Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của liên minh châu âu và mối liên hệ của việt nam và EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.38 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang tăng cường mối liên hệ
hợp tác về nhiều mặt với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, từ đó làm
bước đệm cho nền kinh tế nước ta ngà càng phát triển bền vững hơn. Nhưng bên
cạnh đó không thể vắng bóng những thách thức đến từ hội nhập này, đặc biệt là
trên con đường tiến vào thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng như Liên minh
Châu Âu (EU).
Thiết lập mối quan hệ ngoại giao từ năm 1990, quan hệ song phương VN
– EU đã phát triển mạnh mẽ ở tất cả các cấp độ với việc phát triển đa dạng hóa
nhanh quy mô hợp tác song phương trên tất cả các lĩnh vực.
EU là nhà cung cấp viện trợ không hoàn lại hàng đầu cho Việt Nam và
tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực ưu tiên như phát triển con người, cải
cách kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
EU cũng là đối tác thương mại, thị trường xuất nhập khẩu rộng lớn,
nguồn cung cấp FDI quan trọng của Việt Nam.
Thông qua bài luận “ Quá trình hình thành và phát triển của Liên minh
Châu Âu và mối liên hệ của Việt Nam và EU”, chúng tôi muốn tái hiện lại quá
trình hình thành cũng như phát triển của EU, bên cạnh đó là bức tranh về thực
trạng cũng như định hướng phát triển cho mối quan hệ VN- EU trong giai đoạn
tiếp theo.

1


I.








QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN MINH CHÂU
ÂU (EU)
1. Giới thiệu chung
2. Quá trình hình thành
Hiện nay, chúng ta chỉ biết đến với một liên minh châu Âu hùng mạnh
với trên 50 năm tuổi, nhưng trong số chúng ta không mấy ai biết rằng từ thới
Saclơ đại đế thuộc đế chế La Mã (thế kỷ thứ VII sau công nguyên), ý tưởng về
một châu Âu thống nhất đã được hình thành.
Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành EU là bản tuyên bố Schuman của bộ
trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09/05/1990 với đề nghị đặt
toàn bộ nền sản xuất gang thép của công hòa liên bang Đứcvà Pháp dưới một cơ
quan quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác
cùng tham gia.
Sau đó, hiệp ước thành lập cộng đồng gang thép châu Âu (ECSC), một tổ
chức tiền than của châu Âu ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết
của các quốc gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiêu rộng cũng như
chiều sâu với đỉnh cao là liêm minh châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và cả
trong tương lai sẽ đạt tới một cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại hơn 50 năm hình
thành và phát triển của liên minh châu Âu, có thể thây quá trình này gắn với các
hiệp ước chủ yếu sau đây ( từ năm 1952 đến nay).
Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng than- thép châu Âu (ECSC) được ký
ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức. Italia, Bỉ, Hà Lan và
Luxembourg, nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính
là thép và than trên toàn lãnh thổ châu Âu. Hiệp ước này đã chứa ý đồ của các
nhà sáng lập ECSC là gây dựng nền tảng cho việc nhất thể hóa kinh tế châu
Âu.
Hiệp ước Rome thành lập cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu
(EURATOM) và cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/03/1957
với sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Mục đích thành lập EURATOM

là thống nhất quản lý ngành năng lượng nguyên tử của 6 nước thành viên;
trong khi đó EEC ra đời nhằm đáp ứng nha cầu tăng cường liên kết kinh tế
giữa 6 nước này, tạo ra một sức mạnh tổng hợp dưới hình thưc một thị
trường chung mà lao động hàng hóa được tự do di chuyển như một thị trường
nội địa.
Hiệp ước thành lập công đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1995 giữa
các nước của 3 nước cộng đồng này dưới tên gọi: cộng đồng châu Âu. Đây
là văn bản thể hiên mức độ nhất thể hóa nền kinh tế cao giữa các quốc gia
này thể hiện thành lập một thi trường thống nhất; trong đó ngoài việc hàng hóa,
lao động và việc vốn đầu tư, được tự do di chuyển và hang rào thuế quan và
thuế quan cũng được gỡ bỏ, hệ thống thuế quan và chính sách thương mại
chung thành lập, một số chính sách đối với các lĩnh vực kinh tế khác cũng
2








được thống nhất nhằm tăng cường sức cạnh tranh với các khối kinh tế bên
ngoài nhằm tiến tới một liên minh chặt chẽ về chính trị.
Hiệp ước Maastricht thành lập liên minh châu Âu được ký ngày 07/02/1992 tại
Maastricht- Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của các nguyên thủ quốc gia
các nước thành viên ( lúc này số thành viên của EC là 12 nước: Pháp,Đức,
Bỉ,Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan Mạch, Ailen, Hy Lap, Italia, Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha) nhằm thành lập một không gian châu Âu thống nhất về kinh
tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và các chính sách xã hội. Như vậy, EU đã
bổ sung các nội dung liên kêt mới mà các tổ chức tiền thân của nó chưa có, để

đạt được các mục tiêu hoàn thiện hơn như: duy trì bảo vệ hòa bình và thịnh
vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất về kinh tế vì lợi ích
chung của các dân tộc châu Âu.
Hiệp ước Amsterdam được ký kết vào ngày 02/10/1997 bởi các nguyên
thủ quốc gia của 15 nước thành viên ( năm 1995 EU đã kết nạp them 3 thành
viên nữa là: Thụy Điển, Phần Lan, Áo). Hiệp ước này được hình thành trên cơ
sở sữa đổi hiệp ước Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây
dựng một liên minh kinh tế- tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực.
Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề cải cách thể chế để
đón nhận các thành viên mới.
3. Vị thế của EU trong nền kinh tế thế giới

3


II. Mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và liên minh Châu Âu
1. Lịch sử hình thành và phát triển quan hệ Việt Nam – EU
1990: Việt Nam và Cộng đồng châu Âu chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao.
1992: Việt Nam và Cộng đồng châu Âu ký Hiệp định dệt may.
1995: Việt Nam và Cộng đồng châu Âu ký Hiệp định Khung Hợp tác
Việt Nam - EC.
1996: Ủy ban châu Âu thành lập Phái đoàn Đại diện thường trực tại Việt
Nam.
1997: Việt Nam tham gia Hiệp định hợp tác ASEAN – EU.
2003: Việt Nam và EU chính thức tiến hành đối thoại nhân quyền.
2004: Hội nghị Cấp cao Việt Nam - EU lần thứ I tại Hà Nội.
2005: Việt Nam thông qua Đề án tổng thể và Chương trình hành động
đến 2010 và định hướng tới 2015 về quan hệ Việt Nam - EU
2007: Tuyên bố chính thức khởi động đàm phán Hiệp định Đối tác và

Hợp tác toàn diện Việt Nam - EU (PCA).
2008: Đàm phán Hiệp định PCA Việt Nam - EU
2010: Ký tắt Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện (PCA) Việt Nam EU.
2012: Ký chính thức Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện(PCA) Việt
Nam - EU
2. Thực trạng quan hệ đầu tư và thương mại giữa Việt Nam và EU
2.1

Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ EU vào Việt Nam.

Trước khi gia nhập WTO
Phái đoàn Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam được thành lập và chính thức
hoạt động từ năm 1996. Từ đó tới nay, quan hệ VN – EU đã phát triển mạnh mẽ
2.1.1

4


trong mọi lĩnh vực và kể từ khi VN ban hành luật Đầu tư nước ngoài tháng
12/1987
Vốn đăng ký và số dự án
Đến hết tháng 08/2005, các nước EU có 466 dự án còn hiệu lực với tổng
số vốn đầu tư đăng ký gần 6.8 tỷ USD và vốn đầu tư thực hiện gần 3.8 tỷ USD.
Đã có 16 trong tổng số 25 quốc gia thành viên EU đầu tư vào VN, trong đó dẫn
đầu là Pháp với 150 dự án với tổng số vốn đầu tư là 2.12 tỷ USD; tiếp theo là
Hà Lan với 57 dự án với tổng số vốn đầu tư là 1.8 tỷ USD; Anh có 66 dự án với
1.2 tỷ USD...
Đầu tư theo ngành : Các nhà đầu tư EU có mặt trong hầu hết các ngành
kinh tế của VN, trong đó tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng với 260 dự án với tổng số vốn đầu tư là 4 tỷ USD, đặc biệt riêng dầu khí

đã có 7 dự án với tổng số vốn lên tới 1.35 tỷ USD. Trong đó lĩnh vực dịch vụ,
EU có 158 dự án với tổng số vốn đầu tư là 2.3 tỷ USD và trong lĩnh vực nông,
lâm nghiệp cs 48 dự án với tổng vốn đầu tư là 452.5 triệu USD có nguồn từ EU.
Lĩnh vực
Số dự án
Số vốn đầu tư
( tỷ USD)
Công nghiệp xây dựng
260
4
Dịch vụ
158
2.3
Nông – lâm nghiệp
48
0.4525





Nhận xét chung về FDI của EU vào VN trước khi VN tham gia WTO
Mặc dù các nước EU đã có số vốn đăng ký vào VN là 6.8 tỷ USD nhưng
với con số này vẫn là rất thấp so với tiềm năng của các nước EU cũng như nhu
cầu đầu tư của VN và điều đáng quan tâm là “ Đầu tư của châu Âu tại VN mang
tính chất thăm dò và giữ chỗ chứ chưa có kế hoạch dài hạn tại VN”.
Những nhà đầu tư tới từ EU này có một vài xu hướng khi đầu tư vào VN
như:
Quan tâm khai thác thị trường nội địa với hàng loạt các dự án thành công trong
ngành dầu khí như BP(Anh), Total ( Pháp), Shell(Anh- Hà Lan)... và các tập

đoàn hàng tiêu dùng và thực phẩm như Unilever( Hà Lan), Nestle( Thụy Sĩ...;
các tập đoàn siêu thị như Metro( Đức) và Bourbon( pháp)...
Chưa quan tâm tới xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ
Sau khi gia nhập WTO
Kể từ khi gia nhập WTO thì môi trường đầu tư tại Việt Nam đã từng bước
được cải thiện và chính điều đó đã giúp cho dòng FDI trên thế giới cũng như
EU và Việt Nam ngày càng có xu hướng gia tăng.
Vốn đăng ký và số dự án
Đến cuối năm 2013 đã có 23 nước trong tổng số 28 nước thuộc EU với
hơn 1800 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt trên 32,8 tỷ USD, vốn thực hiện đạt
13,101 tỷ USD.
2.1.2

5


Số vốn FDI cam kết của EU tại Việt Nam là 656 triệu USD, đứng thứ 6
trong danh sách các đối tác đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với 71 dự án mới
được đăng ký. Trên thực tế dòng chảy FDI từ EU vào Việt Nam có thể cao hơn
nhiều do đa số đầu tư được thực hiện thông qua các công ty đa quốc gia.
Các đối tác nổi bật khác bao gồm Hàn Quốc (3752 triệu đô la Mỹ),
ASEAN (3473 triệu đô la Mỹ), Trung Quốc (2276 đô la Mỹ) và Nhật Bản (1295
triệu đô la Mỹ).
Đầu tư theo ngành : Các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành
kinh tế quan trọng của Việt Nam nhưng tập trung nhiều nhất vào công nghiệp và
xây dựng (chiếm 50,1% số dự án và 50,6% tổng vốn đầu tư). Trong đó công
nghiệp nặng có 180 dự án với tổng vốn đầu tư gần 4,2 tỷ USD, tiếp theo là khai
thác dầu khí 19 dự án với 2,5 tỷ USD, và các ngành công nghiệp sản xuất (lên
tới 76,9% tổng vốn cam kết), tiếp đó là ngành sản xuất và cung cấp điện, khí
đốt, nước sạch (9,4%) và các ngành khác (13,7%). EU đầu tư vào lĩnh vực dịch

vụ khoảng 40% số dự án và 42% tổng vốn đầu tư.
Nhận xét chung về FDI của EU vào VN sau khi VN gia nhập WTO
Một tình hình tương tự xảy ra như ở giai đoạn trước là hoạt động đầu tư
vào VN của EU vẫn mang tính thăm dò và mở rộng thị trường. Và cũng không
có sự biến động lớn nào trong lĩnh vực đầu tư với sự duy trì ở mức cao đối với
ngành công nghiệp và xây dựng, tiếp theo là ngành dịch vụ và xếp cuối vẫn là
ngành nông lâm thủy sản.
Đối với Việt Nam thì EU là đối tác đầu tư chiến lược đứng trên quan
điểm thế mạnh về vốn và công nghệ, từ đó góp phần tạo ra một số ngành, sản
phẩm mới có hàm lượng khoa học và công nghệ cao. Tuy nhiên vẫn cần đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư từ châu Âu vào nước ta.
2.2 ODA của EU tại Việt Nam
Kể từ những năm 1990, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng liên tục trung
bình hàng năm là 6,5%-7% cho đến năm 2010. Huy động và sử dụng vốn ODA
trong những năm qua đã góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói
giảm nghèo trên cả nước. ODA đã được sử dụng để xây dựng năng lực thể chế,
chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và thành thị, nghiên
cứu và phát triển những việc khác. Với tư cách là một trong những nhà tài trợ
hàng đầu ở Việt Nam, EU đã cũng cấp tổng cộng 5.8 tủy euro theo cam kết từ
2007-2014 trong đó 41% là viện trợ không hoàn lại (2,4 tỷ euro ) và 59% là các
khoản vay(3.4 tỷ euro ).
Cam kết cho giai đoạn 2007-2014
Các cam kết tổng thể của EU về ODA cho Việt Nam giảm từ 720 triệu
euro vào năm 2007 xuống còn 542 triệu euro vào năm 2014, thê hiện mức giảm
25% trong giai đoạn 2007- 2014.
Việc giảm dần các khoản viện trợ không hoàn lại có thể được lý giải là
do vị thế thu nhập trung bình mà Việt Nam đạt được vào năm 2010, điều này

6



ngày càng có ảnh hưởng tới cách tiếp cận một số nhà tại trợ EU trong việc viện
trợ phát triển song phương cho Việt Nam.
Hình 1. Tiến trình cam kết viện trợ của EU tại Việt Nam

Giải ngân giai đoạn 2007- 2013
EU đã giải ngân 3,6 tỷ eeuro từ 2007-2013, trong đó 55%( tương được 2
tỷ euro) là viện trợ không hoàn lại và 45% (1,6 tỷ euro) dành cho các khoản vay.
Giải ngân ODA tổng thể của EU giai đoạn 2007-2013 giảm 17% trong đó viện
trợ không hoàn lại giảm 51% trong năm 2013 so với năm 2007 trong khi các
khoản vay ưu đãi ca tăng 73%. Mặc dù ODA song phương của EU đang dần
giảm xuống ở Việt Nam những vẫn có nhiều kênh khác mà qua đó Việt Nam có
thể hưởng lợi từ viện trợ nước ngoài, ví dụ như đóng góp trực tiếp của các nhà
tài trợ cho các tổ chức đa phương, các ngân hàng phát triển và các tổ chức quốc
tế khác.
Hình 2. Tiến trình giải ngân viện trợ của EU tại Việt Nam , 2007- 2013

Giải ngân của EU cho năm 2013
Tổng giải ngân của EU năm 2013 là 456 triệu euro trong đó 42%(191
triệu euro ) là viện trợ không hoàn lại và 58%(264 triệu euro) là cho vay.

7


Có 16 nước thành viên và phái đoàn EU đã cũng cấp ODA năm 2013.
Trông năm này, 5 nhà tài trợ không hoàn lại lớn nhất là Đan Mạch, Đức, Phái
đoàn EU, vương quốc Aanh và Bỉ. Tổng cộng các nước này đã giải ngân 119
triệu euro cho các chương trình và dự án hợp tác phát triển, chiếm 62% tổng
giải ngân viện trợ không hoàn lại
Hình 3. Giải ngân viện trợ không hoàn lại của EU tại Việt Nam năm 2013


Có 8 nước thành viên đã giải ngân ODA dưới hình thức khoản vay trong
năm 2013. Pháp là nước đi đầu với 53%(139 triệu euro) tổng các khoản vay
năm 2013. Ba nước giản ngân hàng đầu các khoản vay cho Việt Nam là Pháp,
Áo, Đức tổng cộng là 84% tương đương với 221,5 triệu euro.
Hình 4. Giải ngân khoảng vay của EU tại Việt Nam năm 2013

Cam kết năm 2014
Trong năm 2014, tỷ trọng các cam kết viện trợ không hoàn lại là 24%
( 130 triệu euro) trong khi tỷ trọng các khoản cho vay đạt 76% tương đương với
412 triệu euro.
Năm nhà tài trợ không hoàn lại hàng đầu là Đan mạch(30,5 triệu euro),
EDU ( phái đoàn Liên minh Châu Âu) ( 24 triệu euro), Hà Lan(15 triệu euro),
8


Bỉ ( 12 triệu euro) và Ai-len ( 11 triệu euro). Tổng cộng đạt mức 93 triệu euro
chiếm 71% tổng viện trợ không hoàn lại cam kết.
Đối với các khoản cho vay, Pháp và phái đoàn EU( EIB : ngân hàng đầu
tư Châu Âu) cam kết mức cao nhất cho năm 2014. Pháp cho vat 211 triệu euro
và Phái đoàn EU là 150 tiệu euro chiếm 88% tổng các khoản cho vay cam kết.
2.3 Quan hệ thương mại EU – Việt Nam

Thập kỉ qua đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ và nhất quán quan hệ
song phương về kinh tế và thương mại giữa Liên Minh Châu Âu (EU) và Việt
Nam. Nền kinh tế Việt Nam được hưởng lợi từ sự đóng góp đáng kể về vốn lẫn
chuyên môn từ châu Âu và các nhà đầu tư châu Âu. Việc này, cùng với thực tế
EU là thị trường trọng yếu cho hàng loạt mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam, đã biến EU trở thành đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của Việt Nam,
giúp Việt Nam hội nhập vào kinh tế toàn cầu

2.3.1 Chính sách thương mại giữa Việt Nam và EU.
 Thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP)

Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc ( MFN)
và EU cam kết dành cho hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập
GSP, gia hạn và tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Tuy
nhiên từ ngày 1/1/2009 liên hiệp châu Âu đã thông qua quyết định về việc hủy
bỏ quy chế hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập ( GSP) đối với mặt hàng giày dép
Việt Nam.
 Hiệp định PCA là khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới trong

Hiệp định PCA mới giữa EU và Việt Nam sẽ thay cho Hiệp định khung
về hợp tác kí năm 1995 đã hết hạn. Đây là hiệp định được xây dựng trên cơ sở
hai bên cùng có lợi, mở rộng hơn nhiều so với hiệp định khung năm 1995 bao
gồm lĩnh vực mới như nhập cư, chống tội phạm, ngăn ngừa vũ khí chết người…
Đối với Việt Nam, PCA là khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới trong quan
hệ với EU bỏ lại đằng sau mối quan hệ phụ thuộc để hướng tới mối quan hệ đối
tác bình đẳng hơn.
 Hiệp định thương mại tự do.

9


Trong những năm gần đây, Việt Nam đã liên tục tham gia các cuộc đàm
phán với các đối tác thương mại và đầu tư trong một loạt các hiệp định thương
mại tự do (FTA). Mặc dù hiện nay mới chỉ có các FTA với khối ASEAN hay các
đối tác tại khu vực Đông Nam Á đang có hiệu lực thi hành, nhưng Việt Nam
vẫn chủ động tìm kiếm các cơ hội đàm phán các FTA với cả các đối tác thương
mại chiến lược ngoài khu vực Đông Nam Á, như Hoa Kỳ, Chi-lê và cả EU.
Trong đó, đàm phán FTA với EU là một trong những ưu tiên hàng đầu của

Chính phủ.
2.3.2 Quan hệ thương mại Việt Nam - EU
 Xuất nhập khẩu:

Số liệu thống kê sơ bộ cho thấy, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam
và EU28 tháng 8/2014 ước đạt 2,935 tỷ USD, giảm 6,7% so với tháng 7/2014 và
giảm 4,2% so với tháng 8/2013. Tính chung 8 tháng năm nay, tổng kim ngạch buôn
bán hai chiều giữa Việt Nam và khu vực EU ước đạt 23,485 tỷ USD, tăng 5,9% so
với cùng kỳ năm 2013.
Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang khu vực EU28
trong tháng 8/2014 ước đạt 2,222 tỷ USD, giảm 6,5% so với tháng trước nhưng
tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2013, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu 8 tháng ước
đạt 17,778 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2013. Kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa từ khối EU28 về thị trường Việt Nam tháng 8/2014 ước đạt 713,4 triệu
USD, giảm 7,3% so với tháng trước và giảm 22,7% so với cùng kỳ năm 2013,
nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 8 tháng ước đạt 5,707 tỷ USD, giảm 9,8% so với
cùng kỳ năm 2013.
 Xuất khẩu.

EU là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam sau Trung Quốc . Sáu
tháng đầu năm 2014, EU đã vươn lên vị trí dẫn đầu thị trường xuất khẩu của
Việt Nam với tổng kim ngạch ước tính đạt 13,1 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng
kỳ năm 2013, chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Năm 2013, thương mại song phương của Việt Nam và EU tiếp tục tăng cao
so với các năm trước. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU đạt 24,4 tỉ đô
la Mĩ, tăng 24,4 % so với năm trước đó. Xuất siêu của Việt Nam sang EU đã
đóng góp tích cực và to lớn giúp Việt Nam đạt thặng dư thương mại toàn cầu
sau hơn hai thập kỉ thâm hụt thương mại liên tiếp. Năm 2013, Việt Nam đã đạt
mức thặng dư thương mại kỉ lục là 15,2 tỉ đô la Mĩ với EU, tương đương 17 lần
mức thặng dư thương mại toàn cầu của Việt Nam là 0,9 đô la Mĩ.

10


Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được hưởng lợi từ Hệ Thống
ƯuĐãi Phổ Cập Chung (GSP) của EU, một nhân tố góp phần vào thành tích
xuất khẩu ấn tượng của Việt Nam những năm qua. Mục đích của GSP là nhằm
thúc đẩy xuất khẩu từ các nước đang phát triển vào khu vực thông qua hỗ trợ cắt
giảm thuế quan. Đặc biệt, vào tháng 10 năm 2012, EU đã công bố quy chế GSP
mới trong đó cho phép các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như giày
dép được hưởng mức thuế ưu đãi tốt hơn khi quy chế này có hiệu lực từ
1/1/2014.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ Việt Nam sang EU chiếm tới 75%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này vẫn là: Hải sản, dệt
may, cà phê, máy vi tính, ngoài ra còn có mặt hàng điện thoại và linh kiện điện
thoại.
Hình 5: thể hiện tỉ trọng của một vài loại hàng hóa xuất khẩu sang các
nước trong liên minh EU.

11


Trong năm 2013 và đầu năm 2014 nhóm hàng hải sản, dệt may, cà phê
vẫn xuất khẩu ở mức ổn định, nhóm hàng điện thoại và các linh kiện điện thoại
có xu hướng tăng trong khi đó nhóm hàng nhu yếu phẩm như sắt thép, đồ gỗ,
giày dép có xu hướng giảm rõ rệt. Đầu năm 3013, kim ngạch xuất khẩu nhóm
mặt hàng này sang EU chỉ đạt 457 triệu USD, giảm 24,9 % so với cùng kì năm
2012.
 Nhập khẩu

EU cũng là một trong những thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam. Từ

những năm 2014 – 2013, giá trị xuất khẩu hàng hóa từ EU sang Việt Nam liên
tục tăng.

12


Giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ EU năm 2013 đạt 8,79 tỷ USD, tăng
13,48%.
EU là thị trường mà Việt Nam nhập khẩu lớn thứ tư sau Trung Quốc, Hàn
Quốc và Nhật Bản, chiếm 7,7% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. So
với năm trước, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU tăng 13,3%, cao gấp
gần 1,9 lần tốc độ tăng tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, do tốc độ tăng xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu đối với
khu vực này (22,5% so với 13,3%), do tỷ trọng trong tổng số của xuất khẩu cao
hơn của nhập khẩu (17,7% so với 7,7%), nên trong quan hệ buôn bán với EU,
Việt Nam luôn giữ vị thế xuất siêu lớn.
Các mặt hàng nhập khẩu chính từ EU: Tháng 7/2014, kim ngạch nhập khẩu 3
mặt hàng chủ lực từ thị trường EU về Việt Nam tăng trưởng khả quan. Cụ thể, kim
ngạch nhập khẩu mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 32,3%
so với tháng trước và tăng 28,7% so với cùng kỳ năm 2013, đạt 255,3 triệu USD;
nâng tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này trong 7 tháng đạt 1.530,3 tỷ USD,
tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2013. Tương tự, kim ngạch nhập khẩu hai mặt
hàng dược phẩm và sản phẩm hóa chất trong tháng 7/2014 đạt lần lượt 93,6 triệu
USD và 39,5 triệu USD, tăng 13,5% và 9,2% so với tháng trước; tăng 27,1% và
7,5% so với cùng kỳ năm 2013; nâng tổng kim ngạch nhập khẩu hai mặt hàng
trong 7 tháng đạt 562,9 triệu USD và 243,8 triệu USD, tăng 10,5% và 22,5% so
với cùng kỳ năm 2013.
13



Đức là nước có giá trị xuất khẩu sang Việt nam nhiều nhất trong các nước
ở EU, đạt 340.058.887 USD (2014)
( hình minh họa)



Quan hệ xuất nhập khẩu với một số bạn hàng ở liên minh Châu Âu.

Việt Nam chủ yếu hoạt động thương mại với 8 nước ở EU là Đức, pháp,
Anh, Hà Lan, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ, Áo.
-

Thị trường nhập khẩu:

Đức, Ý và Pháp vẫn giữ vai trò là nhà cung cấp hàng hóa lớn cho thị trường
Việt Nam trong 8 tháng năm 2014. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ
thị trường lớn nhất Đức tiếp tục sụt giảm trong tháng 8/2014, ước đạt 201 triệu
USD, giảm 13,1% so với tháng trước và giảm 52,2% so với cùng kỳ năm 2013,
nâng tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị trường này về Việt Nam trong 8
tháng năm nay ước đạt 1,612 tỷ USD, giảm 14,2% so với cùng kỳ năm 2013 và
chiếm 28,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của toàn khối EU.
Ý là thị trường cung cấp hàng hóa lớn thứ 2 trong khối EU cho Việt Nam,
ước đạt 109,3 triệu USD trong tháng 8/2014, giảm 18,7% so với tháng trước
nhưng tăng 6% so với cùng kỳ năm 2013, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu hàng
hóa từ Ý trong 8 tháng năm nay ước đạt 874,3 triệu USD, tăng 8,2% so với
cùng kỳ năm 2013 và chiếm 15,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị trường Pháp trong tháng
8/2014 tăng khá mạnh, ước đạt 97 triệu USD, tăng 14,8% so với tháng trước và
tăng 25,2% so với cùng kỳ năm 2013; lũy kế 8 tháng năm nay ước đạt 776,1
triệu USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 13,6% tổng kim

ngạch nhập khẩu hàng hóa của khối EU.
Đặc biệt, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị trường Estonia bất ngờ tăng
đột biến, ước đạt 2,6 triệu USD, tăng tới 271,4% so với tháng trước và tăng
101% so với cùng kỳ năm 2013, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ
thị trường này trong 8 tháng năm nay ước đạt 20,6 triệu USD, tăng 98,3% so
với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu.
- Thị trường xuất khẩu
14


Trong 8 tháng qua, các thị trường Đức, Anh, Hà Lan, Ý, Pháp, Tây Ban
Nha, Áo và Bỉ tiếp tục là 8 thị trường có kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Việt
Nam đạt trên 1 tỷ USD. Tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang 8 thị trường
này trong 8 tháng năm nay ước đạt 15,516 tỷ USD, chiếm 87,3% trị giá xuất
khẩu của Việt Nam sang EU và tăng 12,2% so với 8 tháng năm 2013. Trong đó:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Đức tiếp tục dẫn đầu, ước đạt
412,4 triệu USD trong tháng 8/2014, giảm 13,6% so với tháng trước nhưng tăng
7% so với cùng kỳ năm 2013; lũy kế 8 tháng năm nay ước đạt 3,299 tỷ USD,
tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 18,6% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa trong toàn khối EU.
Đứng ở vị trí thứ 2 là thị trường Anh với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
tháng 8/2014 ước đạt 294,5 triệu USD, tăng 9,3% so với tháng trước và giảm
23,4% so với cùng kỳ năm 2013, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 8
tháng năm nay ước đạt 2,356 tỷ USD, giảm gần 5% so với cùng kỳ năm 2013 và
chiếm 13,3% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Hà Lan đứng ở vị trí thứ 3, ước đạt 290,2 triệu USD trong tháng 8/2014,
giảm mạnh 15,9% so với tháng trước nhưng tăng 4,4% so với cùng kỳ năm
2013, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 8 tháng năm nay ước đạt 2,322
tỷ USD, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 13,1% tổng kim ngạch
xuất khẩu.

Trong 8 tháng năm nay, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang những thị
trường lớn đều tăng trưởng rất khả quan so với 8 tháng năm 2013, cụ thể: Ý
tăng 20,6%, ước đạt 1,868 tỷ USD; Tây Ban Nha tăng 20,6%, ước đạt 1,717 tỷ
USD; Pháp tăng 11,3%, ước đạt 1,415 tỷ USD; Áo tăng 13,4%, ước đạt 1,319 tỷ
USD; Bỉ ước đạt 1,219 tỷ USD, tăng 40,4%

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT
NAM VÀ EU TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
1.

Định hướng trong mối quan hệ giữa Việt Nam –EU

Sự phát triển nhanh trong mối quan hệ VN_EU đặt ra nhu cầu xây dựng
khuôn khổ hợp tác mới, phản ánh được mối quan hệ đối tác đang phát triển
mạnh mẽ thay thế Hiệp định khung VN_EC năm 1995.
Tháng 10 / 2007, EU chính thức đề nghị VN đàm phán Hiệp định PCA
thay thế Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EC.

15




Mục đích chính của các bên khi tham gia đàm phán PCA:
• Về phía EU:
+ mở rộng vai trò của EU tại khu vực
+tranh thủ hợp tác với Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề toàn
cầu
+khai thác các lợi thế của EU trong hợp tác với Việt Nam
• Về phía Việt Nam

+ mở rộng, đưa quan hệ với EU thành quan hệ đối tác toàn diện, lâu dài
+ ưu tiên hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác phát triển với EU
+ khai thác hiệu quả lợi ích trong hợp tác, tận dụng tốt hỗ trợ của EU để
phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
2. Triển vọng quan hệ Việt Nam- EU sau khi ký chính thức PCA
• Về chính trị:
- góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ chính trị tốt đẹp giữa Việt Nam và
EU
- tăng cường đối thoại và hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề cùng
quan tâm, cả trên bình diện song phương và các diễn đàn đa phương
• Về thương mại- đầu tư:
- tạo điều kiện thuận lợi, cho phép khai thác tốt hơn lợi thế so sánh và
tính bổ sung cao về cơ cấu kinh tế của hai bên
- cho phép Việt Nam tiếp cận thị trường EU thuận lợi hơn
- cam kết tăng cường tham vấn nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi ích
mà quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) có thể mang lại cho Việt
Nam
- cam kết dành cho Việt Nam đối xử đặc biệt và khác biệt trong quan hệ
kinh tế thương mại, hợp tác với Việt Nam hướng tới sớm công nhận
nền kinh tế thị trường của Việt Nam
- đàm phán FTA, xóa bỏ rào cản thương mại thuế quan và phi thuế quan,
tạo thuận lợi cho Việt Nam trong đấu tranh với các hình thức bảo hộ
thương mại như thuế chống bán phá giá
• Về hợp tác phát triển:
+tiếp tục viện trợ phát triển cho Việt Nam trong giai đoạn mới sau năm
2013, phù hợp với các chiến lược và chương trình phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam.
+EU cam kết tăng cường hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu phát
triển được quốc tế thừa nhận
+mở rộng các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành mà EU có thế mạnh và Việt

Nam có nhu cầu với những cam kết cụ thể của EU về hỗ trợ kỹ thuật và
nâng cao năng lực trong mỗi lĩnh vực
16


+tạo cơ sở cho Việt Nam khai thác các thế mạnh khoa học, công nghệ của
EU, tận dụng tốt hỗ trợ của EU để triển khai hiệu quả đổi mới và tái cấu
trúc nền kinh tế và hội nhập quốc tế.

KẾT LUẬN

Qua bức tranh sơ lược trên , chúng ta thấy được Việt Nam đã duy trì mối
quan hệ tốt đẹp và hiệu quả với hầu hết các nước EU, đồng thời xây dựng quan
hệ đối tác chiến lược với một số thành viên như Anh, Tây Ban Nha... Xuất phát
từ thực tế đó, EU luôn coi Việt Nam là một đối tác quan trọng trong khu vực,
đồng thời mở rộng hợp tác toàn diện trên tất cả các mặt. Nhiều nước thành viên
EU cũng bày tỏ mong muốn phát triển hơn nữa mối quan hệ song phương với
Việt Nam để tranh thủ những cơ hội hợp tác và đầu tư.
Trong bức tranh toàn cảnh quan hệ Việt Nam – EU không phải không có
những mảng màu còn tối. Đó dường như là một tất yếu trong xu thế vận động
và phát triển của quan hệ quốc tế với nhiều biến chuyển, đan xen giữa tích cực
và tiêu cực, hợp tác và đấu tranh, và cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nhóm lợi
ích. Mối quan hệ Việt Nam – EU không nằm ngoài xu thế này, nhất là khi hai
bên còn những khác biệt về trình độ phát triển và hội nhập, thể chế chính trị,
văn hoá, quan điểm về dân chủ, nhân quyền và tôn giáo…
Và hẳn nhiên là chỉ có tăng cường hiểu biết và đối thoại mới có thể giúp
hai bên vượt qua khác biệt, khắc phục bất đồng và duy trì quan hệ đúng hướng,
phù hợp với lợi ích chung. Rõ ràng, khi mối quan hệ Việt Nam - EU phát triển
ngày càng sâu rộng, thì nó cũng có thể phải đối mặt với thách thức nảy sinh.
Điều này lý giải tại sao các nhà lãnh đạo hai bên đã nỗ lực hiện thực hoá PCA

để tạo ra khuôn khổ mới cho một “sân chơi” bình đẳng hơn.

17


18


19



×