Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Giới hạn xét xử sơ thẩm theo Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.45 KB, 25 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHÂU VĂN SĨ

GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Quang Phương

Phản biện 1: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn
Phản biện 2: TS. Võ Thị Kim Oanh

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 30 ngày 10 tháng 10 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quá
trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Trong đó: Giai đoạn xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn mang tính
quyết định. Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Giới hạn xét xử chính là yếu tố bảo đảm chức năng xét xử
Tòa án được thực hiện. Mặt khác, còn đảm bảo nguyên tắc quyền
bào chữa của bị can, bị cáo. Bởi vì, Tòa án không được phép xét xử
những người chưa bị truy tố hoặc không được xét xử những hành vi
của bị cáo mà Viện kiểm sát không bị truy tố.
Việc nghiên cứu vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm theo Pháp
luật Tố tụng hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng tại
Thành phố Hồ Chí Minh nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như
thực tiễn. Để từ đó tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự và những vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó, đề xuất
các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp là
cần thiết và cấp bách.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Giới hạn xét xử sơ thẩm theo
Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp trong thời điểm hiện nay là cần
1


thiết và phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu

Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến nay,
vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm là một trong những vấn đề pháp lý
thu hút rất nhiều ý kiến tranh luận. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn dưới các
góc độ và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau, việc xây dựng nội dung điều luật về giới hạn
xét xử sơ thẩm sao cho phù hợp với lý luận và thực tiễn vẫn chưa đạt
được hiệu quả cao, cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện và đầy
đủ vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm trong mối quan hệ với các quy
định khác của Pháp luật Tố tụng hình sự, trong mối quan hệ giữa lý
luận và thực tiễn để đưa ra hướng hoàn thiện cho phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tổng thể những vấn đề lý luận
về giới hạn xét xử sơ thẩm, đánh giá thực tiễn áp dụng tại Tòa án
nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét xử
sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trên cơ sở lý luận
và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án theo tinh thần
cải cách tư pháp.

2


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu: Quy phạm về giới hạn xét xử sơ thẩm
theo Pháp luật Tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng tại Thành phố
Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề cụ thể về giới hạn xét xử
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo Pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam.
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.
- Về không gian: Việc áp dụng pháp luật về giới hạn xét xử
sơ thẩm tại Tòa án hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng về Nhà nước và Pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu các tài liệu, bản án hình sự đã áp
dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm; phương pháp thống kê;
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp các số liệu,
báo cáo của Tòa án hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011
đến năm 2016; phương pháp đối chiếu các số liệu với thực trạng quy
định của pháp luật…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Với những kết quả nghiên cứu, luận văn có thể được sử dụng
như là một tài liệu nghiên cứu, tham khảo có giá trị cho sinh viên,
3


học viên tại các trường đào tạo chuyên ngành luật cũng như có thể sử
dụng làm tài liệu phục vụ cho những người làm công tác thực tiễn và
những ai quan tâm đến lĩnh vực Tố tụng hình sự.
7. Cơ cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Khái niệm xét xử sơ thẩm, khái niệm và ý nghĩa

của giới hạn xét xử sơ thẩm.
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
về giới hạn xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm thi hành
đúng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM

1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm, khái niệm và ý nghĩa của
giới hạn xét xử thẩm
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn của quá trình tố tụng và
được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định. Trong đó: Tòa án có thẩm quyền của cấp xét xử đầu tiên (thứ
nhất), sau khi nghiên cứu đầy đủ và toàn diện kết quả của các hoạt
động trong các giai đoạn trước đó, đưa vụ án ra xem xét công khai tại
phiên tòa để xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có
phải là người phạm tội hay không? Từ đó, nhân danh Nhà nước ra
bản án, quyết định với việc định tội danh và quyết định hình phạt đối
với người phạm tội sao cho phù hợp với hành vi phạm tội mà Viện
kiểm sát đã truy tố. Bản án, quyết định của Tòa án sau khi tuyên
chưa có hiệu lức thi hành vì có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm trong thời hạn theo quy định của Pháp luật Tố
tụng hình sự.
1.1.2. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm

Giới hạn xét xử sơ thẩm là phạm vi những hành vi và những
người đã bị Viện kiểm sát truy tố bằng bản cáo trạng và Tòa án có
thẩm quyền của cấp xét xử đầu tiên quyết định đưa ra xét xử mà Hội
đồng xét xử được quyền xem xét một cách công khai tại phiên tòa để
xác định những hành vi bị truy tố và đưa ra xét xử đó có phải là hành
vi phạm tội hay không? Những người bị truy tố và đưa ra xét xử đó
5


có phải là người thực hiện hành vi phạm tội hay không? Từ đó nhân
danh Nhà nước ra bản án, quyết định với việc định tội danh và quyết
định hình phạt (nếu có) sao cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
1.1.3. Ý nghĩa giới hạn xét xử sơ thẩm
1.1.3.1. Về chính trị - Xã hội
Việc nhận thức và quy định giới hạn xét xử sơ thẩm một
cách đúng đắn sẽ là cơ sở bảo đảm cho bị cáo thực hiện được những
quyền cơ bản của mình mà cụ thể là bảo đảm cho bị cáo có thể thực
hiện quyền bào chữa tại phiên tòa, đồng thời là cơ sở đảm bảo cho
Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần bảo
đảm nguyên tắc pháp chế Xã hội Chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã
hội.
1.1.3.2. Về pháp lý
Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm có ý nghĩa rất lớn cả về
mặt lý luận và kỹ thuật lập pháp trong hoạt động xây dựng, hoàn
thiện hệ thống Pháp luật Tố tụng hình sự.
1.1.3.3. Về thực tiễn
Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, quy định giới hạn
việc xét xử tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã góp
phần đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa, đã thể hiện rõ

mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong hoạt động
Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn tồn tại những bất
cập và đã gây ra những khó khăn trong thực tế áp dụng.

6


1.2. Mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với các
nguyên tác cơ bản trong Tố tụng hình sự
Các nguyên tắc cơ bản của trong Tố tụng hình sự có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành hệ thống quan điểm, tư tưởng
nền tảng định hướng, chi phối cho tất cả các hoạt động Tố tụng hình
sự. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản này có ý nghĩa rất quan trọng,
góp phần vào việc bảo đảm cho hoạt động Tố tụng hình sự được diễn
ra thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi
tham gia tố tụng. Đặc biệt, có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng Bộ
luật Tố tụng hình sự.
1.2.1. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm Pháp chế Xã
hội Chủ nghĩa
Bảo đảm pháp chế Xã hội Chủ nghĩa tức là bảo đảm mọi
hoạt động của các chủ thể phải tuân theo pháp luật. Trong hoạt động
Tố tụng hình sự, nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội Chủ nghĩa đòi
hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng phải tuân thủ triệt để, nghiêm chỉnh, thống
nhất các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
1.2.2. Mối quan hệ với nguyên tắc không ai bị coi là có tội
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Nội dung của nguyên tắc này chính là quy định trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can,

bị cáo có quyền nhưng không buộc phải có trách nhiệm chứng minh.
Mọi nghi ngờ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu chưa có đủ
7


cơ sở chứng minh đều phải được giải thích theo hướng có lợi cho bị
can, bị cáo. Một người chỉ bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt khi
có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
1.2.3. Mối quan hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án
Xác định sự thật vụ án là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá
trình giải quyết vụ án và đã được Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận là
một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động Tố tụng hình sự.
Xác định sự thật của vụ án là yêu cầu khách quan trong việc giải
quyết vụ án. Bởi lẽ, chỉ khi xác định được sự thật của vụ án thì vụ án
mới được giải quyết chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội..
1.2.4. Mối quan hệ với nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự đã ghi nhận
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Đây vừa là nguyên tắc hiến định vừa là nguyên
tắc cơ bản của Tố tụng hình sự và là nguyên tắc bảo đảm các phán
quyết của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
1.2.5. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo
Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền Tố tụng hình sự tạo
khả năng cho người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo bào chữa


8


cho hành vi do mình thực hiện đã bị buộc tội và bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp khác”.
1.2.6. Mối quan hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội
Ở nước ta, nguyên tắc suy đoán vô tội mặc dù chưa được
công nhận một cách chính thức, nhưng tư tưởng của nguyên tắc này
đã được đề cập trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình
sự thông qua nội dung của hai nguyên tắc: “Không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật” và “Xác định sự thật của vụ án”.
1.2.7. Mối quan quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm khởi
tố và xử lý vụ án hình sự
Tòa án và Viện kiểm sát là hai cơ quan tiến hành tố tụng có
chung mục đích là giải quyết vụ án thật sự khách quan, toàn diện,
đầy đủ, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo lợi ích của Nhà nước,
lợi ích của xã hội, lợi ích tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, để thực hiện
được mục đích chung đó, Tòa án và Viện kiểm sát mỗi cơ quan lại có
một chức năng riêng. Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, còn chức năng của Tòa
án là xét xử bảo đảm sự công bằng, bình đẳng trước pháp luật.
1.3. Tổng quan quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 về giới hạn xét xử sơ thẩm
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Trong hệ thống Bộ luật Tố tụng hình sự nước ta từ năm
1945, vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm chưa có bất kỳ một văn bản
9



pháp luật nào có giá trị như là Bộ luật hay Luật điều chỉnh, mà chỉ có
Thông tư số: 16/TATC ngày 27 tháng 9 năm 1974 của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn việc giải quyết vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm
bắt buộc phải thông qua việc trao đổi, thỏa hiệp giữa Tòa án với Viện
kiểm sát tại cuộc hợp trù bị. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả xét xử của Tòa án.
1.3.2. Giai đọan từ năm 1988 đến năm 2003
Đến khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, việc giải
quyết vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm không còn thông qua việc trao
đổi thỏa hiệp giữa Tòa án với Viện kiểm sát tại cuộc họp trù bị nữa
mà thay vào đó căn cứ vào quy định tại Điều 170 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988. Cụ thể: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những
hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết
định đưa ra xét xử” [31]. Theo đó, vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm
được thể hiện qua các nội dung chính sau:
* Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo và những hành vi đã
bị Viện kiểm sát truy tố bằng một bản cáo trạng
Giới hạn xét xử của Tòa án chính là phạm vi những người và
những hành vi đã bị Viện kiểm sát truy tố trong cáo trạng.
* Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi mà Tòa
án đã quyết định đưa ra xét xử
Giới hạn xét xử của Tòa án chính là phạm vi những người và
những hành vi bị Viện kiểm sát truy tố đã được đưa ra xét xử bằng
một Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

10


* Tòa án chỉ được xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã

truy tố
Đây là nội dung hoàn toàn mâu thuẫn với nguyên tắc Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
và nguyên tắc xác định sự thật vụ án.
Kết luận Chương 1
Vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm hiện đang thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Tố tụng hình
sự, cũng như các nhà hoạt động thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận về
giới hạn xét xử sơ thẩm giúp chúng ta hiểu rõ hơn nội dung giới hạn
xét xử sơ thẩm.

11


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HỐ CHÍ MINH

2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về
giới hạn xét xử sơ thẩm
So với quy định về giới hạn việc xét xử tại Điều 170 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988, thì quy định giới hạn việc xét xử trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã có những điểm khác biệt, quy
định được bổ sung một cách cụ thể và chặt chẽ hơn trong đường lối
xét xử. Cụ thể Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà
Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội

khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố” [32].
2.1.1. Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi
theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định
đưa ra xét xử
Đây là nội dung kế thừa toàn bộ nội dung quy định tại Điều
170 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.
2.1.2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với
khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc
về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội Viện kiểm sát đã truy tố

12


Đây mặc dù là nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003, nhưng xét về thực tiễn áp dụng thì thực chất nội dung này
đã được Tòa án nhân dân các cấp áp dụng trước khi Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 có hiệu lực.
2.1.3. Giới hạn xét xử trong trường hợp Viện kiểm sát rút
một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ
hơn tại phiên tòa
Việc quy định Tòa án vẫn xét xử khi Kiểm sát viên rút toàn
bộ quyết định truy tố tại phiên tòa nếu bị cáo không có tội thì tuyên
bố bị cáo không tội là chưa phù hợp vì Tòa án vẫn xét xử và kết tội
thì Tòa án đã làm thay chức năng buộc tội của Viện kiểm sát dẫn đến
tình trạng Tòa án vừa buộc tội vừa xét xử làm ảnh hưởng đến tính
khách quan và xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị buộc tội.
2.1.4. Tòa án thấy cần xét xử theo tội danh nặng hơn tội
danh mà Viện kiểm sát đã truy tố
Bảm bảo được các nguyên tắc cơ bản và các quy định khác

trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đồng thời còn đảm bảo được Tòa án là
cơ quan thực hiện chức năng xét xử (Quyền Tư pháp) không còn phụ
thuộc vào sự đánh giá của Viện kiểm sát đối với hành vi phạm tội
của bị cáo; được quyền độc lập quyết định tội danh và đưa ra những
phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan
người vô tội và không bỏ lọt tội phạm.

13


2.2. Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Thành phố Hồ
Chí Minh
2.2.1. Tổng quan kết quả thi hành quy định về giới hạn xét
xử sơ thẩm
Việc áp dụng quy định giới hạn việc xét xử trong hoạt động
xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ
Chí Minh trong thời gian vừa qua đã đạt những kết quả nhất định, tạo
sự công bằng và nâng cao vị thế của các cơ quan bảo vệ pháp luật,
khẳng định được vị trí và vai trò của Tòa án trong công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
2.2.2. Những vi phạm, sai lầm và nguyên nhân trong thi
hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm
2.2.2.1. Những vi phạm, sai lầm
Các cơ quan tiến hành tố tụng có quan điểm không thống
nhất với nhau về tội danh nên việc áp dụng quy định về giới hạn xét
xử sơ thẩm dẫn đến tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần
ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng, nhiều vụ án giải quyết kéo dài gây
bức xúc cho những người tham gia tố tụng.
* Trường hợp Tòa án xét xử theo khoản khác với khoản mà

Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật
* Trường hợp Tòa án xét xử hành vi của bị cáo về một tội
danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố
* Trường hợp Tòa án thấy cần xét xử bị cáo theo tội danh
nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố
14


* Trường hợp tại phiên tòa Kiểm sát viên rút một phần quyết
định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn nhưng Tòa án vẫn xét xử vụ
án
2.2.2.2. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm
* Nguyên nhân do quy định của pháp luật chưa đầy đủ
* Nguyên nhân do hướng dẫn thi hành và tập huấn
* Nguyên nhân từ phía chủ thể tiến hành tố tụng
* Nguyên nhân khác
Phẩm chất của một bộ phận cán bộ bị cơ chế thị trường chi
phối thiếu sự công tâm, khách quan trong khi xem xét giải quyết vụ
án. Tinh thần đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai của một bộ
phận cán bộ bị giảm sút dẫn đến thiên vị, sai lệch, bao che.
Điều kiện và phương tiện làm việc của các cơ quan bảo vệ
pháp luật chưa đáp ứng được tính chất phức tạp của công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tính hình mới.
Tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác còn thấp làm ảnh
hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của đội ngũ cán bộ tư pháp.
Kết luận Chương 2
Qua thực tiễn thi hành quy định này đã bộc lộ những hạn
chế, bất cập như: Tính độc lập trong xét xử của Tòa án chưa được
thực hiện một cách đúng nghĩa, Tòa án bị ràng buộc quá chặt vào
quyết định truy tố của Viện kiểm sát… đã làm ảnh hưởng đến việc

xác định sự thật khách quan của vụ án.
Vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá nội dung vấn đề giới
hạn xét xử sơ thẩm cần phải tiến hành trên cơ sở lý luận và thực tiễn
15


để làm căn cứ cho việc sửa đổi, bổ sung quy định về giới hạn xét xử
sơ thẩm cho phù hợp bối cảnh Đảng và Nhà nước đang tiến hành cải
cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ
nghĩa.

16


Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH
QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
3.1. Các yêu cầu bảo đảm thi hành quy định giới hạn xét
xử sơ thẩm
3.1.1. Yêu cầu của các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình
sự
Việc tuân thủ chặt chẽ và thực hiện triệt để các nguyên tắc cơ
bản trong Tố tụng hình sự là trách nhiệm, nghĩa vụ của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
3.1.2. Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, Bộ luật Tố
tụng hình sự nói riêng, trong đó có quy định giới hạn xét xử sơ thẩm
là hết sức cần thiết, để góp phần vào việc xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.1.3. Yêu cầu của việc thực hiện quyền tư pháp

Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ tính pháp quyền của nền tư
pháp nước ta khi thừa nhận Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực
hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
3.1.4. Yêu cầu bảo vệ quyền con người
Bộ luật Tố tụng hình sự là Bộ luật liên quan trực tiếp đến
những quyền cơ bản của con người. Bộ luật Tố tụng hình sự hiện
17


hành đã có những quy định bảo đảm cho những quyền cơ bản nhất
của con người. Trong quá trình áp dụng, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 đã bộc lộ những bất cập, làm hạn chế việc bảo đảm quyền
con người, trong đó có quy định về giới hạn việc xét xử sơ thẩm và
những quy định liên quan.
3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành quy định về giới hạn
xét xử sơ thẩm
3.2.1. Đưa Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vào cuộc
sống
So với quy định giới hạn việc xét xử tại Điều 196 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 thì quy định giới hạn việc xét xử tại Điều 298
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung rất
lớn theo hướng mở rộng phạm vi giới hạn việc xét xử của Tòa án bảo
đảm cho các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thật sự độc lập khi
tiến hành xét xử mà không còn phụ thuộc tội danh của Viện kiểm sát
đã truy tố và điều này sẽ góp phần vào việc xét xử của Tòa án thực
sự đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
3.2.2 Tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự về giới

hạn xét xử sơ thẩm
Qua nghiên cứu các vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ
thẩm cũng như các quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả nhận thấy
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27
tháng 11 năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung rất lớn về vấn đề
giới hạn xét xử sơ thẩm theo hướng mở rộng phạm vi giới hạn xét xử
18


của Tòa án so với quy định tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003. Đó là, quy định cho Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh
nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Đây rõ ràng là nội
dung sửa đổi, bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm
cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thật sự độc lập xét xử không
còn phụ thuộc tội danh của Viện kiểm sát truy tố nữa. Điều này đã
đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án thực sự đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật nên tác giả hoàn toàn đồng tình.
3.2.3. Tăng cường năng lực, nâng cao trình độ những
người tiến hành tố tụng
Để đảm bảo quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm nói riêng và
các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nói chung được thi hành
nghiêm túc và có hiệu quả cần phải tiếp tục xây dựng đội ngũ Kiểm
sát viên và Thẩm phán đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong
điều kiện hiện nay.
3.2.4. Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động Tòa án
nhân dân
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp theo hướng
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức; điều kiện, phương
tiện làm việc, bảo đảm thực hiện tốt các nguyên tắc hiến định: “Tòa

án thực hiện chế độ hai cấp xét xử”, “Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; khắc phục những tồn
tại, bất cập hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Tòa án, đồng
thời nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích luật và

19


phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp
luật do các cơ quan Nhà nước ban hành.
3.2.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện
kiểm sát nhân dân
Thực tiễn cho thấy, trong việc thực hiện những nhiệm vụ và
mục tiêu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước, giữa Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân đã không ngừng phối hợp và đưa ra xét xử
thành công rất nhiều vụ án hình sự trọng điểm, những vụ án lớn được
dư luận xã hội đặc biệt quan tâm trên cơ sở luật định, làm cho việc
thực thi pháp luật ngày càng được nghiêm minh. 3.2.6. Tăng cường
năng lực, nâng cao trình độ nhận thức của Luật sư
Ý thức tự đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ năng
hành nghề, đạo đức nghề nghiệp và ứng xử của một bộ phận Luật sư
còn thấp đã làm ảnh hưởng đến chất lượng bào chữa, tư vấn, đại diện
của Luật sư và nghiêm trọng hơn là vi phạm các nguyên tắc hành
nghề Luật sư.
3.2.7. Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc xét xử
Bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn nhiều hạn chế
như: Việc nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chưa đầy
đủ. Đánh giá không đầy đủ, toàn diện hoặc không chính xác các
chứng cứ, tài liệu về vụ án có trong hồ sơ và các chứng cứ, tài liệu

được bổ sung trước khi xét xử và tại phiên tòa. Nhận thức và áp dụng
không đúng các quy định của Pháp luật Hình sự, dẫn đến: Định tội
danh sai; xác định điều khoản của Bộ luật Hình sự không đúng (xác
20


định sai khung hình phạt); quyết định hình phạt quá nặng, quá nhẹ
hoặc cho hưởng án treo không đúng; sai lầm trong việc giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án; không nắm vững các quy định trong phần
chung Bộ luật Hình sự. Thừa nhận giá trị chứng minh của chứng cứ,
tài liệu thu thập bằng các hành vi trái pháp luật của cơ quan điểu tra,
dẫn đến sai lệch vụ án. Cơ chế hoạt động và hoạt động xét xử của
Tòa án cũng bộc lộ những bất cập ở việc sự tham gia của Hội thẩm
trong Hội đồng xét xử chủ yếu mang tính hình thức, chất lượng xét
xử không cao.
3.2.8. Tăng cường công tác xây dựng án lệ
Án lệ có vai trò là một công cụ hữu hiệu để “Điền vào chỗ
trống” của các Bộ luật. Đặc biệt, là trong lĩnh vực kinh tế và dân sự.
Án lệ không chỉ để giải quyết các vấn đề mà luật chưa điều chỉnh,
mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc đưa ra những dự báo cho
tương lai của điều chỉnh pháp luật.
Tuy nhiên, số lượng án lệ trong hình sự là quá ít so với thực
tế đòi hỏi trong khi Pháp luật Hình sự không thiếu những lỗ hổng
gây khó khăn cho các nhà áp dụng luật. Nguyên nhân của tình trạng
này là do: Truyền thống hệ thống pháp luật của các nước Xã hội Chủ
nghĩa, trong đó có Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức, nguồn pháp
luật duy nhất là văn bản quy phạm pháp luật nên trong thời gian dài
chúng ta ít quan tâm đến vấn đề án lệ. Việc ban hành cơ sở pháp lý
công nhận án lệ của Tòa án nhân dân tối cao còn chậm; lần đầu tiên
thực hiện chức năng ban hành án lệ còn nhiều lúng túng; tâm lý và

thói quen ban hành và sử dụng án lệ chưa nhiều.
21


3.2.9. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án hình sự
Chủ thể trực tiếp chịu trách nhiệm tổng kết kinh nghiệm xét
xử và hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật chính là
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Tuy nhiên, số văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành trong
thời gian gần đây còn khá khiêm tốn so với đòi hỏi của các vấn đề
thực tiễn công tác xét xử vụ án hình sự.
Kết luận Chương 3
Trong chương này tác giả đã cố gắng phân tích và làm rõ các
yêu cầu hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ
thẩm, như: Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và yêu cầu hoàn
thiện hệ thống pháp luật phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Từ đó đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn
xét xử sơ thẩm, bao gồm: Giải pháp về pháp luật; giải pháp về công
tác tổ chức cán bộ và các giải pháp khác để nhằm nâng cao hiệu quả
xét xử của Tòa án trong thời gian tới

22


KẾT LUẬN
Vấn đề giới hạn xét xử nói chung hay giới hạn xét xử sơ
thẩm nói riêng đã được nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra bàn luận
rất nhiều. Trong phạm vi luận văn, tác giả đã cố gắng làm sáng tỏ các

vấn đề lý luận cơ bản nhất về giới hạn xét xử sơ thẩm, đồng thời
phân tích một số nội dung quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
giới hạn xét xử sơ thẩm để thấy được những kết quả đã đạt được
cũng như những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hạn chế,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng để tìm ra những giải pháp hoàn
thiện.
Để đạt được yêu cầu đó, việc xây dựng và hoàn thiện Bộ luật
Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào những
nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự đã được ghi nhận trong Hiến
pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự. Cần có sự phân định rạch ròi về
chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng trong mối
quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau, đồng thời phải chú trọng đến
vai trò của Tòa án trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tuân thủ
việc bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của công dân. Đặc biệt là
quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Khi những yếu tố cần và đủ nêu trên được bảo đảm thì vấn
đề giới hạn xét xử sơ thẩm sẽ được xác định một cách khoa học và
hợp lý./.

23


×