán ma túy cho Tống Hữu Thành ra, Thảo còn 02 lần bán ma túy
cho một đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch) trên địa bàn quận 7. Việc
Trần Thị Mỹ Thảo bán ma túy cho Dũng, Thảo được Dũng cho tiền hai lần, tổng
cộng là 3.000.000 đồng. Số tiền này Thảo đã ăn xài cá nhân và mua ma túy sử
dụng hết.
Qua quá trình xét hỏi, các bị cáo Thành, Thảo, Hải đã khai nhận hành vi của
mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các nhân chứng, người liên
quan, và chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được. Riêng bị cáo Trung có hành
vi quanh co, khi được hỏi bị cáo mua 20 gói ma tuý từ ai thì ban đầu bị cáo khai
mua của Lê Hy Minh Hải, sau lại khai là mua của Minh Bê Đê (chưa xác định rõ
lai lịch). Trong bản điều tra bổ sung của Cơ quan điều tra công an quận 7 đã làm rõ
hành vi quanh co, khai báo gian dối của Trung.
Về tính chất, mức độ tội phạm, hậu quả của hành vi phạm tội:
Hành vi của các bị cáo đã thực hiện phạm tội nhiều lần, gây nguy hiểm cho xã
hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma tuý
của Nhà nước, tiếp tay cho những kẻ buôn bán trái phép và sử dụng chất ma tuý,
gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, sự phát triển tâm lý, hành vi của những người sử
dụng, gây mất trật tự công cộng, gia tăng các loại tệ nạn xã hội, làm cho tình hình
tội phạm về ma tuý ngày càng diễn biến đa dạng, phức tạp, khôn lường, ảnh hưởng
xấu đến chính sách phát triển kinh tế - văn hoá xã hội của Nhà nước. Hành vi phạm
tội của các bị cáo đã đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và nguyện vọng của Quần chúng nhân dân.
Xét về nguyên nhân, động cơ phạm tội:
Bản thân các bị cáo Hải và Trung, Thành là những đối tượng có sức khoẻ
nhưng không chịu lao động, làm ăn, học tập, không chịu phấn đấu, rèn luyện, tu
dưỡng đao đức, nhân cách của bản thân mà lại lười biếng, ăn chơi sa đoạ, không có
tiền để ăn chơi tiêu xài là nguyên nhân chính dẫn đến việc các bị cáo đã có hành vi
mua bán trái phép chất ma tuý, để lấy tiền tiêu xài. Vì vậy, các bị cáo phải trả giá
bằng việc đứng trước vành móng ngựa ngày hôm nay để nhận sự nghiêm trị cảu
pháp luật. Hậu quả làm ảnh hưởng xấu đến tương lai của chính bản thân các bị cáo.
Đây cũng chính là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai đã và đang tiếp tay cho
những kẻ buôn bán chất ma tuý, sử dụng ma tuý, làm ảnh hưởng tới đời sống của
chính mình và toàn cộng đồng xã hội.
Xét về vai trò thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo:
Vai trò của Lê Hy Minh Hải: là đối tượng nghiện ma tuý, không có nghề
nghiệp ổn định, Lê Hy Minh Hải đã nhiều lần mua ma tuý của người Thúng
và Minh Bê Đê để bán lại cho Trung và Thành, nhằm thu lợi bất chính ở vai
trò cầm đầu đường dây mua bán ma tuý.
- Vai trò của Lê Quang Trung: Là đối tượng nghiện ma tuý và không có nghề
nghiệp ổn định; do không có tiền để sử dụng trái phép chất ma tuý nên Lê
Quang Trung đã hai lần mua ma tuý của Lê Hy Minh Hải về phân ra thành
từng gói nhỏ, và bán cho các đối tượng nghiện. Ngoài việc mua ma tuý của Lê
Minh Hải mang về bán thì Trung còn đi lấy tiền do Hải bán ma tuý cho Tống
Hữu Thành để thu lợi bất chính. Hành vi của Trung vừa sử dụng, vận chuyển,
tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý, vừa tiếp tay cho hành vi mua bán trái
phép chất ma tuý của Hải.
- Vai trò của Tống Hữu Thành: Tống Hữu thành là người nghiện ma tuý và đã
có 2 tiền án về tội “Đánh bạc”; Sau khi ra tù, không lo làm ăn lương thiện mà
lại tiếp tục phạm tội. Do quen biết Hải, nên Thành đã có hành vi trung gian,
mua ma tuý của Hải để bán lại cho các con nghiện khác nhằm kiếm lời từ hoạt
động trung gian đó. Trong thời gian từ 16/02/2012 đến 16/03/2012, Thành đã
nhiều lần mua ma tuý của Lê Hy Minh Hải và Trần Thị Mỹ Thảo để bán lại
cho các đối tượng nghiện.
- Vai trò của Trần thị Mỹ Thảo: là đối tượng nghiện ma tuý, không có nghề
nghiệp ổn định. trong thời gian từ 16/02/2012 đến 16/03/2012, Trần thị Mỹ
Thảo đã nhiều lần lấy ma tuý của Dũng đem bán cho Thành nhằm thu lợi bất
chính. Thảo đóng vai trò trung gian, vận chuyển ma tuý, trực tiếp tham gia
vào hoạt động mua bán ma tuý.
Xét về nhân thân của các bị cáo:
-
Bị cáo: Lê Hy Minh Hải và Lê Quang Trung , Trần Thị Mỹ Thảo chưa có tiền
án tiền sự; xuất thân từ gia đình nhân dân lao động, được gia đình nuôi ăn học đầy
đủ, đều không nằm trong danh sách quản lý đối tượng nghiện của địa phương;
Bị cáo Tống Hữu Thành: đã có 2 tiền án tiền sự;
- Ngày 15.12.2004 bị CÔng an Quận 7 bắt về tội “đánh bạc”. Toà án nhân dân quận
7 xử phạt 3 năm tù giam;
-
Ngày 20/03/2006 bị Công an Quận 7 bắt về tội “Đánh bạc”. Toà án nhân dân quận
7 xử phạt 2 năm tù giam.
Tình tiết tăng nặng giảm nhẹ:
- Lê Hy Minh Hải; Tống Hữu Thành; Lê Quang Trung: tình tiết giảm nhẹ: thành
khẩn khai báo được quy định tại điểm h, p khoản 1, điều 46 BLHS;
-
-
-
-
Trần thị Mỹ Thảo: tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, bị cáo đang có thai 11
tuần;; theo điểm h, l, p khoản 1 Điều 46 BLHS; bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18
tuổi.
ĐỀ NGHỊ XỬ LÝ
Từ những phân tích ở trên tôi đề nghị Hội đồng Xét xử: tuyên các bị cáo Lê Hy
Minh Hải, Lê Quang Trung, Tống Hữu Thành, Trần Thị Mỹ Thảo phạm tội “mua
bán trái phép chất ma tuý”:
Áp dụng điểm b khoản 2 điều 194 BLHS phạt các bị cáo:
Lê Hy Minh Hải: 7 năm tù;
Tống Hữu Thành: 10 năm tù;
Lê Quang Trung: 7 năm tù;
Riêng đối với Trần thị Mỹ Thảo, đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại
điểm p khoản 1 điều 46, Điều 69 BLHS tuyên phạt bị cáo: 18 tháng cải tạo không
giam giữ; đồng thời bắt buộc cai nghiện;
Về xử lý tang vật của vụ án: Áp dụng Điều 41 BLHS
Tịch thu tiêu huỷ: mẫu vật còn lại sau giám định gồm tinh thể không màu (m1)
trọng lượng 0,0500g; m2 trọng lượng 2,1820g; 20 gói tinh thể không màu tịch
trọng lượng 4,085g;
Tiêu huỷ: những dụng cụ mà Trung dùng để sử dụng ma tuý tại khách sạn
Khánh Ngọc ngày 16/03/2012;
Tịch thu, sung quỹ nhà nước:
-
+ 1 máy điện thoại di động Nokia là phương tiện mà Trung dùng để liên lạc
trong việc mua bán ma tuý; 3.500.000 đồng là số tiền Trung mua bán trái phép chất
ma tuý mà có;
+ 1 máy điện thoại di động cuả Thành – công cụ dùng trong việc liên lạc để
buôn bán ma tuý; 300.000 đồng là số tiền Thành có được do mua bán trái phép
chất ma tuý;
+ tịch thu 1 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Thảo dùng để sử dụng vào
mục đích liên lạc với các đối tượng mua bán ma tuý để phục vụ công tác điều tra;
sung quỹ nhà nước 600.000 đồng là số tiền Thảo thu được do hoạt động mua bán
trái phép chất ma tuý mà có;
+ Tịch thu 1 di động Nokia của Lê Hy Minh Hải liên lạc dùng để mua bán ma
tuý;
Trả lại:
+ xe máy biển số 54Z6-0098 cho bà Trương thị Kim Sa;
+ trả lại xe máy biển số 54Z4- 2723 cho anh Võ Quốc Cường;
Trên đây là quan điểm của VKSND tp HCM về tội danh và hình phạt đối với
các bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét, cân nhắc để ra bản án đúng người đúng tội và
đúng pháp luật, có ý nghĩa răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.