Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giới hạn xét xử sơ thẩm theo Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.42 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHÂU VĂN SĨ

GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHÂU VĂN SĨ

GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã ngành: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG



HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với sự giúp đỡ
dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp. Luận văn “Giới hạn xét xử sơ thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” đạt được
kết quả như ngày hôm nay là do tác giả đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cơ
quan, tổ chức và cá nhân.
Với tình cảm chân thành tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả các
cơ quan, tổ chức và cá nhân đã giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Trước hết tác giả xin gửi tới Học viện Khoa học xã hội lời chào trân trọng,
lời chúc sức khỏe và lời cảm ơn sâu sắc.
Với các kiến thức mà các Thầy, Cô đã truyền đạt trong quá trình học tập tại
Học viện Khoa học xã hội và bản thân là Luật sư đã bào chữa (gỡ tội) cho nhiều
thân chủ (bị cáo) đến nay tác giả đã hoàn thành Luận văn, đề tài: “Giới hạn xét xử
sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh”.
Đặc biệt tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Tiến sĩ Đặng Quang
Phương - Nguyên Phó Chánh án Thường trực - Tòa án nhân dân tối cao đã hướng
dẫn cũng như cung cấp tài liệu, thông tin khoa học cần thiết cho tác giả hoàn thành
tốt Luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến lãnh đạo Tòa án nhân dân hai cấp Thành
phố Hồ Chí Minh, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Công an
Thành phố Hồ Chí Minh đã trực tiếp giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên
cứu.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các Luật sư đồng nghiệp, đơn vị công tác,
gia đình và bạn thân đã giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập,thực hiện Luận văn.

Tuy nhiên, do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế của một Học viên,
Luận văn này không thể tránh được những thiếu sót nhất định.
Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô, các Học
viên, các Luật sư đồng nghiệp và đơn vị công tác để kiến thức của tác giả trong lĩnh
vực này ngày càng hoàn thiện thêm nữa.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Khâu Văn Sĩ


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học xã hội.
Nay tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Khâu Văn Sĩ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM 7

1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm, khái niệm và ý nghĩa của giới hạn xét xử thẩm ........7
1.2. Mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với các nguyên tác cơ bản trong Tố
tụng hình sự ...............................................................................................................18
1.3. Tổng quan quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
năm 2003 về giới hạn xét xử sơ thẩm .......................................................................30
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH
PHỐ HỐ CHÍ MINH ..............................................................................................35
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về giới hạn xét xử sơ thẩm ..35
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về giới hạn
xét xử sơ thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................47
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH
QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM ......................................................57
3.1. Các yêu cầu bảo đảm thi hành quy định giới hạn xét xử sơ thẩm .....................57
3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm ..............66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp đã được Đảng và Nhà nước đã
quán triệt tại Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: “Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
hiệu lực cao”.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quá trình giải
quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong đó: Giai đoạn xét

xử sơ thẩm được coi là giai đoạn mang tính quyết định. Điều 9 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Để đảm bảo việc xét xử được chính xác, khách quan. Bộ luật Tố tụng hình sự
đã quy định Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp đã áp dụng tương đối thống nhất các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự trong hoạt động xét xử của mình.
Tuy hoạt động xét xử đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng hiệu quả
xét xử của Tòa án vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến hạn chế này là do những hạn chế, bất cập trong một số
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm.
Giới hạn xét xử sơ thẩm là chế định pháp lý quan trọng trong Tố tụng
hình sự. Xác định đúng đắn chế định này giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình trong việc xét xử sơ thẩm; khắc phục được tình trạng chồng chéo trong
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng như tình trạng bỏ lọt tội phạm
hay bỏ lọt hành vi phạm tội.

1


Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm là cơ sở pháp lý để xác định phạm vi
xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, đồng thời cũng thể hiện được mối quan hệ chặt
chẽ giữ Viện kiểm sát và Tòa án trong Tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là phạm
vi mà Hội đồng xét xử được phép xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó được hạn chế
trong phạm vi những người và những hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố và
Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Giới hạn xét xử chính là yếu tố bảo đảm chức năng xét xử Tòa án được
thực hiện. Mặt khác, còn đảm bảo nguyên tắc quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Bởi vì, Tòa án không được phép xét xử những người chưa bị truy tố hoặc không

được xét xử những hành vi của bị cáo mà Viện kiểm sát không bị truy tố.
Tuy nhiên, nghiên cứu lý luận và áp dụng trong thời gian qua thì quy
định giới hạn xét xử vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, còn nhiều điểm
chưa hợp lý. Bởi vì, quy định này cùng với nguyên tắc “Không làm xấu hơn
tình trạng của bị cáo”. Trong một số trường hợp đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và nguyên tắc “Độc lập xét xử của
Tòa án”.
Mặt khác, quy định về giới hạn xét xử hiện nay còn mâu thuẫn với nhiều
quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự; đã ảnh hưởng đến việc thực hiện
chức năng tố tụng của Tòa án và Viện kiểm sát. Những hạn chế, vướng mắc về
giới hạn xét xử sơ thẩm trong thực tiễn đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
giải quyết các vụ án hình sự, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong giai đoạn hiện nay.
Việc nghiên cứu vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm theo Pháp luật Tố tụng
hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh
nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Để từ đó tìm ra những hạn
chế, bất cập trong các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và những vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ
đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

2


động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp là cần thiết và
cấp bách.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Giới hạn xét xử sơ thẩm theo Pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn
tốt nghiệp trong thời điểm hiện nay là cần thiết và phù hợp với tiến trình cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến nay, vấn đề giới hạn
xét xử sơ thẩm là một trong những vấn đề pháp lý thu hút rất nhiều ý kiến tranh
luận. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận và
thực tiễn dưới các góc độ và mức độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu như: GS.TS Võ Khánh Vinh “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình
sự” Nhà Xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2013 [67]; Dư Tuyết Lạnh “Chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt nam từ thực tiễn thành
phố Cần Thơ” Luận văn Thạc sĩ Luật học - Học viện Khoa học xã hội, năm 2013
[20]; Nguyễn Thị Mai Thùy “Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” Luận văn Thạc sĩ Luật học - Học viện
Khoa học xã hội, năm 2013 [47]; Nguyễn Văn Đông “Phiên tòa hình sự sơ thẩm
theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” Luận văn Thạc
sĩ Luật học - Học viện Khoa học xã hội, năm 2015 [14]… Bên cạnh đó, một số bài
viết trao đổi, nghiên cứu về giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự nói chung và giới
hạn xét xử sơ thẩm nói riêng cũng xuất hiện rất nhiều và đã được đăng tải trên các
tạp chí chuyên ngành như: ThS. Vũ Gia Lâm “Về giới hạn xét xử của Tòa án” Tạp
chí Luật học, số: 05/1997 [22]; PGS.TS Phạm Hồng Hải “Bàn thêm về giới hạn xét
xử sơ thẩm” Tạp chí Luật học, số: 04/1998 [16]; ThS. Đinh Văn Quế “Một số vấn
đề về giới hạn xét xử sơ thẩm” Tạp chí Kiểm sát, số: 04/2006 [29]; PGS.TS Trần
Văn Độ “Hoàn thiện quy định của pháp luật về giới hạn xét xử” Tạp chí Tòa án
nhân dân, số: 03/2000 [13]; TS. Nguyễn Văn Huyên “Một số vấn đề về giới hạn xét
xử” Tạp chí Luật học, số: 06/2003 [18] …

3


Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đây và những công trình nghiên cứu
khác không được liệt kê chủ yếu đề cập đến các vấn đề khác nhau của giới hạn xét
xử sơ thẩm. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, việc xây

dựng nội dung điều luật về giới hạn xét xử sơ thẩm sao cho phù hợp với lý luận và
thực tiễn vẫn chưa đạt được hiệu quả cao, cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện
và đầy đủ vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm trong mối quan hệ với các quy định khác
của Pháp luật Tố tụng hình sự, trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để đưa ra
hướng hoàn thiện cho phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tổng thể những vấn đề lý luận về giới hạn
xét xử sơ thẩm, đánh giá thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân hai cấp Thành
phố Hồ Chí Minh, nhằm làm sáng tỏ nội dung khái niệm giới hạn xét xử sơ
thẩm. Để từ đó tìm ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân, đồng thời đề xuất
các giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn để góp phần hoàn thiện quy định giới
hạn xét xử sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn có nhiệm vụ giải quyết
những vấn đề sau:
- Nghiên cứu các quy định Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến giới hạn xét
xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này trong tiến trình cải cách tư pháp
hiện nay;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan
đến giới hạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra những hạn
chế, vướng mắc khi áp dụng quy định này trong công tác xét xử của Tòa án, đồng
thời xác định nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trên cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả xét xử của Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp.

4



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu: Quy phạm về giới hạn xét xử sơ thẩm theo Pháp luật
Tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề cụ thể về giới hạn xét xử trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm theo Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.
- Về không gian: Việc áp dụng pháp luật về giới hạn xét xử sơ thẩm tại
Tòa án hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng về Nhà nước và Pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu các tài liệu, bản án hình sự đã áp dụng quy định
giới hạn xét xử sơ thẩm; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích tổng hợp các số liệu, báo cáo của Tòa án hai cấp Thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2016; phương pháp đối chiếu các số liệu với
thực trạng quy định của pháp luật…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thông qua nghiên cứu đề tài đã phân tích, đối chiếu hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trên các phương diện lập pháp và thi hành pháp luật; đánh
giá thực trạng xét xử sơ thẩm và việc áp dụng pháp luật có liên quan đến giới
hạn xét xử sơ thẩm, chỉ ra được những bất cập trong quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp
hoàn thiện vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của
Tòa án.
Với những kết quả nghiên cứu, luận văn có thể được sử dụng như là một
tài liệu nghiên cứu, tham khảo có giá trị cho sinh viên, học viên tại các trường

5



đào tạo chuyên ngành luật cũng như có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho
những người làm công tác thực tiễn và những ai quan tâm đến lĩnh vực Tố tụng
hình sự.
7. Cơ cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm ba chương:
Chương 1: Khái niệm xét xử sơ thẩm, khái niệm và ý nghĩa của giới hạn
xét xử sơ thẩm.
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về giới hạn
xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm thi hành đúng quy định
về giới hạn xét xử sơ thẩm.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm, khái niệm và ý nghĩa của giới hạn xét
xử thẩm
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm
Trong khoa học pháp lý, quá trình giải quyết một vụ án hình sự gọi là Tố
tụng hình sự, quá trình này bao gồm toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố và xét
xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cá nhân, cơ quan
nhà nước và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật Tố tụng hình sự.
Xét xử là một trong ba chức năng cơ bản của Tố tụng hình sự (buộc tội,
gỡ tội và xét xử) và chỉ được thực hiện bởi một chủ thể duy nhất đó là Tòa án.

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [34].
Theo Từ điển Luật học: “Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất
pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của
vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản
chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc” [8, tr. 869].
Thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xem xét kết
quả của các hoạt động điều tra, truy tố, gỡ tội một cách công khai để đưa ra
phán quyết cuối cùng về vụ án.
Vì vậy, có thể nói hoạt động xét xử nói chung được coi là đặc biệt, quan
trọng và là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án. Các hoạt động
thuộc các giai đoạn trước đó chỉ là các hoạt động mang tính xác định, thu thập
thông tin, chứng cứ để chứng minh sự việc xảy ra một cách khách quan, nhưng
chưa phải là quá trình định tội. Để xác định một người là có tội và phải chịu
hình phạt thì việc đưa người đó ra xét xử công khai trước phiên tòa là một quy
định bắt buộc.

7


Nhằm bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì hoạt động
xét xử phải được thực hiện ở hai cấp xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Mỗi
cấp xét xử đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định đối với từng
vụ án, nhưng xét xử sơ thẩm được xem là một giai đoạn giữ vị trí trọng tâm và
có vai trò quan trọng bậc nhất trong toàn bộ quá trình tố tụng.
Trong thực tiễn nghiên cứu khoa học đã có nhiều học giả đưa ra khái
niệm về xét xử sơ thẩm:
- Theo ThS. Vũ Mạnh Thông và LG. Nguyễn Ngọc Điệp cho rằng: “Xét
xử sơ thẩm là một giai đoạn Tố tụng (tiếp sau giai đoạn truy tố). Trong đó: Tòa

án cấp sơ thẩm kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ trên cơ sở đó vận dụng
đúng đắn pháp luật để xác định một người có hành vi phạm tội hay không và
buộc người phạm tội phải chịu một hình phạt tương xứng với hành vi đó” [44,
tr.122].
- Theo ThS. Mạc Giáng Châu cho rằng: “Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn
của quá trình tố tụng. Trong đó: Tòa án có thẩm quyền sau khi xem xét hồ sơ vụ
án lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử nhằm xác định có hay không có hành vi
phạm tội và người thực hiện tội phạm? Từ đó, đưa ra bản án, quyết định phù
hợp với tính chất, mức độ của vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố” [10, tr. 111].
- Theo Từ điển Luật học: “Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét
xử tại một Tòa án có thẩm quyền” [8, tr. 870].
Nhìn chung, các khái niệm về xét xử sơ thẩm nêu trên đã chứa đựng đầy
đủ các yếu tố về chủ thể, khách thể và nội dung của một khái niệm. Nhưng nếu
xem xét riêng lẽ một khái niệm cụ thể thì tác giả nhận thấy:
Đối với khái niệm thứ nhất, tác giả chưa nêu được nội dung thuộc về bản
chất của xét xử sơ thẩm là giai đoạn xét xử ở cấp xét xử đầu tiên và bản án,
quyết định sau đã tuyên chưa có hiệu lực pháp luật.
Đối với khái niệm thứ hai và thứ ba, tương đối hợp lý vì đã khắc phục
được hạn chế của khái niệm thứ nhất ở chỗ đã nêu được một nội dung thuộc về
bản chất của xét xử sơ thẩm là lần đầu đưa vụ án ra xét xử. Nhưng cả hai khái

8


niệm này vẫn còn thiếu sót ở chỗ đã không nêu được hết nội dung còn lại thuộc
về bản chất của xét xử sơ thẩm là bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật vì có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc
thẩm.
Mặc khác, nếu chúng ta đối chiếu các khái niệm trên vào các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện nay thì các khái niệm nêu trên chỉ mới có ý

nghĩa tương đối. Bởi lẽ, cơ sở pháp lý làm phát sinh việc xét xử sơ thẩm không
chỉ là quyết định truy tố của Viện kiểm sát mà còn có quyết định của Tòa án cấp
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm về việc hủy bản án để xét xử lại. Ngoài
các phiên tòa sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử công khai còn
có những phiên tòa sơ thẩm không phải là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử công
khai là những phiên tòa xét xử sơ thẩm do bản án, quyết định sơ thẩm bị hủy để
điều tra, truy tố, xét xử lại hoặc chỉ xét xử lại.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì sau khi nghiên
cứu hồ sơ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thể quyết định
đưa vụ án ra xét xử theo trình tự sơ thẩm nếu thấy có đủ căn cứ. Khi đó, các
chứng cứ, tài liệu của vụ án được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập trong
quá trình điều tra, truy tố đều được xem xét một cách công khai tại phiên tòa.
Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được tranh luận, đối
đáp về những vấn đề của vụ án mà tại giai đoạn điều tra, truy tố họ không có
điều kiện thực hiện. Tại phiên tòa sơ thẩm, những người tiến hành tố tụng. Đặc
biệt là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải đánh giá chứng cứ một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ để đưa ra một phán quyết đúng đắn và có tính
thuyết phục cao nhằm giáo dục, cải tạo đối với bị cáo, đồng thời tuyên truyền ý
thức pháp luật trong quần chúng nhân dân thông qua hoạt động xét xử.
Từ những phân tích và lý giải trên, tác giả đưa ra một khái niệm khoa học
về xét xử sơ thẩm như sau: “Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn của quá trình tố
tụng và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định. Trong đó: Tòa án có thẩm quyền của cấp xét xử đầu tiên (thứ nhất), sau

9


khi nghiên cứu đầy đủ và toàn diện kết quả của các hoạt động trong các giai
đoạn trước đó, đưa vụ án ra xem xét công khai tại phiên tòa để xác định có hay
không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội hay không? Từ

đó, nhân danh Nhà nước ra bản án, quyết định với việc định tội danh và quyết
định hình phạt đối với người phạm tội sao cho phù hợp với hành vi phạm tội mà
Viện kiểm sát đã truy tố. Bản án, quyết định của Tòa án sau khi tuyên chưa có
hiệu lức thi hành vì có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm
trong thời hạn theo quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự”.
1.1.2. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm
Trong hoạt động xét xử nói chung, mỗi cấp xét xử đều có những chức
năng, nhiệm vụ nhất định đối với từng vụ án hình sự. Ngay cả đối với vụ án
thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chỉ có thể xem xét, quyết
định đối với những vấn đề của vụ án trong một phạm vi nhất định nào đó theo
quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự. Nghĩa là, khi xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, Tòa án chỉ được thực hiện quyền hạn của mình trong một giới hạn nhất định,
nếu vượt ra ngoài giới hạn đó, mọi quyết định của Tòa án đều không có giá trị
pháp lý. Vì vậy, giới hạn xét xử sơ thẩm là một vấn đề rất quan trọng, nó định ra
phạm vi thực hiện quyền hạn của Tòa án khi tiến hành xét xử sơ thẩm một vụ án
hình sự cụ thể.
Trong hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 chưa có văn bản nào đưa ra một khái niệm về giới hạn xét xử sơ
thẩm. Các văn bản pháp luật chỉ mới dừng lại ở mức liệt kê những trường hợp
hay những việc cụ thể mà Tòa án được quyền thực hiện trong từng giai đoạn
giải quyết một vụ án hình sự. Trong khoa học, khi bàn về vấn đề này, các học
giả trong nước cũng có nhiều quan điểm khác nhau chưa có sự thống nhất. Điển
hình như:
- Theo TS. Nguyễn Văn Hiện cho rằng: “Giới hạn xét xử cũng chính là
thẩm quyền xét xử mà thẩm quyền xét xử thì không chỉ bao hàm trong một điều
luật” [17, tr. 1 - 5]. Ở đây, tác giả đã có sự nhầm lẫn khi đồng nhất giới hạn xét

10



xử là thẩm quyền xét xử. Theo Từ điển Tếng việt: “Thẩm quyền là một danh từ
chỉ tư cách được Nhà nước trao cho thực hiện, tiến hành hay quyết định (một
việc)” [17, tr. 764], còn “Giới hạn là đặt một điểm, một đường, một mức độ,
không được vượt qua” [17, tr.341].
Như vậy, xét ở góc độ ngôn từ thì nội dung giới hạn xét xử không thể
đồng nghĩa là thẩm quyền xét xử. Nếu xét ở góc độ khoa học thì thẩm quyền xét
xử của Tòa án chính là quyền của Tòa án đó được xem xét giải quyết một vụ án
theo quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự, còn giới hạn xét xử là nội hàm của
thẩm quyền xét xử, dùng để chỉ trong phạm vi, mức độ nào đó Tòa án được
phép thực hiện và thuộc nội hàm thẩm quyền xét xử của Tòa án được phép xem
xét khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự.
- Theo TS. Đặng Quang Phương cho rằng: “Giới hạn xét xử là sự thể
hiện nội dung của vấn đề nguyên tắc độc lập xét xử” [26, tr. 43]. Nhưng giới
hạn xét xử sơ thẩm là một trong những nội dung của mối quan hệ chế ước giữa
Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự. Mặc dù, có
liên quan đến nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”, song về nội dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử và của
nguyên tắc độc lập khi xét xử hoàn toàn khác nhau. Giới hạn xét xử có ý nghĩa
rất lớn trong việc thể chế hóa quan hệ chế ước giữa Viện kiểm sát và Tòa án để
tránh sự lạm quyền, đảm bảo cho hoạt động tố tụng đạt hiệu quả, không để lọt
tội phạm và không làm oan người vô tội. Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là nguyên tắc hiến định
nhằm đảm bảo cho việc xét xử của Hội đồng xét xử được tiến hành một cách
khách quan, không bị bất kỳ cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào can thiệp. Vì
vậy, nguyên tắc độc lập xét xử chỉ là một trong những cơ sở để quy định giới
hạn xét xử chứ không phải là nội dung của giới hạn xét xử.
- Theo PGS.TS. Phạm Hồng Hải cho rằng: “Giới hạn xét xử là Tòa án chỉ
xét xử về hình sự đối với những bị cáo và những hành vi đã bị Viện kiểm sát
truy tố mà Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.” còn “Giới hạn xét xử sơ


11


thẩm vụ án hình sự có thể hiểu là phạm vi những người, những hành vi mà Hội
đồng xét xử sơ thẩm được xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn
mà ngược lại nó được hạn chế bởi phạm vi những người, những hành vi mà
Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.” [16, tr.
36-39].
Tác giả nhận thấy đây là khái niệm về giới hạn xét xử sơ thẩm hợp lý
nhất vì nó chứa đựng đầy đủ các yếu tố cơ bản của một khái niệm, đó là chủ thể,
khách thể và nội dung cơ bản thuộc về bản chất của vấn đề. Ở đây, chủ thể thực
hiện được xác định là Tòa án có thẩm quyền xét xử, khách thể chính là hành vi
và chủ thể bị truy tố và đưa ra xét xử. Còn nội dung cơ bản thuộc về bản chất
của giới hạn chính là phạm vi mà Tòa án - Chủ thể thực hiện được phép tiến
hành khi thực hiện quyền xét xử, thực hiện “Quyền tư pháp” theo Hiến pháp
năm 2013.
Theo Từ điển Luật học: “Giới hạn xét xử sơ thẩm là phạm vi Tòa án cấp
sơ thẩm được xem xét và giải quyết về vụ án” [8, tr. 309]. Đây là một khái niệm
mang tính chung nhất, chưa thể hiện được nội dung cụ thể của vấn đề giới hạn
xét xử sơ thẩm. Theo đó, phạm vi mà Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét và giải
quyết về vụ án sẽ được xác định ở đâu? Đến mức độ nào? Thì khái niệm còn
chưa đề cập. Thông qua đó, các nhà làm luật đã pháp điển hóa vào trong quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 quy định: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh
mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát
đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội
mà Viện kiểm sát đã truy tố” [32].
Như vậy, từ khái niệm về giới hạn xét xử trong Từ điển Luật học và nội
dung của quy định giới hạn xét xử mà các nhà làm luật đã pháp điển hóa tại

Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015, có thể hiểu: “Giới hạn xét xử sơ thẩm là phạm vi những bị cáo,

12


những hành vi của bị cáo mà Tòa án cấp sơ thẩm được xét xử tại phiên tòa theo
tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án quyết định đưa ra xét xử hoặc
Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện
kiểm sát đã truy tố”.
Có thể nói nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm theo quy định tại Điều 196
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 là một trong những nội dung tiến bộ hơn quy định giới hạn xét xử tại Điều
170 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ở chỗ cho phép Tòa án khi giải quyết
vụ án có toàn quyền độc lập quyết định khung hình phạt có thể nặng hơn hoặc
nhẹ hơn khung hình phạt theo tội danh Viện kiểm sát truy tố và quyết định
chuyển tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Tuy nhiên, quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 và Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn chưa thật
sự hoàn thiện vì không cho phép Tòa án cấp sơ thẩm được xét xử bị cáo và hành
vi của bị cáo đã thực hiện về một tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện
kiểm sát đã truy tố.
Đây là một trong những hạn chế rất lớn, đã vi phạm và thậm chí còn đi
ngược một số nguyên tắc cơ bản trong Tố tụng hình sự như: Nguyên tắc xác
định sự thật của vụ án…Đặc biệt, là nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Từ việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quan điểm của các học giả và
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm, cùng với việc
phân tích nội dung khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được trình bày ở
phần trên, tác giả đưa ra khái niệm khoa học về giới hạn xét xử sơ thẩm như

sau: “Giới hạn xét xử sơ thẩm là phạm vi những hành vi và những người đã bị
Viện kiểm sát truy tố bằng bản cáo trạng và Tòa án có thẩm quyền của cấp xét
xử đầu tiên quyết định đưa ra xét xử mà Hội đồng xét xử được quyền xem xét
một cách công khai tại phiên tòa để xác định những hành vi bị truy tố và đưa ra
xét xử đó có phải là hành vi phạm tội hay không? Những người bị truy tố và đưa

13


ra xét xử đó có phải là người thực hiện hành vi phạm tội hay không? Từ đó nhân
danh Nhà nước ra bản án, quyết định với việc định tội danh và quyết định hình
phạt (nếu có) sao cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”.
1.1.3. Ý nghĩa giới hạn xét xử sơ thẩm
1.1.3.1. Về chính trị - Xã hội
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải chánh tư pháp đến năm 2020, Đảng và Nhà nước đã xác định:
“Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm
bảo công khai, dân chủ, văn minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [1].
Theo đó, phải đổi mới toàn bộ hệ thống Tòa án, hệ thống các Cơ quan
Điều tra, Viện kiểm sát và các Cơ quan Bổ trợ Tư pháp khác cũng như hoạt
động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng
này, đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, Bộ luật Tố tụng hình sự
nói riêng. Trong đó có quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm nhằm thực hiện
những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
Mặt khác, việc triển khai rà soát, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật
về Tố tụng hình sự. Trong đó: Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm để góp phần
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo

đảm pháp chế trong hoạt động xét xử là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
nhằm đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Vì vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi bổ sung quy định về
giới hạn xét xử sơ thẩm là cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong
việc triển khai đường lối, chủ trương của Đảng trong hoạt động tư pháp.
Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm thể hiện rõ sự phân định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước đối với Tòa án và Viện kiểm sát đã được
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, đồng thời còn thể hiện rõ mối quan hệ phối hợp

14


và chế ước lẫn nhau giữa hai cơ quan. Tòa án và Viện kiểm sát là hai cơ quan
tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực Nhà nước một cách
khách quan, công minh vì lợi ích của Nhà nước, xã hội, cũng như lợi ích của
công dân. Vì vậy, việc nhận thức và quy định giới hạn xét xử sơ thẩm một cách
đúng đắn sẽ là cơ sở bảo đảm cho bị cáo thực hiện được những quyền cơ bản
của mình mà cụ thể là bảo đảm cho bị cáo có thể thực hiện quyền bào chữa tại
phiên tòa, đồng thời là cơ sở đảm bảo cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, góp phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế Xã hội Chủ nghĩa, bảo
đảm công bằng xã hội.
1.1.3.2. Về pháp lý
Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm là một trong các quy định đảm bảo cho
hoạt động xét xử được thực hiện theo một trình tự nhất định và đảm bảo tính
chính xác cho hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng.
Đặc biệt, là đối với Tòa án trong việc thực hiện chức năng xét xử để xem xét và
quyết định các vấn đề cụ thể về vụ án. Từ đó hạn chế hoặc ngăn chặn sự tùy tiện
cũng như lạm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát trong Tố tụng hình sự; đảm
bảo cho bản án, quyết định của Tòa án thật sự khách quan, đúng pháp luật.
Vấn đề giới hạn xét xử lần đầu tiên được pháp điển hóa tại Điều 170 Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 1988: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành
vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét
xử” [31]. Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 kế thừa và quy định tại Điều
196: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện
kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tòa án có thể xét xử bị
cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều
luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”
[32]. Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa và quy định tại Điều 298:
“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm
sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tòa án có thể xét xử bị cáo

15


theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật
hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”.
Đây là các quy định có ý nghĩa rất lớn cả về mặt lý luận và kỹ thuật lập
pháp trong hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống Pháp luật Tố tụng hình sự.
Theo nội dung của điều luật đã xác định cụ thể giới hạn xét xử của Tòa án là khi
xét xử, Tòa án phải căn cứ vào bản cáo trạng để xem xét các vấn đề của vụ án,
Hội đồng xét xử không được xét xử những người và những hành vi không bị
Viện kiểm sát truy tố và không được Tòa án quyết định đưa ra xét xử; không
được xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã
truy tố, nhưng được xét xử bị cáo theo khoản khác nặng hơn trong cùng một
điều luật hoặc có thể xét xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội
danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Những quy định này phần nào khắc phục được những hạn chế, vướng
mắc trong mối quan hệ tố tụng giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong hoạt động
xét xử, giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan.
Tuy nhiên, từ khi được pháp điển hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự cho

đến nay, việc áp dụng quy định giới hạn xét xử vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế,
vướng mắc cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung để
hoàn thiện trong thời gian tới.
Do vậy, việc nhận thức một cách đúng đắn về nội dung của vấn đề giới
hạn xét xử là nền tảng quan trọng trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện Bộ
luật Tố tụng hình sự trong thời gian tới.
1.1.3.3. Về thực tiễn
Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, quy định giới hạn việc xét xử tại
Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã góp phần đảm bảo quyền bào
chữa của bị cáo tại phiên tòa, đã thể hiện rõ mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và
Viện kiểm sát trong hoạt động Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quy định này vẫn
còn tồn tại những bất cập và đã gây ra những khó khăn trong thực tế áp dụng.

16


Bởi vì, Tòa không được xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố.
Theo Nghị quyết số: 04/2004/NQ - HĐTP ngày 05 tháng 11 năm 2004
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số: 04/2004/NQ-HĐTP) chỉ hướng dẫn thi
hành đoạn 2 Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là Tòa án có thể xét xử
bị cáo theo khoản khác nặng hơn khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo
trong cùng một điều luật hoặc xét xử bị cáo về tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn
tội danh Viện kiểm sát đã truy tố mà không hướng dẫn về trường hợp Tòa án
thấy cần xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát
truy tố.
Vì vậy, khi Tòa án phát hiện bị cáo phạm một tội khác nặng hơn thì chỉ
được ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung theo tội nặng

hơn đối với bị cáo. Nhưng Viện kiểm sát không đồng ý thay đổi tội danh nặng
hơn đó mà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì buộc Tòa án vẫn phải đưa vụ
án ra xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Điều này, cho thấy Tòa
án hoàn toàn phụ thuộc vào tội danh của Viện kiểm sát đã truy tố nên không
đảm bảo nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”.
Trên thực tế đã có những phiên tòa sau khi đánh giá chứng cứ, Hội đồng
xét xử đã nhận định bị cáo phạm một tội nặng hơn, nhưng buộc phải tuyên bị
cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Việc buộc Tòa án phải xét xử bị
cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố có thể hiểu là bị cáo đã được xem
có tội trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Điều này hoàn toàn trái ngược với
nguyên tắc “Suy đoán vô tội” được quy định tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 và Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đây là những nguyên
nhân cho thấy việc tiếp tục hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm là vô
cùng cần thiết và cấp bách.

17


Từ thực tiễn đã chỉ ra cho thấy vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm cần được
tổng kết, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Việc nghiên cứu và nhận
thức đúng về nội dung của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm để sửa đổi, bổ sung
trong thời gian tới sẽ giải quyết được hạn chế trong mối quan hệ chế ước giữa
Tòa án và Viện kiểm sát. Đặc biệt là hạn chế trong hoạt động xét xử của Tòa án
trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với các nguyên tác cơ
bản trong Tố tụng hình sự
Các nguyên tắc cơ bản của trong Tố tụng hình sự có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau tạo thành hệ thống quan điểm, tư tưởng nền tảng định hướng, chi
phối cho tất cả các hoạt động Tố tụng hình sự. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản

này có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần vào việc bảo đảm cho hoạt động Tố
tụng hình sự được diễn ra thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân khi tham gia tố tụng. Đặc biệt, có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng
Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, khi quy định giới hạn xét xử sơ thẩm, các nhà
làm luật cần phải căn cứ vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình
sự. Theo tác giả, khi quy định giới hạn xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào các
nguyên tắc cơ bản sau đây:
1.2.1. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm Pháp chế Xã hội Chủ
nghĩa
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung và các quy phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự nói riêng để góp phần
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Do vậy, để các cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân, Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định
nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động Tố tụng hình sự. Đó là, nguyên
tắc bảo đảm pháp chế Xã hội Chủ nghĩa.

18


Bảo đảm pháp chế Xã hội Chủ nghĩa tức là bảo đảm mọi hoạt động của
các chủ thể phải tuân theo pháp luật. Trong hoạt động Tố tụng hình sự, nguyên
tắc bảo đảm pháp chế Xã hội Chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng,
những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tuân thủ triệt để,
nghiêm chỉnh, thống nhất các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải hoạt
động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của
pháp luật nói chung và Bộ luật Tố tụng hình sự nói riêng. Mọi hành vi lạm

quyền hoặc vượt quá chức năng, nhiệm vụ đều được xem là vi phạm nguyên tắc
pháp chế Xã hội Chủ nghĩa trong hoạt động Tố tụng hình sự.
Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng và là chủ thể duy nhất thực hiện chức
năng xét xử, cần tuân thủ nghiêm chỉnh, triệt để các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Giới hạn xét xử sơ thẩm là một quy định rất quan trọng thể hiện
nội dung của mối quan hệ chế ước giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm. Vì lẽ đó, việc xác định giới hạn xét xử sơ thẩm các nhà làm luật
cần phải căn cứ vào tư tưởng chỉ đạo của nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội
Chủ nghĩa để xây dựng thành một nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
1.2.2. Mối quan hệ với nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Đây cũng là một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động Tố tụng hình sự
đã được Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của công dân. Theo đó, một người luôn được coi là
không có tội, nếu chưa bị kết án bằng một bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Điều này có nghĩa là Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền kết tội
một người nào đó và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trên cơ sở xem
xét, đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện tại phiên tòa.
Như vậy, nội dung của nguyên tắc này chính là quy định trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can, bị cáo có
quyền nhưng không buộc phải có trách nhiệm chứng minh. Mọi nghi ngờ trong

19


quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu chưa có đủ cơ sở chứng minh đều phải
được giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Một người chỉ bị coi là có
tội và bị áp dụng hình phạt khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Theo đó, quá trình xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nếu sau khi xem xét,
đánh giá các chứng cứ một cách khách quan, toàn diện tại phiên tòa mà chưa đủ

chứng cứ chứng minh bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử đã thực hiện hành vi
phạm tội thì Hội đồng xét xử phải tuyên bố bị cáo không phạm tội. Vì thế, trong
chừng mực nào đó, các nhà làm luật cũng cần lưu ý đến nguyên tắc không ai bị
coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật làm cơ sở xây dựng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm cho phù
hợp với nội dung của nguyên tắc.
1.2.3. Mối quan hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Quá trình giải quyết một vụ án trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, song
các giai đoạn này, đều có chung một mục đích là tìm ra sự thật của vụ án. Để
đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cao thì mọi hành vi phạm tội đều
phải được phát hiện kịp thời và bị xử lý theo quy định của pháp luật. Vì vậy, xác
định sự thật vụ án là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án và
đã được Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong hoạt động Tố tụng hình sự. Xác định sự thật của vụ án là yêu cầu khách
quan trong việc giải quyết vụ án. Bởi lẽ, chỉ khi xác định được sự thật của vụ án
thì vụ án mới được giải quyết chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Theo đó, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải xác định toàn bộ diễn biến của việc phạm tội đã xảy ra một
cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác; làm rõ những chứng cứ buộc tội,
chứng cứ gỡ tội. Trách nhiệm xác định sự thật của vụ án thuộc về các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền nhưng không
bắt buộc phải chứng minh.
Khi tiến hành xét xử một vụ án, Tòa án cần phải áp dụng mọi biện pháp
hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ để

20


×