Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nắm bắt thời cơ trong cách mạng tháng Tám 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.43 KB, 20 trang )

GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

MỤC LỤC

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 1


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

MỞ ĐẦU
Việt Nam chúng ta vốn dĩ là một đất nước giàu tài nguyên thiên nhiên , lại
nằm trong ngã ba Đông Dương nên được xem như là một miếng mồi ngon và béo
bở của nhiều nước trên thế giới lúc bấy giờ. Do đó trong quá trình đi xâm lấn, mở
rộng thuộc địa, tư bản phương Tây đã để ý tới nước ta. Năm 1958, đế quốc Pháp nổ
súng xâm lược nước ta, Triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Pa-Tơ -Nốt, hoàn toàn
dâng nước ta cho đế quốc pháp.Từ đó chúng ta là thuộc địa của chúng, cũng kể từ
đó nhân dân ta chịu đựng bao đau khổ, lầm than dưới sự bóc lột tận cùng của thực
dân Pháp đã làm hằn sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam ý chí kiên cường.
Bằng sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu một
bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và việc
chớp đúng thời cơ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn, nó đã phá tan hai
tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm và của phát xít Nhật
đồng thời nó còn lật đổ chế độ Phong kiến tồn tại ngót ngàn năm trên đất nước ta,
lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Tám được xem là


một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam, cũng như để lại nhiều bài học quý
giá cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa, chính trị,…của đất nước ta sau này, để tìm
hiểu kỹ hơn về việc chớp đúng thời cơ trong cách mạng tháng 8 năm 1945 và sự
ảnh hưởng của thời cơ đến nước ta hiện nay, nhóm chúng em đã nghiên cứu đề tài:
“Chứng minh năm 1945 đảng đã nhạy bén chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân tổng
khởi nghĩa giành chính quyền một cách nhanh chóng và ít đổ máu. trong giai đoạn
hiện nay, việt nam có những thời cơ thuận lợi gì cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc?”. Do sự hạn hẹp về kiến thức và tính phức tạp của đề tài nên trong quá
trình làm bài không tránh khỏi những hạn chế và sai sót, mong nhận được sự đóng
góp ý kiến từ cô giáo.

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 2


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

NỘI DUNG
Chương 1. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1939 ĐẾN
NĂM 1945
1.1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
1.1.1 Tình hình thế giới và trong nước
1.1.1.1. Tình hình thế giới
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp
tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt
chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi

hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở
thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng
pháp luật.
Tháng 6- 1940, Đức tấn công Pháp.Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 226-1941, quân phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phátxít Đức xâm lược Liên Xô,
tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ
do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phátxít do Đức cầm đầu.
1.1.1.2. Tình hình trong nước
Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông
Dương và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm
tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản
Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch
thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và
tụ tập đông người.
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính
sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp
phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản
Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số
quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban
bố lệnh tổng động viện, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 3


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh
niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.

Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phátxít Nhật đã tiến vào Lạng
sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu
hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp
- Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc, Pháp – Phát xít Nhật trở nên gay gắt
hơn bao giờ hết.
1.1.2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 111940) và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941).


Hội nghị trung ương Đảng lần VI (11-1939)

Tổ chức vào tháng 11 – 1939 tại Bà Điểm (Hooc Môn) do đồng chí Nguyễn
Văn Cừ chủ trì.
Nội dung hội nghị:


Nhận định kẻ thù: Kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đế quốc phát xít Pháp Nhật.



Xác định nhiệm vụ: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách của
cách mạng Đông Dương lúc này.



Khẩu hiệu đấu tranh: Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”,thay bằng khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc,Việt gian chia cho dân cày.




Mặt trận: Chủ trương thành lập Mặt trân dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp giai cấp, các dân tộc Đông Dương chỉ mũi
nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xit.



Hình thức và phương pháp đấu tranh: Dùng bạo lực cách mạng tức là đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang.
Ý nghĩa:
Hội nghị TW Đảng lần VI (11/1939) đã đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược của Đảng. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn.

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 4


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

Đảng ta đã dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết được rộng rãi
mọi tầng lớp giai cấp, dân tộc Đông Dương trong một mặt trận dân tộc thống nhất
để đấu tranh chống kẻ thù chung.
Sự chuyển hướng này đã mở ra một thời kỳ đấu tranh mới, thời kỳ trực tiếp
mở đường tiến tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám sau này.




Hội nghị trung ương Đảng lần VII (11-1940):

Hội nghị trung ương họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), có các đồng chí
Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng
Ninh,... tham dự.
Nội dung:






Khẳng định chủ trương của hội nghị lần VI là hoàn toàn đúng đắn.
Quyết định duy trì củng cố lực lượng du kích Bắc Sơn đồng thời đình chỉ cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ.
Hội nghị nhấn mạnh vấn đề khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền và coi đây là
nội dung trung tâm từ đó đề ra nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Hội nghị xác định kẻ thù của nhân dân Đông Dương đó là phát xít Nhật.
Ngày 13-1-1941 cuộc binh biến Đô Lương do đội Cung dẫn đầu nổ ra.
Ý nghĩa:




Hội nghị đã chuẩn bị điều kiện để chuyển hình thức đấu tranh và đã có chủ trương
đúng đắn.
Giữ gìn lực lượng cách mạng chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ
đến.



Hội nghị trung ương Đảng lần VIII (5-1941):

Diễn ra từ ngày 10 tới 19-5-1941 tại Pắc Pó - Hà Quang - Cao Bằng do đồng
chí Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Quốc Tế Cộng Sản chủ trì.
Nội dung:


Phân tích diễn biến tình hình trong nước và thế giới từ đó đặt ra mâu thuẫn cấp
bách cần giải quyết đó là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc - phát xít Pháp Nhật.

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 5


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2



Hội nghị tán thành chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng trong 2 lần hội
nghị trung ương VI và trung ương VII.



Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là hàng đầu. Quyền lợi của bộ phận
giai cấp đặt dưới sự sinh tử tồn vong của dân tộc. Trong lúc này nếu không đòi tự
do cho toàn thể thì quốc gia dân tộc mãi chịu kiếp trâu ngựa mà quyền lợi giai cấp
đến ngàn vạn năm cũng không đạt được.




Thực hiện chủ trương tịch thu ruộng đất của Việt gian chia cho dân nghèo, thực
hiện giảm tô, giảm tức chia lại ruộng công tiến đến dân cày phải có ruộng.



Hội nghị trung ương VIII chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương trên
cơ sở tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, từ đó thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh gọi tắt là Việt Minh. Hội bao gồm hội cứu quốc, các tổ chức trong mặt trận
Việt Minh đều có tên là Cứu Quốc.



Chủ trương khởi nghĩa vũ trang và đồng thời khẳng định cách mạng ở Đông Dương
kết thức bằng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.



Hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.



Hội nghị chủ trương xây dựng Đảng gấp rút đào tạo cán bộ chuyên môn.
Ý nghĩa:
Phản ánh sự nhạy bén trước sự thay đổi của tình hình của Đảng.
Kế thừa phát huy cương lĩnh của Hồ Chí Minh.
Phát triển chủ trương hàng đầu là giải phóng dân tộc của hội nghị trung ương VI
và VII.

 Chuyển hướng mới và tự giải quyết vấn đề dân tộc
Từ hội nghị VI tới hội nghị thứ VIII đã dần hoàn thiện chiến lược nhằm mục tiêu
giành độc lập.
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và tập hợp quần chúng, phương pháp cách mạng từ
khởi nghĩ vũ trang và đề ra được quyền dân tộc tự quyết.
Sự chuyển hướng của Đảng ta là đúng đắn trong giai đoạn cách mạng sắp tới tiến
đến thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945.









1.2. Chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
1.2.1. Chuẩn bị lực lượng
1.2.1.1. Chuẩn bị lực lượng chính trị
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 6


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

Gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của Việt Minh (bao gồm các
đoàn thể quần chúng mang tên “cứu quốc”). Chương trình của Việt Minh đáp ứng

nguyện vọng cứu nước của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh ngày càng
phát triển mạnh.
Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các hội “Cứu quốc” trong
mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942 khắp các châu ở Cao Bằng đều có Hội cứu quốc
trong đó có 3 châu “hoàn toàn” (Hoà An, Hà Quảng và Nguyên Bình). Trên cơ sở
đó, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh CaoBắc-Lạng được thành lập.
Bắc Sơn-Võ Nhai cũng là một trung tâm chuẩn bị khởi nghĩa.Sự ra đời và
hoạt động của lực lượng vũ trang Bắc Sơn làm cho các tổ chức cứu quốc được xây
dựng rộng khắp.
Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông
Anh, Phúc Yên), vạch ra kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ
trang. Ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị, các đoàn thể Việt Minh, hội
Cứu quốc được xây dựng và củng cố.
Năm 1943 bản Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời. Năm 1944, Đảng dân
chủ Việt Nam và Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam được thành lập, đứng trong hàng
ngũ Việt Minh.
Ngoài ra, Đảng cũng chú trọng công tác vận động binh lính người Việt trong
quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chống phát xít.
Báo chí của Đảng và của mặt trận Việt Minh đã góp phần vào việc tuyên
truyền đường lối chính sách của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
Lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng đông đảo nhất, một lực lượng
cơ bản, giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền.Việt Minh
là nơi tổ chức, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị, đồng thời tạo điều kiện để
xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
1.2.1.2 Chuẩn bị lực lượng vũ trang
Cùng với quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, Đảng từng bước chỉ đạo xây
dựng lực lượng vũ trang.
Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (11/1940), lực lượng vũ trang Bắc Sơn được
duy trì để làm vốn quân sự cho cách mạng. Bước sang năm 1941 những đội du kích
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam


Page 7


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

ở khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai lớn mạnh lên và thống nhất thành Trung đội cứu
quốc quân I (14/2/1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8
tháng (từ tháng 7/1941 đến tháng 2/1942).Ngày 15/9/1941, Trung đội cứu quốc
quân II ra đời.
Ở Cao Bằng, trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển mạnh, các đội tự vệ cứu
quốc ra đời. Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị thành lập đội tự vệ gồm 12
chiến sĩ, làm các nhiệm vụ: bảo vệ cơ quan đầu não, giao thông liên lạc và huấn
luyện tự vệ cứu quốc. Người biên soạn nhiều tài liệu để huấn luyện cán bộ quân sự
như Cách đánh du kích, Kinh nghiệm du kích Nga, Kinh nghiệm du kích Tàu…
Ngày 22 – 12 – 1944, thực hiện chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, lúc đầu có 34 chiến sĩ, do Võ Nguyên
Giáp chỉ huy. Ba ngày sau, đội đánh thắng hai trận liên tiếp ở Phai Khắt và Nà
Ngần.
Tháng 4 – 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì quyết định thống nhất
lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng 7 chiến khu trong
cả nước.
Ngày 15 – 5 – 1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng
quân được thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Lực lượng bán vũ trang cũng được xây dựng rộng khắp, ở cả nông thôn và
thành thị, gồm các đội du kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu.
Lực lượng vũ trang tuy còn ít về số lượng, thiếu thốn về trang bị, non yếu về
trình độ tác chiến, nhưng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động vũ trang tuyên

truyền, góp phần phát triển lực lượng chính trị; tiến công quân sự ở một số nơi gây
thanh thế cho cách mạng, đồng thời là lực lượng xung kích, lực lượng nòng cốt, hỗ
trợ quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều là cơ sở của bạo lực cách
mạng, là điều kiện để kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong tổng
khởi nghĩa toàn dân, đập tan chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính
quyền cách mạng.
1.2.1.3. Xây dựng căn cứ địa
Để tiến hành khởi nghĩa phải xây dựng căn cứ địa. Đó là nơi giải quyết vấn
đề tiềm lực của cách mạng.
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 8


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

Năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Vùng Bắc Sơn – Võ Nhai được
xây dựng thành một trung tâm căn cứ địa, gắn liền với sự ra đơì và hoạt động của
lực lượng vũ trang Bắc Sơn.
Năm 1941, Nguyển Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người
chọn Cao Bằng làm nơi đầu tiên để xây dựng căn cứ địa. Từ đó, căn cứ địa cách
mạng ngày càng mở rộng, phát triển thành căn cứ Cao – Bắc – Lạng.
Năm 1943, Uỷ ban Việt Minh Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19
ban “xung phong Nam tiến” để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
Trong những vùng căn cứ cách mạng diễn ra các hoạt động sản xuất, xây
dựng, chiến đấu, hoạt động của các đoàn thể cứu quốc và lực lượng vũ trang. Ngày
16 – 4 – 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng

các cấp.
Tháng 5 – 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tuyên Quang. Người chọn
Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo cách mạng.
Tháng 6 – 1945, Khu giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập, thực
hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đó là căn cứ địa chung của cách mạng cả
nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới trong tương lai. Tân Trào là thủ
đô Khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập.
Công cuộc chuẩn bị lực lượng được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân
sẵn sàng đón chờ thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa.

1.2.2. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
1.2.2.1. Khởi nghĩa từng phần (tháng 3/1945 đến giữa tháng 8/1945)
 Hoàn cảnh lịch sử

+ Từ khi Nhật vào Đông Dương (9 – 1940), Nhật và Pháp hoà hoãn với
nhau, nhưng đó chỉ là sự hoà hoãn tạm thời, vì hai tên đế quốc không thể chung
một xứ thuộc địa.
+ Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc,
Hồng quân Liên Xô giải phóng các nước Đông Âu và tiến vào nước Đức. Quân
Anh – Mĩ giải phóng nước Pháp, rồi tiếp tục tiến công vào Đức từ phía Tây. Ở mặt
trận châu Á – Thái Bình Dương, quân Đồng minh phản công, giáng cho phát xít
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 9


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2


Nhật những đòn nặng nề. Sau khi Mĩ chiếm lại Philipin, đường biển của Nhật đi
xuống các căn cứ ở phía Nam bị cắt đứt, chỉ còn đường bộ duy nhất qua Đông
Dương. Vì thế Nhật cần độc chiếm Đông Dương bằng mọi giá.
+ Sau khi nước Pháp được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, lực
lượng Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào đánh Nhật,
thì sẽ khôi phục lại quyền thống trị của mình như trước tháng 9 – 1940.
+ Để trừ hậu hoạ bị đánh sau lưng và giữ Đông Dương làm cầu nối đi từ
Trung Quốc xuống các căn cứ phía Nam, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ
Pháp, độc chiếm Đông Dương. Sự kiện đó tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị
ở Đông Dương.
+ Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt biện Pháp nhằm
củng cố quyền thống trị của chúng ở Đông Dương.
+ Ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Từ Sơn (Bắc
Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Ngày 12/3/1945, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta,
xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính; thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật”
bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; chủ trương “phát động một cao trào
kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”, đồng thời
sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.
 Diễn biến

+ Ở vùng rừng núi và trung du Bắc Kì, chiến tranh du kích phát triển
mạnh.Tại Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc
quân phối hợp với lực lượng chính trị giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã.
+ Ở Bắc Kì, Trung Kì, trước thực tế nạn đói diễn ra trầm trọng do chính sách
cướp bóc của Pháp – Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn
đói”. Phong trào thu hút hàng triệu người tham gia. Có nơi quần chúng đã giành
được chính quyền.
+ Làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên ở nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo
quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh), Bần Yên Nhân (Hưng Yên)…

+ Ở các thành phố, nhất là Hà Nội, Huế, Sài Gòn, hoạt động vũ trang truyên
truyền, diệt ác trừ gian được đẩy mạnh, tạo điều kiện phát triển các đoàn thẻ cứu
quốc và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 10


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

+ Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng
khởi nghĩa (3-1945), thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ
và xây dựng căn cứ Ba Tơ.
+ Tù chính trị trong các nhà tù đế quốc đã đấu tranh đòi tự do hoặc nổi dậy
phá trại giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động.
+ Ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất ở Mĩ Tho và Hậu
Giang.
+ Báo chí cách mạng đều ra công khai và gây ảnh hưởng chính trị vang dội.
 Ý nghĩa

+ Cao trào kháng Nhật cứu nước thể hiện tinh thần nỗ lực đấu tranh giành độc
lập của nhân dân Việt Nam; đồng thời góp sức cùng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít.
+ Làm cho kẻ thù ngày càng suy yếu, thúc đẩy thời cơ tổng khởi nghĩa mau
đến.
+ Qua cao trào kháng Nhật, lực lượng cách mạng được tăng cường, trận địa
cách mạng được mở rộng, tạo ra đầy đủ những điều kiện chủ quan cho một cuộc
tổng khởi nghĩa.

+ Là một cuộc tập dượt vĩ đại, làm cho toàn đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động
tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
1.2.2.2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
 Điều kiện bùng nổ

Một cuộc tổng khởi nghĩa chỉ có thể thắng lợi khi có đủ những điều kiện chủ
quan, khách quan và nổ ra đúng thời cơ.
 Về chủ quan:

+ Đảng đã có sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối và phương Pháp cách mạng, thể
hiện tập trung ở Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5 – 1941)


Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 11


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

+ Lực lượng cách mạng cũng được chuẩn bị chu đáo trong 15 năm kể từ khi
Đảng ra đời, được rèn luyện qua nhiều phong trào cách mạng.
+ Đến tháng 8 – 1945, toàn Đảng, toàn dân đã sẵn sàng, chủ động, kiên quyết hi
sinh phấn đấu giành độc lập tự do.
+ Tầng lớp trung gian, khi Nhật đảo chính Pháp mới chỉ hoang mang, dao động,
nhưng đến lúc này đã thấy rõ bản chất xâm lược của Nhật, chán ngán những chính
sách của Nhật, nên đã ngả hẳn về phía cách mạng.
 Về khách quan:


+ Sau khi phát xít Đức bị tiêu diệt, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo
quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử
xuống các thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản. Ngày 9 – 8 – 1945, Hội
đồng tối coa chiến tranh của Nhật họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố
Pốtxđam. Ngày 14 – 8 – 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản
thông qua quyết định đầu hàng.Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng
Đồng minh không điều kiện.Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần
Trọng Kim hoang mang, lo sợ đến cực điểm.Điều kiện khách quan thuận lợi cho
Tổng khởi nghĩa đã đến.Thời cơ cách mạng xuất hiện.
+ Tuy nhiên, một nguy cơ mới đang dần đến. Quân đội các nước đế quốc với
danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật.
Những thế lực phản động trong nước cũng đang tìm cách thay thầy đổi chủ.Chính
vì thế, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với
quân Đồng minh mà nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ.
 Đảng kịp thời phát động khởi nghĩa:

+ Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập
Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban
bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
+ Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào,
thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.
+ Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán
thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt
minh, cử ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 12



GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

 Diễn biến

+ Từ ngày 14 – 8 – 1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng căn
cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”, một số cấp bộ Đảng và Việt Minh đã phát động tổng
khởi nghĩa và giành được thắng lợi.
+ Chiều 16/8/1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị của Đội Việt
Nam Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng thị xã Thái
Nguyên.
+ Ngày 18/8/1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam
giành chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất trong cả nước.
+ Tại Hà Nội, ngày 19/8/1945, hàng vạn nhân dân đánh chiếm cơ quan đầu não
của địch như Phủ Khâm sai, trại Bảo an binh, Tòa Thị chính. Tối 19/8, cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
+ Ngày 23/8, hàng vạn nhân dân Huế biểu tình thị uy, chiếm công sở. Chính
quyền về tay nhân dân.
+ Ngày 25/8, tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn.
+ Khởi nghĩa thắng lợi ở 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tác động
đến các địa phương trong nước, quần chúng các tỉnh còn lại nối tiếp nhau khởi
nghĩa. Hà Tiên và Đồng Nai Thượng là những nơi giành chính quyền muộn nhất
(28/8).
+ Chiều 30/8 vua Bảo Đại thoái vị, triều đình phong kiến nhà Nguyễn hoàn
toàn sụp đổ.
1.2.3. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (2/9/1945)
– Ngày 25/8/1945, Chủ tich Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Uỷ ban

Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.
– Ngày 28/8/1945, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
– Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể
quốc dân và cả thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập.
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 13


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

Chương 2. ĐẢNG NHẠY BÉN CHỚP THỜI CƠ ĐƯA CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM THÀNH CÔNG
2.1. Khái niệm thời cơ
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, là tình thế
xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất cho việc phát huy mọi sức mạnh,
đảm bảo một việc nào đó có thể tiến hành để giành thắng lợi.Thời cơ, đó là một
thành tố khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá
nhân nào, của một tổ chức chính trị nào.Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại
trong một khoảng thời gian nhất định.Nói như vậy không có nghĩa thời cơ là một
cái gì đó không thể biết trước được, không thể đoán định được.Tuy nhiên, điều lý
thú là ở chỗ, nó có mà không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có thể dự
báo được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái
đích của mình.
2.2. Vai trò của thời cơ
Thời cơ là một khái niệm rất quan trọng, gắn liền với sự thành bại của mỗi cá nhân,

của các đảng phái chính trị và của mỗi cộng đồng với những quy mô khác nhau, khi
ta biết tận dụng được hết những thuận lợi để đem đến thành công.
2.3. Thời cơ trong cách mạng tháng tám
Các thế lực thù địch, phản động lập luận cho rằng, Cách mạng tháng 8 năm
1945 là một cuộc cách mạng “ăn may”, do diễn ra đúng vào thời điểm có một
khoảng trống quyền lực ở Đông Dương nói chung và ở nước ta nói riêng. Xét lại
toàn bộ tiến trình lịch sử, chúng ta có đầy đủ cơ sở khẳng định rằng, để có được
thành công của Cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có sự chuẩn bị chu đáo, với các bước tập dượt quan trọng và nhiều lần
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.
Yếu tố quyết định ở đây chính là sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã biết tạo ra thời cơ và
đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật nắm và giành thời cơ; kết hợp nhuần nhuyễn giữa
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 14


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan thuận lợi để đưa cách mạng đến thắng
lợi cuối cùng.
Để chớp được thời cơ trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta
đã có một quá trình chuẩn bị về mọi mặt và dự đoán thời cơ rất khoa học. Ngay
trong Hội nghị Trung ương lần thứ 8, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc, tại Pắc Pó, Cao Bằng, nghị quyết đã dự báo một cách chính xác cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đẻ
ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ

ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó cách mạng nhiều nước sẽ thành công…”.
Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn nhau, ngày 12-3-1945, Hội nghị Thường vụ
mở rộng đề ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trong
bản Chỉ thị đó đã dự báo thời cơ của nhân dân ta vùng dậy đấu tranh, đó là: “Quân
Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật và Nhật đầu hàng quân Đồng minh”.
Đúng như dự báo, sau khi Hồng quân Liên Xô tiêu diệt một triệu quân Quan đông
của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống hai
thành phố lớn nhất của Nhật, giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu
hàng các lực lượng Đồng minh.Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng mà Đảng
ta đã dự báo.
Như đã nói, thời cơ chỉ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất
định. Đó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào miền Nam và khi 20 vạn quân Tưởng
chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật; quân Nhật bại trận mất tinh thần, hoang
mang, rệu rã ngồi chờ quân Đồng minh đến tước vũ khí; còn chính quyền bù nhìn
tay sai Trần Trọng Kim thì bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Do chọn
đúng thời cơ nên sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, ít đổ máu và thành
công triệt để. Đồng thời, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là do lãnh
tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhanh chóng và kịp thời chuyển hướng chiến lược
cách mạng. Sự chủ động và nhạy bén đó bắt nguồn từ bản chất cách mạng, đường
lối, quan điểm đúng đắn, trí tuệ tập thể của Đảng. Thành công của Cách mạng
Tháng Tám 1945 là minh chứng sinh động về sự vận dụng sáng tạo quy luật vận
động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo
chớp thời cơ giành thắng lợi; chứng tỏ tầm nhìn thời đại của Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 15



GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

Chương 3. TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY, VIỆT NAM CÓ NHỮNG THỜI
CƠ THUẬN LỢI GÌ CHO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC?
3.1. Bối cảnh hội nhập quốc tế
Thuận lợi
Trong nước: Một đất nước ổn định về chính trị, an ninh quốc phòng ngày càng
được củng cố tạo ra nhiều lợi thế về đối nội đối ngoại. Tài nguyên thiên nhiên đa
dạng, phong phú; cơ cấu dân số trẻ cung cấp nguồn lao động dồi dào.
Quốc tế: Việt Nam nằm giữa khu vực Đông Á và Đông Nam Á, khu vực năng động
nhất và có tốc độ tang trưởng kinh tế nhanh nhất hiện nay. Thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra những kỹ thuật mũi
nhọn đưa năng suất lao động lên rất cao. Xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh
tế ngày càng tang mạnh. Đồng thời, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển cũng
diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
 Khó khăn
Trong nước: Những năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
nước ta còn nhiều khó khan, đời sống nhân dân còn túng thiếu. Đặc biệt, sai lầm về
tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất nước đến
những khó khan mới, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Thế lực
phản động không ngừng tác động nhằm lật đổ chế độ chính trị còn non trẻ của ta.
Quốc tế: Tác động tiểu cực từ cuộc khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển của Việt Nam.











3.2. Thời cơ cho sự phát triển của Việt Nam giai đoạn hiện nay
3.2.1. Vận dụng bài học thời cơ trong cách mạng tháng 8/1945 để
tạo và chớp thời cơ trong hoàn cảnh hiện nay
Những thời cơ, thuận lợi lớn đã được Đảng và nhân dân nhận thức đầy đủ,
kịp thời. Đó là: Hòa bình, hợp tác và phát triển. Cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ, nền kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hóa đang tạo điều kiện chưa từng có
cho các quốc gia xích lại gần nhau, tăng cường hội nhập phát huy lợi thế; xu hướng
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 16


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

dân chủ hóa đời sống xã hội, đời sống quốc tế đang tạo hành lang mở cho các chủ
thể, các quốc gia khẳng định vai trò, vị trí của mình.
Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ trong tình hình mới, chúng ta phải luôn
quán triệt sâu sắc phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề ra. Vận dụng “bất biến” tức là không vì quyền lợi hay lợi ích nhất thời,
cục bộ của tổ chức, các nhân nào đó mà bất chấp nguyên tắc, làm tổn hại đến lợi
ích của quốc gia, dân tộc, của tập thể. Phải tuyệt đối đặt lợi ích của quốc gia, dân

tộc, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lên trên hết. Thực hiện phát huy nội lực
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế cũng phải luôn “ứng vạn biến”, biết phân tích,
dự đoán và mau lẹ chớp lấy thời cơ, năm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để
mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia, cộng đồng, góp phân đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng, sự
mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ chủ động hội nhập quốc
tế hiệu nay ở nước ta.
Chúng ta đã và còn phải chuẩn bị một cách đầy đủ nhất các yếu tố, những
điều kiện để tận dụng được thời cơ, vượt qua được thách thức, cụ thể là:
Về nhận thức và tư tưởng: Phát huy long yêu nước, ý thức tự tôn tự trọng
của dân tộc để không cam chịu đói nghèo và lạc hậu, để đem sức ta mà xóa nghèo
đo lên làm giàu, không ai làm thay cho chúng ta cả.
Về tổ chức, con người và nguồn lực: Tất cả các yếu tố cần phải được chuẩn
bị một cách kỹ lưỡng, nhất quán và được tập hợp trong một “thế trận” thống nhất
hướng vào mục tiêu chung: Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại đến năm 2020.
Chủ động tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới:
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nắm vững nhiệm vụ
trọng tâm là phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng đòi hỏi tất yếu
để quá trình chuẩn bị cho việc tận dụng thời cơ cũng là quá trình hành động để biến
thời cơ thành hiện thực.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng được xây
dựng và chỉnh đố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thể hiện trong trình
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 17


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên


SVTH: Nhóm 2

độ tư duy lý luận, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan để đề ra cương kĩnh,
đường lối thích hợp, tăng cường sức mạnh tổ chức, kỷ luật và năng lực tổ chứ thực
tiễn.
3.2.2. Kết quả của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam
từ năm 1986 đến nay
Chưa bao giờ thế và lực của đất nước lớn mạnh và có điều kiện phát tiển
nhanh như hiện nay. Là kết quả của sự phát triển qua nhiều thời kỳ, đặc biệt là
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 25 năm đổ mới đã tạo nên thế và lực
mới cho đất nước. Chế độ chính trị, xã hội ổn định, sức mạnh quốc phòng an ninh
được tăng cường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển, tăng
trưởng khá. Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 7.3%, GDP liên tục tăng
(năm 2011 khoảng 100 tỉ USD), thu nhập bình quân đầu người năm 2009 đạt trên
1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp. Lạm phát
được kiểm soát và đầy lùi.Xuất khểu 6 triệu tấn gạo. tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 là
15.5%, năm 2007 là 14.8%, năm 2008 là 13.1% và năm 2009 còn 12.4%.
Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một cạo. Việt Nam là thành viên
của Liên Hợp Quốc, của hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tổ chức thương
mại thế giới (WTO)…, Những bước tiến thần kỳ của đát nước thời kỳ đổi mới có
một phần là do Đảng ta nắm vững và vận dụng bài học thời cơ trong cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
3.3. Những thách thức của Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc
tế
Tuy đất nước đã đạt được nhiều thành tựu mới trong quá trình chủ động hội
nhập vào nền kinh tế thế giới những năm vừa qua nhưng chúng ta vẫn đnag phải
đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, tình trạng mất công bằng
xã hội, lạm phát, thất nghiệp gia tăng, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm

trọng…nguy cơ chệch địch hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, các thế lực thù
địch đang ngày đêm ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ để chống phá cách mạng nước ta.
Vì vậy, đòi hỏi cao nhất đối với Đảng, Nhà nước ta, đối với mỗi tổ chức Đảng,
mỗi cán bộ, Đảng viên là tích cực nghiên cứu, vận dụng tốt những bài học lịch sử
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 18


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

trong cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay.

KẾT LUẬN
Dân tộc Việt Nam đã viết lên nhiều trang sử vẻ vang với những chiến công
chống giặc xâm lược và chống ách thống trị của giặc ngoại xâm, trong cách mạng
tháng Tám năm 1945 là một trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất, đánh dấu bước
ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Sự thành công của cách mạng tháng Tám là sự
kết tinh những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc anh hung, bất khuất có lịch sử
hàng nghìn năm chống giặc phong kiến và ngót một trăm năm chống ách thống trị
của bọn đế quốc thực dân. Đó cũng là kết quả của 15 năm đấu tranh(1930-1945)
của giai cấp công nhân và toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Tưởng nhớ đến người, sau hơn 41 năm
thực hiện di chúc thiêng liên của người, chúng ta nguyện, cho dù khó khăn do
khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động đến nền kinh tế nước ta, nhưng toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta chung sức, chung lòng biết tranh thủ thời cơ, tận dụng những

yếu tố thuận lợi, những thời cơ này nảy sinh ra từ cuộc khủng hoảng. Và sau hơn
20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức, nguy cơ, đồng thời cũng tận dụng được những cơ hội, những
nhân tố thuận lợi để thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới, từng bước đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hôi, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, giữ vững con đường mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của mỗi công
dân Việt Nam đã thừa hưởng những thành tựu trong lịch sử, ta phải phát triển đất
nước xã hội công bằng dân chủ văn minh, tiến gần hơn các nước thế giới , sánh vai
với các cường quốc năm châu.

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 19


GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Nhóm 2

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sant Việt Nam, nhà

2.
3.
4.

xuất bản chính trị quốc gia.



/>MỤC LỤC

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Page 20



×