Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Câu hỏi ôn THi triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.31 KB, 14 trang )

ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC
Câu 1: Lênin đã chỉ rõ “ Muốn thức sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.
1-Hãy làm rõ cơ sở lý luận và nội dung quan điểm trên.(5Đ)
2-Hãy cho biết việc vận dụng nội dung của luận điểm nói trên trong thực tiễn địa
phương hoặc đơn vị đồng chí công tác. (5Đ))

Trả lời:
* Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của quan điểm này là nội dung của nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật.
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến là chỉ sự ràng buộc, tác động lẫn nhau quy định và chuyển hóa
lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật hiện tượng
với nhau.
Các mối liên hệ không chỉ mang tính chất phổ biến mà còn mang tính đa dạng.
Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau.Vậy
giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời
nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm liên hệ phổ biến là liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng của toàn bộ thế giới khách quan (bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tinh thần). Theo nó, trong
thế giới không có sự vật nào tồn tại độc lập, tách rời, không liên hệ với các sự vật khác, trái lại
chúng đều liên hệ với nhau theo một phương thức nào đó và tạo những hệ thống chằng chịt của thế
giới. Liên hệ không chỉ giữa các sự vật với nhau mà còn có các yếu tố, các mặt bên trong của sự
vật, giữa các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật.
Trong các mối liên hệ, có thể phân ra một số loại như sau:
- Liên hệ bên trong và bên ngoài: Liên hệ bên trong là liên hệ giữa các yếu tố, các
mặt bên trong của sự vật còn liên hệ bên ngoài là giữa các sự vật với nhau. Liên hệ bên trong quy
định sự tồn tại và phát triển của sự vật, liên hệ bên ngoài tác động thông qua liên hệ bên trong.Mối
liên hệ bên trong, bên ngoài chỉ có tính tương đối.
- Liên hệ cơ bản và không cơ bản: Liên hệ cơ bản là mối liên hệ giữa các mặt, các
yếu tố cơ bản của sự vật. Liên hệ không cơ bản là mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố không cơ


bản của sự vật. Liên hệ cơ bản quyết định sự phát triển của sự vật còn liên hệ không cơ bản phụ
thuộc vào liên hệ cơ bản. Sự phân biệt chúng chỉ mang tính tương đối.
- Liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu: Liên hệ chủ yếu là liên hệ nổi lên ở một thời
điểm nhất định trong sự phát triển của sự vật và quyết định sự phát triển của sự vật tại thời điểm
đó, còn liên hệ thứ yếu là liên hệ không quyết định sự phát triển của sự vật ở thời điểm nói trên.
Hai mối liên hệ này có thể chuyển hóa lẫn nhau.
- Liên hệ gián tiếp và liên hệ trực tiếp: Liên hệ gián tiếp là liên hệ được xác lập qua
khâu trung gian nào đó, còn liên hệ trực tiếp là liên hệ được xác lập không qua khâu trung gian. Sự
phân biệt này chỉ mang tính tương đối.


Những mối liên hệ khác nau của sự vật có nội dung và vai trò khác nhau trong sự tồn tại và
phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Cần xuất phát từ tính khách
quan của mối liên hệ để nhận thức và vận dụng nó. Cần phải có quan điểm toàn diện trong việc
nhận thức và tác động lên sự vật. Nghĩa là khi nhận thức và vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, phải đặt sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ khách quan vốn có của nó để nghiên cứu và
tác động lên chúng. Cần phải phân loại các mối liên hệ để thấy được nội dung, vị trí và vai trò của
mối liên hệ trong việc phát triển của sự vật.
* Quan điểm toàn diện:
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa
dạng, do đó muốn nhận thức đúng và từ đó có phương pháp tác động có hiệu quả
vào mỗi sự vật phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét đầy đủ các mối liên hệ của sự vật đó với các sự
vật khác; liên hệ trực tiếp và cả mối liên hệ gián tiếp; đồng thời xem xét các mối liên hệ giữa các
yếu tố, thuộc tính bên trong của sự vật. V.I. Lênin viết: “ Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật
đó”. Quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể: phải nhận thức đầy đủ các mối liên hệ
của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải nhận thức được không gian, thời
gian, điều kiện cụ thể của sự vật tồn tại và xuất hiện các mối liên hệ, trên cơ sở đó mới nắm bắt

được xu hướng biến đổi của sự vật. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, là cách
xem xét từng mặt, từng mối liên hệ tách rời nhau, không thấy được mối liên hệ nhiều vẻ đa dạng
của sự vật. Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn, V.I. Lênin đã nêu lên tư tưởng
về sự kết hợp chặt chẽ giữa “Chính sách dàn đều ” và “Chính sách có trọng điểm” trong “chính
sách kinh tế mới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nêu lên quan điểm đổi mới
toàn diện và bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối chính sách đối nội,
đối ngoại. Đồng thời Đảng cũng tập trung vào nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục cuộc khủng
hoảng về kinh tế- xã hội, tạo tiền đề vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Nguyên lý phát triển: Nội dung nguyên lý trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển thống nhất hữu cơ với nhau, bởi vì các sự vật tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến, nhờ có liên hệ mới có tác động qua lại và gây ra sự biến đổi- tức là vận
động, mà nếu không có vận động thì không có sự phát triển, tuy nhiên, “vận động ” và “ phát triển
” là hai khái niệm khác nhau. Vận động là mọi biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng, kết
quả của những biến đổi. Phát triển không khái quát mọi vận động mà chỉ khái quát những sự vận
động đi lên, làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Phát triển là phạm trù
triết học khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện. Như vậy, sự phát triển là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về
kết cấu phức tạp của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định mới cao hơn về chất. Phép biện
chứng duy vật khẳng định sự phát triển, đổi mới là quá trình diễn ra không ngừng trong tự nhiên,
trong xã hội và trong tư duy của con người. Trong giới hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng
cường khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và
hoàn thiện chính mình, ở khả năng hoàn thiện về trao đổi vật chất giữa cơ thể với môi trường.
Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên và xã hội theo quy
luật, thông qua hoạt động thực tiễn của con người, hướng tới sự nghiệp giải phóng con người.
Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn về tự
nhiên và xã hội và nhận thức chính bản thân con người.


Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động ,Lênin đã chỉ

ra trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động .Không gian và thời gian tồn tại khách
quan ,nó không phải bất biến ,không thể đứng ngoài vật chất ,không có không gian trống rỗng ,mà
nó có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động .
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường vì khái niệm vật
chất là khái niệm rộng nhất.Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất với ý thức ,hiểu vật
chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập với
cảm giác ,ý thức, còn cảm giác ,ý thức phụ thuộc vào vật chất ,phản ánh khách quan.
Dựa vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật
Nhận thức thông thường (hay nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được hình thành một
cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng
xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy,
nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế
hàng ngày. Vì thế, nó thường xuyên chi phối hoạt động của con người trong xã hội. Thế nhưng,
nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở bề ngoài, ngẫu nhiên tự nó không thể chuyển
thành nhận thức khoa học được

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự
phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật. Nhận thức khoa học vừa có tính
khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận
dụng một cách hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và
thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận
thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa
học

công
nghệ.
Hai loại nhận thức này cũng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhận thức thông thường
có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Ngược
lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm
nhập và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình

nhận thức thế giới của con người


Câu 2: Chủ tịch HCM đã từng chỉ rõ “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn mà không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng; lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
1. Phân tích để làm rõ quan điểm trên từ đó rút ra quan điểm thực tiễn.
2. Vận dụng quan điểm đó trong thực tiễn ở địa phương, cở sở.
Trả lời:
1.

Phân tích để làm rõ quan điểm:

Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bật của xã hội loài người có sự
đóng góp của lý luận đích thực. Lý luận lại có nguồn gốc, cơ sở động lực từ thực tiễn, chính thực
tiễn đặt ra vô vàn những vấn đề mà lý luận phải giải đáp và chỉ trên cơ sở đó lý luận mới thực sự
giữ vai trò dẫn đường, lý luận phải đi trước một bước. Việc phân tích tìm hiểu mối liên hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận dụng đúng đắn quan điểm
đó trong hoạt động thực tiễn là rất cần thiết đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay cũng như
tránh được những sai lầm của bệnh kinh nghiệm, giáo điều chủ nghĩa - Chủ tịch Hồ Chí Minh có
viết : “Thống nhất giữa lý luận và thực tiển là một nguyên tắc căn bản cuả chủ nghiã MácLênin. Thực tiển không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiển mù quán, lý luận mà không
liên hệ với thực tiển là lý luận suông”. (HCM tt, NXB:CTQG 1996, t8, tr 496).
Để giải quyết vấn đề trên cơ sở triết học Mácxít, chúng ta cùng tìm hiểu khái niệm: thực tiển,
lý luận cùng các mối quan hệ biện chứng giửa chúng.
Thực tiễn - theo quan điểm triết học duy vật biện chứng - là toàn bộ hoạt động vật chất có
mục đích mang tính lịch sử XH của con người làm biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội. Bản chất
của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể, là con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của
mình. Thực tiễn cũng có quá trình vận động, phát triển, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên quá
trình chinh phục tự nhiên, làm chủ xã hội của con người. Thực tiễn mang tính lịch sử xã hội bởi nó

phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động thực tiễn có thể chia làm 3 hình thức cơ bản : hoạt
động SX vật chất, hoạt động biến đổi chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Ttrong
đó, hoạt động SX vật chất là hoạt động có ý nghĩa quyết định các hình thức khác, hoạt động biến
đổi chính trị xã hội là hình thức cao nhất và hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt
nhằm thu nhận những tri thức về hiện thực khách quan.
Lý luận xuất phát từ hoạt động nhận thức của con người, nó là sản phẩm của sự phát triển
cao của nhận thức đồng thời thể hiện trình độ cao của nhận thức. Xét về mặt bản chất, lý luận là
một hệ thống tri thức chặt chẻ mang tính trừu tượng, khái quát , đúc kết từ thực tiễn thông qua các
khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật ... phản ánh bản chất và xu hướng vận động phát triển của
sự vật, hiện tượng trong thết giới khách. Vì vậy, bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người,
sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy lại trong quá trình lịch sử của con
người.” .
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Trong
mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là
sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ :
chính thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý luận; nó


cung cấp chất liệu phong phú sinh động để hình thành lý luận và thông qua hoạt động thực tiễn, lý
luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực. Lý luận mặc dù
được hình thành từ thực tiễn nhưng nó có vai trò tác động trở lại đối với thực tiễn. Sự tác động của
lý luận thể hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận là
kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động
thực tiễn có hiệu quả hơn. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong thực tiễn cách mạng. Lênin
viết “không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Như vậy, giữa lý luận
và thực tiễn có sự liên hệ, tác động qua lại, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và gắn bó hữu
cơ với nhau do đó sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cao nhất của triết học Mác
Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng”, “Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông”

* Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được quan điểm thực
tiễn.
Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực tiễn, phải theo
sát sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển của thực
tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết luận của nhận thức, kiểm tra những luận điểm
của lý luận. Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự vật phải được
hình thành, bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ không phải
bằng con đường suy diễn thuần túy, không phải bằng con đường tự biện. Do thực tiễn luôn vận
động và phát triển nên phải thường xuyên ổng kết quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn, xem nó
thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp.
Nắm vững quan điểm thực tiễn có ý nghĩa trong việc góp phần hạn chế bệnh giáo điều và
bệnh chủ quan duy ý chí trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn.
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận, kinh nghiệm chính là cơ sở
để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn cứ để chúng ta không ngừng xem xét lại
bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri thức lý luận hình thành tổng kết khái quát kinh nghiệm
nhưng lại phải thông qua tư duy trừu tượng của cá nhân nhà lý luận cho nên nó cũng chứa đựng
khả năng không chính xác xa rời thực tiễn. Vì vậy trí thức lý luận phải được thể nghiệm trong thực
tiễn để khẳng định, bổ sung sửa đổi hoàn thiện. Mặt khác lý luận một khi đã được hình thành nói
không phải thụ động, mà có vai trò độc lập tương đối của nó. Lý luận tác động trở lại đối với thực
tiễn hướng dẫn chỉ đạo hoạt động thực tiễn, dự báo dự đón tình hình và phương hướng hoạt động
thực tiễn trong tương lai …
Chúng ta coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn kinh nghiệm quý
báu đó. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, chỉ dựa vào những hiểu biết ở trình độ
kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa
kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận vươn
lên để nắm lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận … thì rất dễ mắc bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa.


Câu 3: Theo Mac: Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ mà trái lại,

tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
1. Đồng chí hãy làm rõ nội dung trên đây.
2. Vận dụng để phân tích phương hướng xây dựng ý thức mới XHCN ở nước ta hiện nay,
liên hệ thực tế.
Trả lời:
1. Muốn làm rõ nội dung trên, chúng ta cần phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội:
* Nếu như cách giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại là tiêu chuẩn để xác
định lập trường triết học là duy tâm hay duy vật, là khả tri hay bất khả tri, thì đối với lịch sử xã hội,
mối quan hệ giữa TTXH và YTXH cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học duy vật về lịch sử.
Triết học trước Mác, các học thuyết triết học hoặc không đánh giá đúng vị trí của vấn đề này hoặc
trả lời nó theo lập trường của chủ nghĩa quy tâm. Chỉ đến C.Mác và Ph. Ăngghen, một cuộc cách
mạng trong tư tưởng triết học mới được thực hiện. Các ông đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên
triệt để bằng việc làm sáng tỏ nguyên lý TTXH là tính thứ nhất, YTXH là tính thứ hai, TTXH
quyết định YTXH, mặt khác, YTXH cũng có tính độc lập tương đối của nó. Với việc vạch ra phạm
trù TTXH, các ông đã xem xã hội như một hình thái phát triển cao nhất của vật chất, do vậy, đã
đem lại tiêu chuẩn khách quan cho việc xem xét các hình thái YTXH.
* Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội.
Trong các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương thức sản xuất là nhân tố cơ bản vì nó
có ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý thức xã hội và nó làm thay đổi ý nghĩa của hoàn
cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự phát triển của xã hội.
* Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng,
cùng những tình cảm, tâm trạng… nảy sinh từ TTXH và phản ảnh TTXH trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.
YTXH là một hiện tượng phức tạp, tùy theo góc độ xem xét, người ta có thể phân YTXH
thành: ý thức thông thường và ý thức lý luận; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
* Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng: đời sống tinh thần của xã hội hình thành và
phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội

trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong chính hiện
thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không giải thích được nếu chỉ căn cứ
vào ý thức thời đại đó. C.Mác viết: “Không thể nhân định được về một thời đại đảo lộn như thế,
căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của
đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ
sản xuất ấy”
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã
hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Nghĩa là tồn tại xã hội quyết định nội
dung phản ánh của ý thức xã hội: nó quyết định ý thức xã hội ở sự nghèo nàn, phong phú hay đơn
điệu trong nội dung phản ánh. Tồn tại xã hội cũng quyết định tính chất cách mạng hay phản ánh


cách mạng, đối kháng hay không đối kháng trong ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là
phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị
pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuật… sớm hay muộn cũng thay đổi theo. Cho nên,
chúng ta thấy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác
nhau thì đó chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Điều đó
chứng tỏ: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ”.
Triết học Mác Lênin với quan điểm về nguồn gốc ý thức không chỉ dừng lại ở chỗ xác định
sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội mà còn chỉ ra rằng: tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, không phải một cách đơn giản, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian.
Không phải bất cứ tư tưởng quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng
và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, chỉ khi nào xét đến cùng thì mới thấy rõ những mối
quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là
phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết học Mác Lênin không xem ý thức xã hội
như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại còn nhấn mạnh sự tác động tích cực trở lại của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn
tại xã hội.

* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Tính “thường lạc hậu” của ý thức xã hội nên hiểu theo nghĩa: ý thức xã hội thường ra đời
sau khi tồn tại xã hội đã ra đời và thường mất đi sau khi tồn tại xã hội đã mất đi.
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu, nhưng ý thức xã
hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của ý thức xã hội thể hiện rõ nhất trong
lĩnh vực tâm lý xã hội: trong truyền thống tập quán, thói quen… V.I. Lênin cho rằng sức mạnh tập
quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất. Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã
hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có
nguyên nhân sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười
lao động, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân… Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách
dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư
tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch về mặt
tư tưởng. Đồng thời kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ kết hợp với phát huy những truyền
thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thì
đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có
thể dự báo được tương lai, có tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người, hướng
hoạt động của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của đời sống vật
chất tạo ra.
Sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa Mác Lênin là một minh chứng. Chủ nghĩa Mác Lênin là
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ
XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ nghĩa tư


bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa
cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Triết học Mác Lênin khẳng định tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội không có

nghĩa nói rằng trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư
tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh sâu sắc tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình vì kế thừa là qui luật chung của
các sự vật, hiện tượng nên trong quá trình vận động của ý thức xã hội nó cũng phải có tính kế thừa.
Mặt khác, sự tồn tại, phát triển của ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội cũng
có tính kế thừa, nó vận động liên tục nên ý thức xã hội cũng phản ánh quá trình đó, nó có tính kế
thừa.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm lý luận của
mỗi thời đại không nảy sinh trên mặt đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những
thành tựu lý luận của các thời đại trước. Ví dụ, chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa tinh hoa tư tưởng của
loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, nền kinh tế chính trị học
cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính giai cấp của nó. Những
giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp
tiên tiến kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
Chính vì thế, nên khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức xã hội thì không
những phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động
trong điều kiện hiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của nó trong lịch sử.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện nữa của tính độc
lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội. Sự tác động qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có những mặt, những tính chất không thể giải thích
được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất. Lịch sử phát triển của
ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những
hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến cách hình thái ý thức khác.
Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu thời
trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như triết học,
nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng
vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.

Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị có vai trò đặc
biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều
hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Ph. Ăng ghen đã khẳng định “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật…đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng
lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.” Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển
của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng vào mức độ phản
ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội, vào mức độ thâm nhập của tư


tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư
tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
Như vậy, nguyên lý của triết học Mác - Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội
nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Đây cũng là cơ sở lý luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc
kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, và con người mới trong thời kỳ quá độ đi
lên CNXH.
Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã
hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả
hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản
nhất để thay đổi ý thức xã hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn
tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược
lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra
những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích

cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn
hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần
của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông
truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa
tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần
phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở
thế giới quan Mác xít. Người nhấn mạnh: “Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp qui luật của
tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Nắm vững nguyên lý về tính kế thừa của ý thức xã
hội có một ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa,
tư tưởng. Trong kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển
văn hóa dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.”
Từ những luận chứng nêu trên, chúng ta thấy Mac đã đúng khi cho rằng: Không phải ý thức
của con người quyết định sự tồn tại của họ mà trái lại, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Câu 4: Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghãi XH bổ sung,
phát triển năm 2011, Đảng ta chỉ rõ: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ


thục tế, tôn trọng quy luật khách quan…” . Anh/chị hãy làm rõ cơ sở lý luận của quan điểm
trên.
Từ cơ sở lý luận trên, anh/chị hãy nêu nội dung quan điểm khách quan, liên hệ với thực
tế.
Trả lời:

* Cơ sở lý luận của quan điểm trên:

Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình, nhưng con người
không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới
đó theo những yêu cầu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người phải hiểu thế giới xung quanh
cũng như về chính bản thân con người. Thế giới quanh ta là gì? Nó bắt đầu từ đâu và có kết thúc
hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì, nó được sinh ra
như thế nào, quan hệ của nó với bên ngoài ra sao? Nó có thể biết gì và làm gì với thế giới đó? Vì
sao có người tốt kẻ xấu? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì, chết là còn hay hết, nếu hết thì
sao và nếu cồn thì ở đâu?... Những câu hỏi như vậy luôn được đặt ra ở mức độ khác nhau đối với
con người từ thời nguyên thủy cho đến ngày nay và cả mai sau. Như vậy, sự khách quan cũng
mang trong nó sự tồn tại thích nghi giữa tự nhiên, xã hội, không gian và thời gian. Đặc tính của tư
duy con người là muồn biết tận cùng, hoàn toàn đầy đủ, nhưng tri thức mà con người và cả loài
người có được luôn có hạn, trong khi thế giới thì vô hạn. Phải chăng đó là mấu chốt của sự tranh
luận mãi mà không đi đến nhất quán, buộc con người phải tin vào một cái gì đó, vật chất hay tinh
thần? Quá trình tìm tòi giải đáp những câu hỏi như trên đã hình thành ở con người – những quan
niệm nhất định, trong đó những yếu tố về đức tin, niềm vui, cảm xúc, trí tuệ, tri thức… hòa quyện
với nhau trong một khổi thống nhất. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan,
song, tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể
nghiệm lâu dài trong cuộc sống của nó. Sự hình thành đức tin là do mơ ước về một cội nguồn, còn
sự hình thành lý tưởng là trình độ phát triển cao của trí tuệ nhìn nhận về thế giới quan. Toàn bộ
những quan niệm về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân.'và cuộc
sống (sống và chết) của con người và loài người hợp thành thế giới quan của một con người, một
cộng đồng người trong mỗi thời đại nhất định. Như vậy, thế giới quan bao hàm nguồn gốc con
người, mối quan hệ của con người, tức là nhân sinh quan và toàn bộ những quan niệm về cuộc
sống của con người, loài người sinh ra con người.
1. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách qua từng thời kỳ. Đặc biệt, trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình
trong nước và thế giới, khi hệ thống XHCN và các đảng cộng sản đang rơi vào tình trạng khủng
hoảng sâu sắc, toàn diện, việc đề ra đường lối đổi mới là yêu cầu rất bức thiết đối với cách mạng,
quyết định sự sống còn của Đảng, đến thắng lợi cách mạng Việt Nam. Một trong những vận dụng

cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng
bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI là nguyên tắc khách quan - một nguyên tắc được rút ra từ mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã viết: “Đảng phải
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và
hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Việc


tìm hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để vận dụng đúng đắn
quy luật này vào thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết đối với Đảng viên.
2. Quan điểm của Đảng ta về “Đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thục tế,
tôn trọng quy luật khách quan…” có cơ sở lý luận từ việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức. Theo đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo nguyên tắc:
2.1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.1.1. Vật chất luôn luôn quyết định ý thức
Sự quyết định này được thể hiện ở chỗ: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất
là nguồn gốc của ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Chúng ta đều biết, ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
chất thì con người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của
thế giới vật chất. Đó là nguyên nhân vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đề, hoặc là chính bản
thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất. Cho nên vật chất là nguồn gốc của ý
thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội
dung mà ý thức phản ánh được quyết định bới vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình
thức biểu hiện của ý thức… đều bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội, môi trường sống
quyết định.
2.1.2. Ý thức có sự tác động tích cực trở lại vật chất
Sở dĩ có sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất là do sự tồn tại của ý thức có tính độc
lập tương đối so với vật chất.

Nói đến ý thức là nói đến ý thức của con người cho nên sự tác động của ý thức đối với vật
chất cũng chính là sự tác động của con người đối với thế giới khách quan.
Bản thân ý thức tự nó không thể tác động đến vật chất. Sự tác động của ý thức đến vật chất
phải thông qua những hoạt động thực tiễn của con người. Cho nên bản thân ý thức thể hiện sự tác
động đến vật chất là thực hiện sự chỉ đạo mọi hoạt động của con người; trang bị cho con người
những tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở đó con người xác định được mục tiêu, đề ra
phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện… để
thực hiện mục tiêu của mình.
Sự tác động tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực,
có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan và con người thực hiện
được sự cải tạo thế giới khách quan; ngược lại, nếu nhận thức của con người không phù hợp với
quy luật khách quan của thế giới thì khi con người hành động sẽ đi ngược lại các quy luật khách
quan và những hành động đó có tác dụng tiêu cực đến thế giới.
Từ mối quan hệ này, quan điểm duy vật biện chứng đã chỉ ra nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người là: phải xuất phát
từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.


Câu 5: Tại sao nói quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự vận động và phát triển xã hội loài người ?
Đảng đã vận dụng quy luật này trong thời kỳ trước và sau đổi mới như thế nào?
Trả lời:

Trước hết, húng ta cần phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX:
Sự tồn tại của một phương thức sản xuất được quy định bởi sự thống nhất biện chứng giữa
LLSX ở trình độ phát triển nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Sự vận động phát triển của
phương thức sản xuất bị quy định bởi sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX. Như vậy qua
sự tác động biện chứng giữa QHSX và LLSX phù hợp sẽ hình thành một phương thức sản xuất

mới. Phương thức sản xuất chính là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loại người.
LLSX: Chính là năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật
chất (biểu hiện quan hệ giữa con người với quá trình chinh phục giới tự nhiên). LLSX là toàn bộ
các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. LLSX bao gồm các yếu tố
cơ bản thống nhất với nhau là người lao động với sức mạnh về thể lực và trí lực, kỹ năng lao động
cụ thể và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động và sau đó là phương tiện lao động.
+ Trong các yếu tố của LLSX thì nhân tố người lao động có vai trò quan trọng và quyết định
nhất, là chủ thể của quá trình hoạt động thực tiễn, không chỉ là người chế tạo ra mà còn là người sử
dụng và phát huy phẩm chất của TLSX, từ đó tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều, qua đó người
lao động còn phát triển về thể lực và trí lực lẫn kỹ năng lao động. Ngày nay trong thời đại cách
mạng khoa học công nghệ, vai trò của lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò quyết định trong sản
xuất.
+ Bên cạnh đó yếu tố công cụ lao động cũng có vai trò rất quan trọng trong LLSX, CCLĐ
không ngừng được cải tiến, biến đổi và hoàn thiện trong quá trình sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu
tăng năng suất lao động. Sự thay đổi của CCLĐ làm biến đổi toàn bộ TLSX, qua đó biến đổi toàn
bộ LLSX. Trình độ của CCLĐ chính là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là
tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử nhân loại.
+ Ngoài ra ngày nay vai trò của khoa học đối với sự phát triển của sản xuất và của xã hội
ngày càng trở nên quan trọng. KHCN đã thâm nhập sâu vào qúa trình sản xuất và trở thành “
LLSX trực tiếp”.
Như vậy: LLSX bao gồm trình độ (trình độ của CCLĐ; trình độ của người lao động) và tính
chất (tính cá nhân và tính xã hội). Sự thay đổi trình độ và tính chất của LLSX trong tiến trình phát
triển của xã hội). Kết hợp giữa người lao động (sức LĐ) với tư liệu SX. Thì người LĐ giữ vai trò
quyết định. LLSX chính là nội dung kinh tế kỹ thuật của quá trình sản xuất xã hội.
QHSX: là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất. Quan hệ
sản xuất bao gồm ba mặt là quan hệ sở hữu về TLSX, quan hệ trong tổ chức và quản lý quá trình
sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động làm ra. Ba quan hệ này thống nhất biện
chứng với nhau, trong đó: quan hệ sở hữu về TLSX giữ vai trò quyết định đối với quan hệ tổ chức
quản lý SX và quan hệ phân phối sản phẩm. QHSX là hình thức kinh tế xã hội của quá trình sản

xuất xã hội.
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX: Trong PTSX thì LLSX và QHSX tồn tại
gắn liền với nhau, thống nhất biện chứng với nhau, trong đó LLSX là nội dung còn QHSX là hình
thức. LLSX thì thường xuyên biến đổi, QHSX thì ổn định tương đối. Chính sự tác động biện
chứng giữa LLSX và QHSX trong một PTSX nhất định đã tạo nên quy luật cơ bản, phổ biến của


sự vận động phát triển của xã hội: Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX. Cụ thể như sau:
+ LLSX quyết định QHSX: Khi phương thức sản xuất mới ra đời, QHSX được xây dựng
phù hợp với trình độ phát triển hiện có của LLSX, tuy nhiên do LLSX không ngừng phát triển đến
trình độ nhất định, khi đó QHSX không còn phù hợp với LLSX. QHSX giờ đây đã trở thành
“Xiềng xích” kìm hãm, ngăn cản sự phát triển của LLSX. Do nhu cầu khách quan của sự phát triển
tất yếu dẫn tới sự thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển mới của
LLSX. Sự thay thế QHSX này cũng đồng nghĩa với việc thay thế phương thức sản xuất cũ bằng
một phương thức sản xuất mới. (Sự tương quan giữa LlSX và QHSX thay đổi: từ chổ phù hợp dẫn
đến bất phù hợp, dẫn đến mâu thuẫn, dẫn đến giải quyết mâu thuẫn)
Ngày nay, cuộc cách mạng kinh tế xảy ra xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng QHSX mới
phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX. Do người lao động thì không ngừng lao động sản
xuất, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra, yêu cầu trình độ phát triển của LLSX phải cao
hơn, khi đó QHSX cũ không còn phú hợp (mâu thuẫn), để giải quyết mâu thuẩn này phải thông
qua cuộc cách mạng kinh tế, dẫn tới mâu thuẩn giai cấp, cách mạng xã hội xảy ra (lượng đổi, chất
đổi). LLSX quyết định QHSX.
+ QHSX tác động đến LLSX: Do QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
LLSX, hơn nữa QHSX quy định mục đích của sản xuất, chi phối trực tiếp đến hoạt động và lợi ích
của người tham gia sản xuất, đến thái độ của người lao động, đến tổ chức và phân công lao động
xã hội,…nên nó có thể tác động đến sự phát triển của LLSX. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát
triển (tính chất) của LLSX thì nó thúc đẩy LLSX phát triển, ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của LLSX. Tuy nhiên sự kì hãm đó chỉ mang tính tạm thời, vì vai trò quyết định thuộc về
LLSX, vì vậy sự kìm hãm đó cũng sẽ bị xóa bỏ bằng cách thay thế bởi QHSX mới phù hợpvới

trình độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên quá trình thay thế này không diễn ra một cách đơn giản, tự
giác mà nó phụ thuộc vào năng lực tự giác của con người. Trong xã hội có giai cấp quá trình này
diễn ra thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Tại sao nói quy luật này là quy luật chung của sự vận động và phát triển của xã hội loài
người. Vì nó thông qua 3 quy luật cơ bản của xã hội loài người:
- Quy luật sự phù hợp giữa QHSX và LLSX (đã trình bày phía trên)
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
+ CSHT nào thì KTTT nấy: tất cả yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp, gián tiếp
phụ thuộc vào CSHT và do CSHT quy định; trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị;
giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó sẽ thống trị trong chính trị và vì vậy thống trị
trong toàn bộ kiến trúc thượng tầng.
+ CSHT thay đổi thì KTTT cũng thay đổi theo: Biến động, mâu thuẫn trong kinh tế, sớm
muộn cũng gây ra những biến động, mâu thuẩn trong chính trị.
+ CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thì KTTT cũ cũng sẽ mất đi để KTTT mới ra đời. Tuy
nhiên đây là một quá trình khó khăn, lâu dài, phức tạp (đấu tranh giữa cái mới và cái cũ,..)
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
+ Tồn tại xã hội quyết định nội dung, bản chất (YTXH chỉ là sự phản ánh của TTXH và
luôn phụ thuộc vào TTXH) nguồn gốc, nguyên nhân (mỗi khi TTXH (PTSX,…) biến đổi thì
YTXH sớm muộn sẽ biến đổi theo (các thời kỳ lịch sử khác nhau có những lý luận, quan điểm, tư
tưởng xã hội khác nhau), hình thức thể hiện của YTXH (YTXH tồn tại trong TTXH và thông qua
TTXH, vì vậy không có TTXH thì không có YTXH).
- TTXH quyết định vai trò, tác dụng của YTXH


YTXH chỉ có vai trò và tác dụng trong đời sống xã hội khi và chỉ khi nó thâm nhập được
vào TTXH và tác động thông qua TTXH (thông qua và nhờ vào hoạt động thực tiễn có ý thức của
con người).
Không đơn giản trực tiếp, phải thông qua các khâu trung gian, không phải bất cứ tư tưởng
(YTXH) nào cũng phản ánh rõ ràng, trực tiếp các quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét
đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ các mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách

khác trong các tư tưởng ấy. YTXH có tính độc lập tương đối, TTXH thay đổi rồi nhưng tư tưởng
tình cảm vẫn còn tồn tại day dẳng, vì YTXH phản ánh nên thay đổi sau.
Quy luật này là quy luật cơ bản nhất:
Ví nó tác động đến sự thay đổi của PTSX, tức là thay đổi kinh tế, mà kinh tế thay đổi sẽ
làm chính trị thay đổi, xã hội thay đổi, đời sống vật chất thay đổi, kéo theo đời sống tinh thần cũng
thay đổi. Các thời đại khác nhau là khác nhau ở phương thức sản xuất, muốn có thời đại mới tốt
đẹp hơn, cao cả hơn phải có phương thức sản xuất cao hơn, mang lại năng suất cao hơn.
Quy luật phổ biến nhất (chung):
Vì nó tác động từ khi loài người xuất hiện đến nay và mãi về sau. Phổ biến vì nó tác động
đến mọi hình thái kinh tế xã hội, bất cứ xã hội nào, quy luật này đều tác động đến nên gọi là phổ
biến, phổ biến vì lúc nào cũng có và nó chi phối những cái khác.



×