Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.19 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trần Hồng Vân

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH
BẮC GIANG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:

60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI,
1 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh

Phản biện 1: ..................................................................................
Phản biện 2: ..................................................................................

Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại : Học viện Khoa học xã hội.


hồi

giờ, ngày

tháng năm 2017

Có thể tìm luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học
xã hội
2


MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài
Ưu đãi người có công với cách mạng là chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước, có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện sự tôn vinh của tổ
quốc và nhân dân đối với những người đã hy sinh và cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong
những năm qua, nhiều chủ trương, chính sách đối với công tác thương binh,
liệt sĩ và người có công được Đảng và Nhà nước ban hành là một thành quả
to lớn, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các đối tượng chính sách qua từng thời
kỳ phát triển của đất nước, góp phần ổn định, nâng cao đời sống về mọi mặt
của người có công và sự công bằng xã hội.
Thực hiện các văn bản pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng, những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo thực
hiện đạt nhiều kết quả tích cực; đã cụ thể hoá và triển khai thực hiện các
văn bản về chính sách người có công với cách mạng, bảo đảm đối tượng
theo chế độ, chính sách hiện hành và phù hợp với tình hình thực tiễn của
tỉnh. Tuy nhiên, việc triển khai, tổ chức thực hiện vẫn còn hạn chế như: Thủ
tục, căn cứ xác nhận còn có nội dung chưa phù hợp. Văn bản triển khai thực

hiện có điểm chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ, từ đó tạo kẽ hở để các phần tử
xấu lợi dụng như khai man hồ sơ để hưởng chính sách; lợi dụng chức trách,
quyền hạn để làm trái quy định; lợi dụng chính sách ưu đãi người có công
để trục lợi bất chính, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của
người có công; ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước...
Nhằm tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về
ưu đãi người có công với cách mạng thông qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang,

1


chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật ưu đãi người có công, cũng như
những hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa
ra phương hướng và một số kiến nghị để hoàn thiện hơn pháp luật về ưu đãi
người có công nói chung và quá trình triển khai, tổ chức thực hiện pháp luật
về ưu đãi người có công tại địa phương trong thời gian tới; tác giả chọn đề
tài: Pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng từ thực tiễn tỉnh Bắc
Giang làm luận văn thạc sỹ luật học.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật
an sinh xã hội Việt Nam, do vậy đã có nhiều đề tài, bài viết liên quan đến
Pháp luật về ưu đãi người có công. Các công trình nghiên cứu, tài liệu, bài
viết khẳng định vai trò của Pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng nói chung và đề cập, nghiên cứu về nội dung này dưới những góc độ
khác nhau; nhưng chưa có một cá nhân hay tổ chức nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống về đề tài: “Pháp luật về ưu đãi người có công với
cách mạng từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về ưu đãi

người có công với cách mạng ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay; từ
đó đề xuất phương hướng, kiến nghị góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về
ưu đãi người có công. Đưa ra khái niệm về người có công, ưu đãi người có
công và pháp luật về ưu đãi người có công. Phân tích các nguyên tắc điều
chỉnh xuyên suốt pháp luật về ưu đãi người có công. Phân tích việc thực
hiện pháp luật về ưu đãi người có công từ thực tiễn của tỉnh. Đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2


Đối tượng nghiên cứu chính của Luận văn là những vấn đề thực
tiễn cũng như lý luận về thực hiện pháp luật đối với người có công với cách
mạng; phân tích đánh giá thực tiễn tìm ra những hạn chế của pháp luật ưu
đãi người có công với cách mạng từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện hơn các quy phạm pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng
qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang.
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những quy phạm pháp luật về
chính sách đối với người có công với cách mạng từ sau ngày Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 đến nay.
5- Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử. Về phương pháp nghiên cứu, Luận văn được hoàn
thành dựa trên sự tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó tác giả sử
dụng một số phương pháp chính như phương pháp hệ thống, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích so sánh, đánh giá và tổng kết thực tiễn.
6- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần làm rõ khái niệm về người có công với cách mạng và hệ

thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến người có công. Đánh
giá đúng thực trạng việc thực hiện pháp luật về ưu đãi người có công trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang. Các nghiên cứu của đề tài này có thể làm tài liệu
tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về pháp luật an sinh xã hội,
cụ thể là pháp luật về ưu đãi người có công. Một số giải pháp, kiến nghị của
đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp
luật trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về ưu đãi người có công.
Luận văn mong muốn góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ
quan liên quan tại tỉnh trong việc chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về
ưu đãi người có công.

3


7- Cơ cấu của luận văn
Nội dung chính của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật ưu đãi người có công
với cách mạng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật ưu
đãi đối với người có công với cách mạng từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với người có công
với cách mạng qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang.
Ngoài ra Luận văn còn có mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham
khảo và phụ lục.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT

ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1- Khái niệm về người có công, ưu đãi đối với người có công,
pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng
1.1.1- Khái niệm người có công với cách mạng
Có thể hiểu khái niệm người có công với cách mạng theo nghĩa
rộng là những người tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho việc đại nghĩa,
cho sự nghiệp của đất nước. Họ có những đóng góp, những cống hiến xuất
sắc phục vụ cho lợi ích của đất nước, của dân tộc. người có công gồm
những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi
tác, miễn là họ có những hành động xuất sắc có lợi cho dân tộc. Như vậy,
tiêu chí cơ bản để xác định người có công đó là phải có đóng góp, cống hiến
xuất sắc vì lợi ích của dân tộc. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là
trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do cho tổ quốc và cũng có
thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm người có công với cách mạng để chỉ
những cá nhân không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ…, có
những đóng góp, những cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước cách mạng
tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ
tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận theo quy định
của pháp luật.
1.1.2- Khái niệm về ưu đãi đối với người có công với cách mạng
Ưu đãi đối với người có công với cách mạng là một bộ phận của hệ
thống chính sách xã hội mà cụ thể là chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
Trong hệ thống bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta hiện nay gồm có ưu đãi xã

5


hội đối với người có công, bảo hiểm xã hội đối với người lao động, cứu trợ
xã hội đối với những người gặp rủi ro, khó khăn hoặc hiểm nghèo... Đây là

sự bảo vệ của nhà nước, của xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua các biện pháp công cộng, trong đó có người có công. Ưu đãi xã hội đối
với người có công không chỉ là sự bảo vệ, sự giúp đỡ mà còn là sự thể hiện
nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng đối với người có công.
1.1.3- Khái niệm về pháp luật ưu đãi người có công với cách
mạng
Ngay từ những ngày đầu nước nhà mới giành được độc lập, Đảng
và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện các chính sách ưu
đãi đối với người có công với cách mạng và người khởi xướng cho chính
sách này chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính sách ưu đãi người có công
là vấn đề rộng lớn mang tính định hướng; trên cơ sở định hướng đó, Nhà
nước tổ chức thực hiện các chính sách đó thông qua các nội dung công việc
cụ thể như: thể chế hóa nội dung chính sách thành các văn bản pháp luật
chứa đựng các quy phạm pháp luật ưu đãi người có công, hướng dẫn triển
khai thực hiện và kiểm tra giám sát quá trình thực hiện các quy phạm đã
quy định đó. Vì vậy, thực hiện chính sách ưu đãi người có công thực chất là
việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, được Nhà nước thể chế hoá
bằng các văn bản pháp luật. Nhà nước thông qua bộ máy của mình với các
cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương, tổ chức triển khai, đưa
các chính sách ưu đãi người có công vào thực tiễn cuộc sống. Nhà nước tổ
chức, động viên, khuyến khích, định hướng các phong trào của quần chúng,
tạo ra sức mạnh tổng hợp huy động các nguồn lực, nhân lực ở cộng đồng
dân cư trong quá trình thực hiện, tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi người
có công.

6


Có thể nói pháp luật ưu đãi người có công là công cụ quan trọng và
hữu hiệu nhất để thể chế hóa, triển khai thực hiện chính sách ưu đãi đối với

người có công ở nước ta. Nhất là trong điều kiện Nhà nước ta đang xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân thì tính đề cao
vai trò của pháp luật ưu đãi người có công trong quá trình thể chế hóa, ban
hành tổ chức thực hiện các chính sách đối với người có công với cách mạng
của Đảng và Nhà nước là rất cần thiết.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm: Pháp luật ưu đãi người có công là
tổng thể những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện
chế độ ưu đãi đối với người có công trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa…. Pháp luật ưu đãi người có công quy định những hình
thức, nguyên tắc, phương pháp và thủ tục để thực hiện các chế độ ưu đãi
người có công, xác định quy chế pháp lý của các chủ thể trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với người có công.
1.2. Nguyên tắc, điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về ưu
đãi người có công với cách mạng
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng
Pháp luật về ưu đãi đối với người có công với cách mạng thực hiện
theo 2 nguyên tắc:
Một là, Nhà nước thống nhất quản lý về ưu đãi người có công với
cách mạng. Với chức năng quản lý của Nhà nước về mọi mặt, dưới chế độ
ta, Nhà nước là chủ sở hữu đồng thời là người sử dụng lao động, người đại
diện và quản lý xã hội. Ưu đãi đối với người có công với cách mạng là một
phần trong việc thực hiện an sinh xã hội. Đây là vấn đề mang tính xã hội
sâu sắc, vì thế Nhà nước cần thiết phải tiến hành thống nhất quản lý chế độ

7


ưu đãi này. Tiến hành quản lý chế độ ưu đãi người có công nhằm mục đích

ổn định xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, công bằng và tiến
bộ.
Hai là, xã hội hóa các hoạt động ưu đãi đối với người có công với
cách mạng. Để việc thực hiện ưu đãi người có công có hiệu quả cần có
nguồn kinh phí ổn định, nguồn kinh phí này chủ yếu từ ngân sách Nhà nước
chi trả. Tuy vậy, ngân sách Nhà nước chỉ đảm bảo thực hiện phần nào và
hạn chế ở mức độ nhất định. Nguồn lực lớn đảm bảo cho việc thực hiện ưu
đãi này chính là từ mọi tầng lớp trong xã hội. Mặt khác, cộng đồng xã hội là
nơi người có công sống, gắn bó, sinh hoạt hằng ngày, cũng là nơi họ gửi
gắm bao tâm tư tình cảm và lòng tin. Xã hội hóa các hoạt động chăm sóc
người có công sẽ huy động được nguồn lực lớn trong nhân dân tham gia
vào công tác chăm sóc người có công.
1.2.2. Điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về ưu đãi người có
công
Một là, pháp luật về ưu đãi người có công phải có nội dung chi tiết
và dễ hiểu, dễ thực hiện. Điều kiện này xuất phát từ đối tượng người có
công hiện nay ở nước ta là người có công với cách mạng, đa số họ là những
người lớn tuổi, điều kiện học tập hạn chế nên trình độ học vấn không cao
dẫn đến khả năng tiếp cận với các quy định pháp luật không được sâu sắc.
Vì vậy các nội dung pháp luật về ưu đãi người có công cần diễn đạt chi tiết,
cụ thể điều kiện xác nhận, đối tượng cũng như trình tự thủ tục để được
hưởng các chế độ ưu đãi nhất là nội dung cần dễ hiểu và dễ thực hiện để tất
cả các đối tượng người có công có khả năng tiếp cận nhanh và dễ dàng
nhất.
Hai là, nội dung của các văn bản pháp luật về ưu đãi người có công
phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và truyền thống dân tộc. Sự phù

8



hợp này thể hiện thông qua các nội dung quy định của pháp luật về ưu đãi
người có công phải có tính thực tiễn, sát với tình hình thực tế của đất nước
cũng như về hiện trạng các đối tượng người có công. Mặt khác, ngoài việc
cần đảm bảo điều kiện kinh tế xã hội thì pháp luật về ưu đãi người có công
cần phù hợp với truyền thống dân tộc. Vì phù hợp với truyền thống dân tộc
sẽ giúp cho pháp luật đi vào thực tiễn một cách nhanh nhất.
1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật về ưu đãi người có công với cách
mạng ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền dân chủ nhân dân, Nhà
nước ta đã ban hành một số văn bản quy định chế độ ưu đãi người có công
với cách mạng. Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung
ương Hội phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên cứu quốc, Cục
Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin tuyên truyền và một
số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái); tại cuộc họp này các đại biểu
đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 là ngày “Thương binh toàn quốc”. Từ đó
hằng năm vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi,
động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương
binh, gia đình liệt sĩ.
Sau khi quân và dân ta đánh thắng thực dân Pháp, các bên ký kết
Hiệp định Giơ-ne-ver 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc Việt Nam, Đảng và
Nhà nước ta tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy
định chế độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, cán bộ
lão thành cách mạng, người có công giúp đỡ cách mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, pháp luật ưu đãi người có
công đã phát triển tương đối toàn diện về các nội dung chăm sóc vật chất và
tinh thần cho người có công; chính sách đối với thương binh, liệt sĩ đã được
bổ sung, sửa đổi nhiều điểm hết sức cơ bản.

9



Khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, Đảng và Nhà nước ta vẫn
xác định công tác thương binh liệt sĩ là một trong những vấn đề lớn của
nước ta. Mười năm sau ngày giải phóng (1975-1985) là giai đoạn có những
thay đổi to lớn trong đời sống xã hội của nước ta. Pháp luật ưu đãi người có
công với cách mạng cũng có những thay đổi bổ sung để khắc phục một số
bất hợp lý, giải quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến
tranh để lại, hình thành một hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực thực
hiện thống nhất trong cả nước, phục vụ cho yêu cầu của giai đoạn mới.
Sau năm 1985, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển từ cơ
chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Từ đầu những năm 90 trở đi,
nền kinh tế thị trường phát triển khá mạnh mẽ đã làm nảy sinh nhiều vấn đề
xã hội hết sức bức xúc, trong đã có vấn đề người có công. Để điều chỉnh
các mâu thuẫn trong xã hội, vấn đề ưu đãi người có công và gia đình có
công với cách mạng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và được ghi nhận
trang trọng ở Hiến pháp năm 1992. Nguyên tắc này đã được thể chế trong
Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp
đỡ cách mạng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 10/9/1994, và
được quy định cụ thể tại Nghị định số 28/CP ngày 29/4/1995 của Chính
phủ.
Với việc ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng,
nhiều vấn đề còn tồn tại trong chính sách ưu đãi trước đây được điều chỉnh
phù hợp với tình hình mới, như việc áp dụng thống nhất mức trợ cấp giữa
thương binh hưởng lương và thương binh hưởng sinh hoạt phí khi bị
thương, giữa thương binh đang công tác hay nghỉ hưu với thương binh về
địa phương có cùng tỷ lệ thương tật; thực hiện công bằng trong chính sách
giữa người có công với cách mạng đi thoát ly và không thoát ly, căn bản

10



tách chế độ ưu đãi tồn tại từ mấy chục năm trong chính sách bảo hiểm xã
hội chuyển sang chính sách ưu đãi xã hội (như thâm niên kháng chiến, phụ
cấp đối với cán bộ lão thành cách mạng, anh hùng lực lượng vu trang nhân
dân, anh hùng lao động...).
Sau 10 năm thực hiện, ngày 29/06/2005, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 thay thế Pháp lệnh
năm 1994, trong đó đặc biệt đã mở rộng đối tượng, bổ sung người hoạt
động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học trở thành một trong 12 diện
đối tượng người có công với cách mạng. Sau 7 năm thực hiện Pháp lệnh ưu
đãi người có công với cách mạng năm 2005, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng. Theo đó điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công đã từng
bước được hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính khách quan,
công bằng xã hội, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, hài hoà với hệ
thống pháp luật Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới. Mỗi diện đối tượng
có điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận cụ thể. Điều kiện xác nhận và chế độ ưu
đãi được mở rộng hơn, bảo đảm kịp thời và đúng đối tượng; thẩm quyền,
trách nhiệm trong quản lý Nhà nước về ưu đãi xã hội đã được quy định rõ
ràng, cụ thể hơn, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính nhà nước.

11


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH
MẠNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG
2.1- Thực trạng các quy định pháp luật về ưu đãi đối với người

có công với cách mạng ở Việt Nam
Hiện nay pháp luật về ưu đãi người có công được điều chỉnh bởi 4
Pháp lệnh và được quy định chi tiết tại các Nghị định và Thông tư hướng
dẫn. Quy định chi tiết các pháp lệnh này có 4 Nghị định của Chính phủ và
các thông tư hướng dẫn. Bên cạnh các văn bản chủ yếu đó, hiện nay thực
hiện chế độ ưu đãi đối với người có công còn được quy định ở một số điều
khoản của văn bản quy phạm pháp luật khác.
Điều 2, Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH ngày 11/7/2005 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ưu đãi người có công với cách mạng được
Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp
lệnh ưu đãi người có công với cách mạng quy định có 02 nhóm đối tượng
được hưởng chế độ ưu đãi đó là người có công với cách mạng và thân nhân
của họ; trong đó người có công với cách mạng bao gồm 12 đối tượng sau:
Người HĐCM trước ngày 01/01/1945. Người hoạt động cách mạng
từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Liệt sĩ. Bà
mẹ Việt Nam anh hùng. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Anh hùng
lao động trong thời kỳ kháng chiến. Thương binh và người được hưởng
chính sách như thương binh. Bệnh binh. Người hoạt động kháng chiến bị
nhiễm chất độc hóa học. Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động
kháng chiến bị địch bắt tù, đày. Người hoạt động kháng chiến giải phóng

12


dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Người có công giúp đỡ
cách mạng.
Căn cứ Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Nghị định
số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng; Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao

động Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ,
thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân, các đối
tượng lập hồ sơ và gửi đến các cơ quan chức năng để được xem xét xác
nhận và thực hiện chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật.
Đối với từng trường hợp, từng đối tượng, Nhà nước hướng dẫn lập
hồ sơ hưởng các chế độ ưu đãi như: Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng
tháng, trợ cấp một lần; bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe; Nhà
nước có chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ có
khó khăn về nhà ở và huy động sự tham gia của xã hội, gia đình người có
công với cách mạng; được ưu tiên trong tuyển sinh, tạo việc làm; được hỗ
trợ để theo học tại cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân đến
trình độ đại học; Chính phủ quy định thời điểm hưởng, mức hưởng và các
chế độ ưu đãi.
Đồng thời theo các quy định của pháp luật hiện hành thì cơ chế
giám sát và xử lý vi phạm về pháp luật ưu đãi người có công được thực hiện
bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội và các cơ quan chức năng của Nhà
nước. Theo đó, việc giám sát này thông qua các quyền được khiếu nại, tố
cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật về ưu đãi người có công.
Cùng với việc giám sát, để pháp luật về ưu đãi người có công được
triển khai thực hiện nghiêm túc thì Nhà nước cũng ban hành các quy định
cụ thể, các cơ quan có trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo

13


và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về ưu đãi người có công, đó là: Cơ quan
Lao động Thương binh và Xã hội, Công an, Quân đội và các cơ quan khác
của Nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo...
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật đối với người có công với
cách mạng tại tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang là tỉnh miền núi, nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về
phía Bắc, cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) 110 km về phía
Nam, cách cảng Hải Phòng hơn 100 km về phía Đông. Phía Bắc và Đông
Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp thành phố Hà Nội, Thái
Nguyên, phía Nam và Đông Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng
Ninh. Bắc Giang có 09 huyện và 01 thành phố; 230 xã, phường, thị trấn;
dân số trên 1,6 triệu người. Trong thời gian qua Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tập
trung chỉ đạo, triển khai thực hiện; ban hành các chỉ thị, kế hoạch... cụ thể
hoá các văn bản, hướng dẫn của Đảng và Nhà nước hiện hành, phù hợp với
tình hình thực tiễn của tỉnh về chính sách đối với người có công với cách
mạng với một số quan điểm chỉ đạo chung sau:
Thứ nhất, các cấp, các ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ
chủ động tham mưu xây dựng các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện công
tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với các thương binh, gia đình
liệt sĩ, người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” phù hợp với tình
hình thực tế của địa phương, đơn vị; nâng cao trách nhiệm tổ chức triển
khai thực hiện của các cấp, các ngành, các địa phương.
Thứ hai, kịp thời rà soát, đánh giá khó khăn, tồn tại trong quá trình
giải quyết chế độ, chính sách để đề xuất sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách
phù hợp theo các văn bản, hướng dẫn hiện hành; đảm bảo quyền và lợi ích
cho đối tượng người có công song vẫn đảm bảo tính chính xác, công khai,
minh bạch. Tập trung xử lý dứt điểm các trường hợp còn tồn đọng về xác

14


nhận, công nhận người có công, đặc biệt đối với liệt sĩ, thương binh, người
hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ,
người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị ảnh hưởng bởi chất độc
hóa học.

Thứ ba, đẩy mạnh các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước
nhớ nguồn”, “xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ, người có
công” nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội, cộng đồng cùng nhà
nước chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công với
cách mạng; đào tạo, bồi dưỡng thế hệ con em người có công tiếp tục phát
huy truyền thống, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ tư, gắn công tác”Đền ơn đáp nghĩa”, thực hiện chính sách đối
với người có công trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào
tạo, dạy nghề, việc làm, giảm nghèo… tạo điều kiện cho bản thân người có
công và thân nhân của người có công được học tập, học nghề, tạo việc làm,
phát triển về kinh tế nhằm nâng cao đời sống gia đình, đồng thời góp phần
phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
người có công, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong giải quyết
chế độ, chính sách.
Thứ sáu, phát huy vai trò, trách nhiệm của mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội trong việc chăm lo, giám sát việc thực hiện chính
sách đối với người có công. Nâng cao chất lượng thực hiện các phong trào
“Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “xã, phường làm tốt công
tác thương binh, liệt sĩ, người có công”, chăm sóc phụng dưỡng Mẹ Việt
Nam anh hùng, đảm bảo thiết thực, hiệu quả. Tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, kịp

15


thời chấn chỉnh những thiếu sót, tiêu cực trong việc thực hiện chính sách ưu
đãi người có công.
Nhìn chung: Công tác giải quyết các chế độ trợ cấp, phụ cấp hằng

tháng, chế độ trợ cấp một lần cho các đối tượng người có công và thân nhân
của họ trên địa bàn tỉnh được thực hiện đầy đủ, kịp thời theo đúng quy định.
Việc điều chỉnh mức trợ cấp, phụ cấp cho đối tượng người có công đang
hưởng chế độ theo các văn bản chính sách mới được tiến hành nhanh
chóng, chính xác. Nhờ các chính sách ưu đãi của Nhà nước; sự quan tâm
của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, sự giúp đỡ, động
viên của cộng đồng và sự cố gắng của bản thân, đến nay phần lớn đời sống
hộ chính sách người có công của tỉnh đều ở mức trung bình khá so với cộng
đồng dân cư nơi cư trú, góp phần giữ vững và ổn định chính trị - xã hội trên
địa bàn tỉnh. Việc tổ chức thực hiện các phong trào "Đền ơn đáp nghĩa",
công tác xã hội hoá việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có
công với cách mạng của Đảng và Nhà nước ta; cùng với việc thực hiện tốt
các chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng đã góp phần
tích cực vào việc chăm sóc các đối tượng chính sách ở ngay từng cơ sở
thôn, xóm, làng, bản, làm sâu đậm thêm mối quan hệ truyền thống tình
làng, nghĩa xóm tốt đẹp của nhân dân ta, thể hiện truyền thống "Uống nước,
nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ người trồng cây" của dân tộc ta đối với những
người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh xương máu vì độc lập và tự do của
tổ quốc; đồng thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Tuy nhiên, viêc thực hiện chính sách đối với người có công với
cách mạng trên địa bàn tỉnh còn một số hạn chế, vướng mắc như:
- Việc xác nhận người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945
và người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nhiều vướng mắc về căn cứ xác nhận.

16


- Đối với liệt sĩ, thương binh chưa có hướng dẫn cụ thể về thủ tục,
hồ sơ xác nhận liệt sĩ đối với trường hợp bị bắt, tra tấn.

- Chính sách đối với người nhiễm chất độc da cam/Đioxin, khi triển
khai còn gặp nhiều vướng mắc.
- Việc ủy quyền về thờ cúng liệt sĩ, ký giấy xác nhận về phong tặng
Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thực hiện trợ cấp đối với người hoạt động cách
mạng đã hy sinh, từ trần có một số trường hợp là anh em trong gia đình
không chịu xác nhận nên việc lập hồ sơ gặp khó khăn.
- Công tác khám giám định bệnh tật, xác nhận người hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; các đối tượng không còn giấy tờ
gốc, người bị địch bắt tù đày,…chưa được giải quyết triệt để.
- Chưa phát huy tối đa việc xã hội hóa các hoạt động ưu đãi đối với
người có công với cách mạng.
- Tiêu cực trong thực hiện chế độ, chính sách đối với người có công
chưa được khắc phục triệt để..
- Công tác thanh tra, kiểm tra việc xác lập hồ sơ giải quyết chế độ
còn hạn chế.
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
QUA THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với người có công với
cách mạng qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang
Qua nghiên cứu các văn bản, hướng dẫn hiện hành của pháp luật về
ưu đã người có công với cách mạng và thực tiễn công tác triển khai, tổ chức

17


thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, xin được đưa ra một số giải pháp
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng:
Một là: Cần hoàn thiện hệ thống văn bản, chính sách, triển khai

đồng bộ, thống nhất và kịp thời chính sách ưu đãi đối với NCC; tăng cường
kiểm tra, kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm, kiện toàn đội ngũ cán
bộ làm công tác chính sách.
Hai là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn”.
Ba là: Khuyến khích, động viên và tạo điều kiện để thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sĩ, NCC với CM được tham gia các hoạt động xã
hội, phát triển sản xuất kinh doanh.
Bốn là: Tổ chức sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng các tập
thể, cá nhân làm tốt phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, những thương binh,
gia đình liệt sĩ và NCC với CM có thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực.
Năm là: Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần nêu cao vai trò, trách
nhiệm của mình, thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, động viên mọi
tầng lớp nhân dân tham gia cùng Nhà nước thực hiện tốt hơn nữa công tác
chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sĩ và NCC với CM trong tiến trình hội nhập và phát triển đất nước.
Theo hướng đó xin được đưa ra một số phương hướng và kiến nghị
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về ưu đãi NCC với CM.
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về ưu đãi người có
công
Để hoàn thiện pháp luật về ưu đãi người có công, các cơ quan chức
năng cần chú ý một số vấn đề sau:

18


- Pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng phải bảo đảm tính
kế thừa và phù hợp với điều kiện và tình hình của đất nước. Pháp luật ưu
đãi người có công với cách mạng có ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị

xã hội của đất nước, do số lượng đối tượng đông, mức độ ảnh hưởng rộng,
thời gian ảnh hưởng lâu dài, do vậy, việc hoàn thiện pháp pháp luật ưu đãi
người có công với cách mạng phải trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã
đạt được, kế thừa những nội dung hợp lý, khoa học của pháp luật ưu đãi
người có công với cách mạng đã thể hiện trong thời gian qua. Những vấn đề
liên quan đến người có công là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp, do vậy
để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật ưu đãi người có công phải tính
toán, nghiên cứu kỹ lưỡng, cần phải được tiến hành từng bước, phù hợp với
tình hình kinh tế xã hội của đất nước; đảm bảo công bằng xã hội.
- Pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng phải đảm bảo
tính toàn diện. Để thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi đối với
người có công với cách mạng, đòi hỏi Nhà nước phải ban hành đầy đủ các
quy định của luật pháp liên quan đến người có công; đồng thời, trong tổ
chức triển khai thực hiện cũng phải cụ thể, bảo đảm đúng chế độ, chính
sách, đầy đủ đối tượng; bảo đảm để những sự quan tâm, những ưu đãi của
Đảng và Nhà nước đối với người có công với cách mạng phải được thực
hiện toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống. Tính toàn diện của pháp luật
về ưu đãi người có công với cách mạng còn được thể hiện đối với toàn bộ
các đối tượng những người thuộc diện ưu đãi, không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, giới tính, độ tuổi…
- Xã hội hóa hoạt động ưu đãi người có công, trong đó Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Nguồn ngân sách Nhà nước để thực hiện chính sách ưu
đãi người có công lại có hạn, khó có thể đáp ứng tốt các nhu cầu ngày càng
phát triển đó. Do vậy, cần tiếp tục tăng cường xã hội hóa, đẩy mạnh phong

19


trào chăm sóc người có công với cách mạng thông qua các chương trình
tình nghĩa, toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa nhằm huy

động nguồn lực từ cộng đồng, xã hội cùng Nhà nước quan tâm chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng.
3.3- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi
người có công
Qua nghiên cứu thực tế việc triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang cho thấy, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về ưu đãi
đối với người có công với cách mạng; trong đó tập trung vào một số nội
dung sau:
- Về đối tượng, điều kiện công nhận:
Theo pháp luật ưu đãi về người có công với cách mạng hiện hành
mới nêu đối tượng người có công qua 2 cuộc kháng chiến, trong khi đó
những đối tượng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân,
Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân, các nhà khoa học có những phát
minh nghiên cứu xuất sắc; người Việt Nam ở nước ngoài hay là người nước
ngoài có những cống hiến lớn lao trong công cuộc kháng chiến giành độc
lập dân tộc ở Việt Nam cũng như trong thời kỳ đổi mới, phát triển đất
nước… chưa được đề cập đến. Trên cơ sở tình hình thực tiễn hiện nay, cần
nghiên cứu, mở rộng thêm đối tượng cho phù hợp hơn.
Về điều kiện xét, công nhận người hoạt động cách mạng trước ngày
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đang gặp nhiều vướng mắc và có nhiều
đơn, thư của nhân dân về vấn đề này. Để tiếp tục giải quyết chính sách đối
với người có công với cách mạng, đề nghị Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Nghị định số 31/2013/NĐ-CP của Chính
phủ trong đó cần quan tâm và có hướng giải quyết một số nội dung về căn
cứ công nhận, thẩm quyền xét công nhận, chế độ nghỉ dưỡng sức...

20


- Về trình tự lập hồ sơ và thủ tục công nhận. Thủ tục xác nhận đối

tượng người có công được hưởng ưu đãi hiện tại đã được đơn giản hóa, phù
hợp hơn với điều kiện thực tại. Tuy nhiên, do chưa có sự quản lý chặt chẽ
nên đã dẫn đến tình trạng lạm dụng, khai man để được hưởng chế độ ưu đãi
đối với người có công. Tình trạng người có công thật sự không được hưởng
ưu đãi, cuộc sống khó khăn vẫn tồn tại, trong khi có người không tham gia
kháng chiến, không có thương tích thật sự, không có những cống hiến xuất
sắc lại vẫn “lách luật”, làm giả hồ sơ để được hưởng những chế độ ưu đãi
của Nhà nước, điều đó đã tạo dư luận không tốt trong xã hội. Do vậy, cần
phải quản lý chặt chẽ hơn, nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ thực
hiện công tác ưu đãi người có công để tránh việc công nhận nhầm đối
tượng, đảm bảo quyền lợi cho những người đã cống hiến, hy sinh cho Tổ
quốc.
- Về chế độ trợ cấp, ưu đãi: Pháp luật ưu đãi cần điều chỉnh phù
hợp thời điểm hưởng trợ cấp ưu đãi cho các trường hợp: Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, thân nhân của thương binh, bệnh binh cho phù hợp với thực tế.
Đồng thời cần điều chỉnh mức trợ cấp hợp lý hơn để những người có công
có thể ổn định được cuộc sống, vươn lên thành người có ích cho xã hội.
Đồng thời cần ban hành thống nhất các văn bản hướng dẫn về thủ tục được
hưởng các chế độ ưu đãi về giáo dục, đào tạo và việc làm, chế độ ưu đãi về
nhà ở.
- Về cơ chế giám sát và xử lý vi phạm: Nhà nước cần điều chỉnh, bổ
sung các quy định pháp luật để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cơ chế
giám sát. Bên cạnh việc giám sát, cần bổ sung các chế tài nghiêm khắc hơn
để xử lý nghiêm minh các hành vi tiêu cực, thiếu tinh thần trách nhiệm,
quan liêu, cố ý làm trái trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi đối với
người có công. Đồng thời pháp luật về ưu đãi người có công cũng cần quy

21



định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể đối với từng cơ quan Nhà
nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như xử lý vi phạm đối với
lĩnh vực này để tạo điều kiện cho người có công nói riêng và nhân dân nói
chung phản ánh ý kiến và tâm tư, nguyện vọng của mình.
- Về việc xây dựng Luật ưu đãi người có công với cách mạng. Về
việc xây dựng Luật ưu đãi người có công với cách mạng, hiện vẫn còn các ý
kiến khác nhau giữa việc hoàn thiện chính sách người có công theo hướng
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh hiện hành hay xây dựng, ban
hành Luật người có công. Nhiều ý kiến cho rằng, nên giữ nguyên hình thức
pháp lệnh với mục tiêu kịp thời sửa đổi những bất cập, vướng mắc của Pháp
lệnh hiện hành và tạo sự thuận lợi, linh hoạt khi cần điều chỉnh chính sách.
Là cán bộ đang công tác tại cơ quan tổ chức cấp ủy cấp tỉnh; trực tiếp tham
mưu về chính sách cán bộ, trong đó có chính sách người có công với cách
mạng; qua thời gian công tác và quá trình nghiên cứu, xây dựng Luận văn
này; cá nhân tôi đồng tình với quan điểm về lâu dài cần xây dựng và ban
hành Luật người có công. Vì, trong điều kiện phát triển của đất nước hiện
nay cần phải có sự điều chỉnh phạm vi, đối tượng rộng hơn, đầy đủ hơn,
không chỉ những người có công trong kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, mà còn
mở rộng đến cả những người có công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.

22


KẾT LUẬN
Ưu đãi người có công với cách mạng là một chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước ta, đó là sự đãi ngộ đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với
người có công với cách mạng. Do vậy những năm qua, Đảng và Nhà nước
đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đối với công tác thương binh, liệt
sĩ và người có công với cách mạng. Qua đó, từng bước nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần của người có công với cách mạng, góp phần giữ vững
ổn định chính trị - xã hội; phát huy truyền thống cao đẹp “Uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc.
Với vai trò đó, việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng để phù hợp với tình
hình thực tiễn phát triển chung của đất nước là nội dung cần thiết. Việc chú
trọng nghiên cứu lý luận và thường xuyên tổng kết thực tiễn pháp luật về ưu
đãi người có công với cách mạng là yêu cầu tất yếu trong việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật an sinh xã hội Việt Nam. Nội dung Luận văn đã giải quyết
được một số vấn đề sau:
- Đã khái quát cơ bản hệ thống các quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước về pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng;
những chủ trương, kế hoạch của tỉnh Bắc Giang về ưu đãi người có công.
Đây là những cơ sở rất quan trọng cho việc tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và cấp ủy, lãnh đạo các cấp trong công tác
ưu đãi người có công với cách mạng của tỉnh. Làm rõ hơn cơ sở lý luận và
thực tiễn về pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng hiện nay.
- Đã phác thảo cơ bản thực trạng pháp luật về ưu đãi người có công
với cách mạng nói chung và việc triển khai, tổ chức thực hiện pháp luật về
ưu đãi người có công với cách mạng ở tỉnh Bắc Giang nói riêng; mạnh dạn

23


×