VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI MINH NGHĨA
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP,
ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI MINH NGHĨA
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP,
ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác
giả. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bùi Minh Nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT
SƯ TRONG VIỆC THU THẬP ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ...........................................8
1.1. Khái niệm thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự .................................................................................................................8
1.2. Đặc điểm hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...................................................................15
1.3. Các hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của luật sư ..............19
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU
THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN 1, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH ..............................................................................................24
2.1. Các qui định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thể hiện vai trò của Luật
sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự ...............................................................................................................24
2.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh .......36
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG
VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ Ở GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................65
3.1. Tăng cường triển khai các biện pháp hướng dẫn thi hành Bộ Luật tố tụng
hình sự năm 2015 về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật
sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...............................................................65
3.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động
thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư .............................................66
3.3. Các giải pháp khác ..........................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
:
Bộ luật hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
:
Cơ quan điều tra
CQTHTT :
Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV
:
Điều tra viên
HTND
:
Hội thẩm nhân dân
HĐXX
:
Hội đồng xét xử
KSV
:
Kiểm sát viên
LS
:
Luật sư
TA
:
Tòa án
TAND
:
Tòa án nhân dân
THTT
:
Tiến hành tố tụng
TTHS
:
Tố tụng hình sự
TTCC
:
Thu thập chứng cứ
TNHS
:
Trách nhiệm hình sự
TP
:
Thẩm phán
VAHS
:
Vụ án hình sự
VKS
:
Viện kiểm sát
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
XHXN
:
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chứng cứ luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Trong quá trình giải quyết VAHS, các CQTHTT chỉ có thể ra các quyết
định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng minh sự việc phạm tội cũng
như con người thực hiện tội phạm và những tình tiết liên quan.
Quá trình chứng minh VAHS bao gồm nhiều bước như phát hiện, thu thập,
kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ. Trong đó đánh giá chứng cứ là một trong
những bước quan trọng góp phần quyết định sự thành công của việc tìm ra sự thật
khách quan của vụ án. Thực tiễn TTHS của nước ta thời gian qua cho thấy, các
CQTHTT, những người tham gia tố tụng đã đánh giá đúng đắn chứng cứ góp phần
làm rõ nhiều VAHS, tạo được lòng tin với quần chúng nhân dân, bảo vệ công lý.
Bên cạnh đó cũng có nhiều VAHS còn bộc lộ những sai lầm, thiếu sót trong việc
đánh giá chứng cứ dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng, xét xử còn nhiều oan
sai.
BLTTHS năm 2003 là bộ luật thể hiện sự dân chủ trong quá trình giải quyết
các VAHS, vừa tạo những điều kiện tốt hơn để các CQTHTT, người THTT, người
tham gia tố tụng như ĐTV, KSV, TP, HTND, người bào chữa, người bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện đầy đủ và có hiệu quả nghĩa vụ
pháp lý của mình. Thực tế cũng cho thấy rằng, sự tham gia của LS trong giai đoạn
điều tra nhất là hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ còn mang tính
hình thức. Bởi các lẽ đó, thực tế đã chỉ ra rằng LS chưa khẳng định được vai trò của
mình trong sự nghiệp bảo vệ công lý, cũng như góp phần để việc điều tra được đầy
đủ, vô tư, khách quan, đúng quy định của pháp luật; là cơ sở pháp lý để toà án xét
xử đúng người, đúng tội; hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm. Vai trò của LS trong việc
giám sát, đối trọng cũng như phối hợp với các CQTHTT trong việc thu thập, đánh
giá và sử dụng chứng cứ vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Thực tế cho thấy,
trong quá trình giải quyết các VAHS, đã có không ít các trường hợp mà việc TTCC,
sử dụng và đánh giá chứng cứ để buộc tội trong VAHS đã có vi phạm về pháp luật
1
TTHS dẫn đến đến xử oan, sai người vô tội, để lọt tội phạm ảnh hưởng rất lớn đến
việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội.
Nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
trong giai đoạn mới, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp, được thể
hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng nhấn
mạnh: Cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng,
công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát
của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết
bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; đồng
thời, yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của tố tụng hình sự [1]. Định
hướng này đã được Hiến pháp năm 2013 thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều
nguyên tắc tư pháp tiến bộ, bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của TA và VKS khi
thực hiện chức năng Hiến định. Những sửa đổi, bổ sung này cũng đã được cụ thể
hóa trong BLTTHS năm 2015 và sẽ được thi hành vào ngày 01/01/2018.
Mặt khác, trong thời gian qua, nhiều vụ án oan chưa được phơi bày. Tất cả
những vụ án oan xảy ra ở địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hầu như không
xuất hiện LS để tham gia bảo vệ quyền lợi của họ. Bên cạnh những tiêu cực nêu trên
thì mặt tích cực ta cũng thấy được chính sự tham gia của LS trong giai đoạn điều tra
đã giúp cho CQĐT thu thập, đánh giá được các chứng cứ. Sự phối hợp nhịp nhàng
ăn ý giữa LS và CQĐT theo đúng quy định của pháp luật trong hoạt động thu thập
và đánh giá chứng cứ đã được tiến hành một cách khách quan, cẩn trọng để loại trừ
hiện tượng oan sai cho người vô tội và tránh bỏ lọt tội phạm, góp phần giữ gìn an
ninh trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế
XHCN.
2
Xuất phát từ nguyên nhân đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về “vai
trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều
tra VAHS theo pháp Luật TTHS Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng pháp luật, là cơ sở lý luận đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong thực thi
pháp luật; góp phần tạo ra cơ hội để các CQTHTT, người THTT, LS xích lại gần
nhau hơn, mỗi người sẽ thực hiện công việc của mình một cách đúng đắn để tránh
dẫn đến oan, sai. Đây cũng là luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài:
“Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh đề tài này, tác giả nhận thấy chưa có nhiều các công trình, các
bài viết liên quan; điều này xuất phát từ thực tiễn ở nước ta, hoạt động của LS trong
quá trình tham gia TTHS nhất là trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS còn mờ nhạt và không thể trở thành đối
trọng cân bằng với bên buộc tội.
- Khúc Thị Hoàng Hạnh (2010), “Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS
về TTCC”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trên cơ sở phân
tích lý luận về thu tập chứng cứ, tác giả đã mạnh dạn cho rằng khái niệm TTCC ở
các tài liệu mà tác giả nghiên cứ đều có những điểm chưa được đề cập đến và đưa ra
khái niệm về TTCC theo quan điểm cá nhân của mình; Luận văn đã phân tích một
cách tương đối thấu đáo những đặc điểm của việc TTCC trong các giai đoạn khác
nhau của TTHS, đồng thời đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp
luật TTHS về TTCC và một số biện pháp nâng cao hiệu quả TTCC [13].
- Ngô Thị Ngọc Vân (2016), “Hoạt động bào chữa của LS trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm VAHS”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận
án đã làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của LS trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án VAHS; đánh giá được thực trạng hoạt động hoạt động bào
chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án VAHS ở Việt Nam; đồng thời
3
phân tích, chỉ ra một số bất cập trong quy định của pháp luật TTHS về hoạt động
bào chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án VAHS, những vướng mắc
trong áp dụng cũng như nguyên nhân của nó. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực
tiễn, luận án đã đề xuất được một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bào
chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự [49].
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Tài liệu Hội thảo khoa học “Nâng
cao vai trò của LS trong TTHS”, Hà Nội. Trong hội thảo, nhiều tác giả cho rằng, vai
trò của LS trong TTHS Việt Nam còn hết sức mờ nhạt và không thể trở thành đối
trọng cân bằng với bên buộc tội. Theo quy định hiện hành, chỉ có các CQTHTT mới
có quyền TTCC. Trong khi đó, người bào chữa chỉ được quyền thu thập các tài liệu,
đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án và chúng chỉ là chứng cứ khi được giao nộp cho
các CQTHTT, được ghi nhận, đưa vào hồ sơ. Như vậy, LS có thu thập được chứng
cứ thì cũng không được tự mình sử dụng để chứng minh những tình tiết trong vụ án
mà phải giao cho các CQTHTT [42].
- Hoàng Thị Minh Sơn (2008), “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh
giá và sử dụng chứng cứ trong TTHS”, Tạp chí Luật học số 7, Hà Nội. Trong bài
viết, tác giả nêu rõ: TTCC là giai đoạn đầu của quá trình chứng minh VAHS. Kết
quả của hoạt động TTCC có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng giải quyết VAHS. Có thể nói số lượng và chất lượng chứng cứ đã thu thập
được đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Do vậy, hoạt động này cần phải được tiến hành một cách khách quan, thận trọng và
tỉ mỉ trên cơ sở những quy định của BLTTHS [40].
Ngoài ra còn có có thể kể đến một số tác phẩm của các tác giả như sau: Vai
trò của LS trong TTHS của TS. Hoàng Sơn (Trong sách: Sổ tay LS, của Học Viện
Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2004); Kỹ năng của LS
trong giai đoạn điều tra VAHS,của tác giả: Ths. Nguyễn Văn Điệp, (Trong sách: sổ
tay LS của Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2004);
Chứng cứ trong VAHS, của tác giả: PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải (trong sách: sổ tay
LS, của Học Viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2004); Về
4
chế định người bào chữa, của tác giả Đinh Văn Quế, (Tạp chí TAND số 3, năm
2004); Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong TTHS của tác giả Lê
Hồng Sơn, (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7, năm 2002); Vai trò của LS trong
TTHS của TS. Nguyễn Văn Tuân (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2001); Vấn đề hoàn thiện pháp luật về LS ở Việt Nam của TS. Phan Trung Hoài
(Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2004); Luận văn thạc sỹ “Vai trò
của LS trong giai đoạn điều tra VAHS” của tác giả Nguyễn Đăng Khoa; Luận văn
thạc sỹ “Hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ của LS trong TTHS” của Hoàng
Văn Dũng (2007); “Vai trò của LS - Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
VAHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phương v.v…
Các bài bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý: Một số vấn đề lý
luận về phương pháp thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số5/2007; Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 9, 10/2008 của TS. Trần Quang Tiệp; Về chứng cứ và
nguồn chứng cứ quy định tại Điều 64 BLTTHS năm 2003, Tạp chí Nghề luật, số
2/2006 của TS. Trịnh Tiến Việt v.v...
Như vậy, cho đến nay, theo nghiên cứu của tác giả thì chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách trọn vẹn, toàn diện, hệ thống và đồng bộ Vai trò của
Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành
phố Hồ Chí Minh.
Những công trình trên phần nào đã sẽ là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả
kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là trên cơ sở làm sáng tỏ về mặt lý luận,
quy địnhcủa pháp luật và thực trạng vai trò của LS trong hoạt động thu thập, đánh
giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp luật TTHS Việt
Nam, luận văn đưa ra những giải pháp nâng cao vai trò của LS trong hoạt động thu
5
thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS trong giai đoạn
hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận về vai trò của LS trong việc
thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS;
- Làm rõ quy định của pháp luật về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ cùa LS trong giai đoạn điều tra VAHS;
- Làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về hoạt động thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS trong giai đoạn điều tra VAHS, đồng thời chỉ
ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật và thực tiễn của hoạt động LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng
cứ trong giai đoạn điều tra VAHS.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi Luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu hoạt động thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS
nhằm bảo vệ quyền của người bị buộc tội (bị can) từ thực tiễn trên địa bàn Quận 1,
thành phố Hồ Chí Minh theo quy định của BLTTHS năm 2003 trong thời gian từ
năm 2011 đến năm 2015. Luận văn không nghiên cứu nội dung này trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khác trong vụ án.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm;
việc nghiên cứu đề tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và
6
phương pháp xã hội học, phương pháp khoa học luật TTHS, điều tra hình sự, kỹ
năng giải quyết các VAHS của LS để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có thể có những đóng góp về mặt lý
luận đối với vai trò của LS trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong giai đoạn điều tra VAHS.
Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra được những mặt hạn chế trong thực tiễn
tham gia của LS trong giai đoạn điều tra nhất là trong việc thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ nhằm giúp giải quyết VAHS một cách khách quan, toàn diện, tránh
oan sai và thực hiện đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của người bảo chữa góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hoạt động và vai trò của LS trong TTHS.
Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo trong việc học tập, nghiên cứu, giảng
dạy và thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan đến đề tài.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm có ba phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Luật sư trong việc thu thập
đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại quận
1, thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp nâng cao vai trò của Luật sư trong việc thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG VIỆC THU THẬP ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
- Khái niệm giai đoạn điều tra hình sự
Giai đoạn điều tra VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố VAHS và kết
thúc khi CQĐT hoàn thành bản kết luận điều tra, đồng thời quyết định đề nghị truy
tố người bị nghi là phạm tội trước TAND hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án. [28,
Điều 162].
Trong quá trình điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp của pháp luật
TTHS để TTCC, mục đích để làm rõ sự việc phạm tội, về người thực hiện tội phạm,
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như các tình tình tiết khác có liên quan
đến vụ án, kiến nghị biện pháp phòng ngừa với cơ quan và tổ chức hữu quan. Hoạt
động điều tra chính là hoạt động TTCC, phục vụ cho việc xét xử của TAND. Việc
thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ ở giai đoạn điều tra có tính chất sơ bộ, phục vụ
cho việc kiểm tra, đánh giá chính thức tại phiên toà.
Điều tra VAHS là giai đoạn TTHS thứ hai mà trong đó CQĐT căn cứ vào
các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện
pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của
VAHS, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong
việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu TNHS, đồng thời bảo đảm cho việc bồi
thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình
chỉ điều tra VAHS hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho VKS kèm
theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, giai đoạn điều tra VAHS
có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết
do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ
8
những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ
chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm;
Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành TTHS
có thẩm quyền ra quyết định khởi tố VAHS và kết thúc bằng bản kết luận điều tra
và quyết định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước TA hoặc đình chỉ
VAHS tương ứng.
- Khái niệm thu thập chứng cứ
Quá trình chứng minh trong TTHS là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá
và sử dụng chứng cứ. Trong đó TTCC là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng và không thể thiếu của quá trình chứng minh trong TTHS.
Nếu không có TTCC, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng
cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề TTCC nói riêng
luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi
xây dựng BLTTHS.
Trong quá trình tố tụng, không chỉ CQTHTT, người THTT thu thập và sử
dụng chứng cứ trong quá trình chứng minh, mà những người tham gia tố tụng cũng
có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình, đảm bảo sự thật khách quan. BLTTHS quy định cụ thể quyền của bị can, bị
cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan… trong việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của
mình. Phát hiện, TTCC là hoạt động nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng
minh hoặc những nguồn chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó
khai thác những sự kiện chứng minh. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, TTCC
là quá trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện,
TTCC vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý nên quá trình
phát hiện, TTCC vừa phải quán triệt những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa
phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ
đúng quy định về trình tự, thủ tục của BLTTHS. Trong đó quy định rõ những người
9
có thẩm quyền TTCC, thủ tục TTCC, cũng như quy định về quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia quan hệ pháp luật TTHS trong việc TTCC.
TTCC được hiểu là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo
quản chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền bằng các biện pháp luật định. Phát
hiện chứng cứ là tìm những sự vật, hiện tượng, tài liệu có chứa đựng những thông
tin có giá trị chứng minh những tình tiết của vụ án. Đây là khâu đầu tiên và hết sức
quan trọng của hoạt động TTCC khi người bào chữa phát hiện ra nó, đánh giá
những thông tin có giá trị chứng minh những sự kiện, tình tiết của vụ án [12, tr.24].
- Khái niệm đánh giá chứng cứ
BLTTHS năm 2003 không có khái niệm đánh giá chứng cứ mà chỉ quy định:
Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan
đến vụ án…[28, Đ.66]. Tác giả đã đưa ra và phân tích một số quan điểm về khái
niệm đánh giá chứng cứ. Từ các phân tích trên, có thể đưa ra quan điểm chung nhất
về đánh giá chứng cứ: Đánh giá chứng cứ trong VAHS là hoạt động tư duy của chủ
thể có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS nhằm xem xét, kiểm tra các chứng cứ
đã thu thập được để xác định tính hợp pháp, tính xác thực và tính liên quan của
chứng cứ, qua đó làm rõ có sự việc phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực
hiện hành vi phạm tội cũng như giải quyết đúng đắn VAHS.
- Khái niệm sử dụng chứng cứ
Pháp luật TTHS đã qui định thế nào là chứng cứ, chứng cứ được xác định ở
những nguồn cụ thể. Việc sử dụng những chứng cứ ở nguồn luật định phải chấp
hành nghiêm chỉnh theo những qui định của pháp luật tố tụng. Đặc biệt với những
chứng cứ là lời khai của những người tham gia tố tụng, do đặc điểm của những
chứng cứ này thường bị xen lẫn yếu tố chủ quan, dễ bị sai lệch, vì vậy khi sử dụng
các lời khai của người tham gia tố tụng ở các tư cách khác nhau phải tuân theo đúng
những qui phạm trong BLTTHS.
Sử dụng chứng cứ là việc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành nghiên cứu,
kiểm tra, đánh giá ngay để sử dụng nhằm đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời của
các hoạt động tiếp theo, vừa đảm bảo thời gian đã được quy định đối với hoạt động
10
điều tra, truy tố, xét xử vừa đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm, ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, hạn chế những thiệt hại cho xã hội, bắt
giữ ngay kẻ phạm tội không để chúng có thời gian lẩn trốn, tiêu hủy tài sản, chứng
cứ tang vật, xóa hết dấu vết hoặc tiếp tục gây án. Mặt khác, các chứng cứ sau khi
kiểm tra đánh giá, đã xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ thì chỉ được
sử dụng đúng với giá trị của nó, giá trị chứng minh của từng chứng cứ đều có những
giới hạn, phạm vi nhất định, việc sử dụng cần căn cứ vào giới hạn, giá trị chứng
minh của từng chứng cứ, không được phép phán đoán chủ quan, sử dụng gượng ép,
ngoài khả năng chứng minh của từng chứng cứ. Sử dụng đúng giá trị chứng minh
của chứng cứ cho phép người THTT xác định đúng sự thật khách quan, không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội.
Theo BLTTHS thì: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình
tự do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án dùng làm
căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi
phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án.” [30, Điều 64].Theo quy định của BLTTHS thì một thông tin, tài liệu chỉ có thể
được coi là chứng cứ của vụ án khi nó có đủ ba thuộc tính sau:
- Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình
tiết của VAHS đã xảy ra.
- Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng
cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân
quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một
quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân
dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này.
- Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập,
nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm
giá trị chứng minh của chứng cứ.
Như vậy, sử dụng chứng cứ phải tuân thủ nguyên tắc khách quan, toàn diện
và đầy đủ trong TTHS. Chỉ sử dụng các chứng cứ được phát hiện, thu thập theo
11
đúng quy định của pháp luật TTHS, và các chứng cứ đó phải được kiểm tra đầy đủ,
bảo đảm ba thuộc tính của chứng cứ và phải phù hợp với thực tế khách quan. Trong
quá trình THTT, không chỉ CQTHTT, người THTT được sử dụng chứng cứ vào quá
trình chứng minh mà tất cả những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và mọi
công dân trong đó có LS đều có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm
làm sáng tỏ sự thật khách quan. Tuy nhiên muốn sử dụng chứng cứ một cách hiệu
quả, đạt mục đích thì phải nhận thức đầy đủ về chứng cứ thì đối với người THTT có
nhận thức đúng về chứng cứ thì quá trình chứng minh, việc phát hiện, thu giữ chứng
cứ mới đúng, nếu nhận thức sai về chứng cứ, sẽ phát hiện, thu giữ những sự kiện,
hiện tượng không phải là chứng cứ trong vụ án, từ đó dẫn tới việc sử dụng sai và
giải quyết vụ án không đúng. Đối với người tham gia tố tụng nhất là LS thì phải có
nhận thức đúng vấn đề về chứng cứ mới thực hiện quyền của mình như cung cấp và
đưa ra chứng cứ có giá trị chứng minh tới các CQTHTT, tạo điều kiện giải quyết vụ
án được đúng đắn, kịp thời. Chứng cứ cũng cần phải được mọi người, mọi công dân
nhận thức đầy đủ để từ đó bảo quản, giữ nguyên giá trị chứng minh của chứng cứ từ
khi phát hiện đến khi cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền. Nhận thức đúng về
chứng cứ những người tham gia tố tụng cũng như mọi công dân có thể sử dụng
chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Qua phân tích trên có thể đưa ra khái niệm sử dụng chứng cứ như sau: Sử
dụng chứng cứ là việc các chủ thể có thẩm quyền lựa chọn những chứng cứ đã thu
được theo quy định của pháp luật để làm sáng tỏ những vần đề cần phải chứng
minh trong VAHS.
Tuy nhiên, khác với hoạt động sử dụng chứng cứ của những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, đối với LS, sử dụng chứng cứ là việc lựa chọn những
thông tin, tài liệu, đồ vật đã được thu thập để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ
TNHS cho bị can mà mình bảo vệ theo quy định của pháp luật. LS có thể sử dụng
chứng cứ do mình thu thập hoặc chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập.
- Khái niệm vai trò của Luật sư
12
Vai trò là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó
[61, tr.1095]. Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người đó phải đảm nhận hay
thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị thế của
người đó. Đồng thời họ cũng nhận được những quyền lợi xã hội tương ứng với việc
thực hiện vai trò của họ. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “LS là người có chức trách,
dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án” [24, tr.1059].
Theo qui định của Luật luật sư 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012, chức
năng xã hội của LS là: "Hoạt động nghề nghiệp của LS góp phần bảo vệ công lý,
các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. [35]
Nói tới vai trò của LS là nói tới những tác động, ảnh hưởng của LS đối với
cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động của mình, đối với xã hội thông qua chức
năng cao quý của nghề nghiệp, góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển dân
chủ, tạo lập công bằng xã hội. Về lý luận, cần phân biệt khái niệm “vai trò của LS"
với “nhiệm vụ, quyền hạn của LS” theo quy định của pháp luật. Thực tế đang tồn tại
một số quan niệm không đúng đắn về vai trò của LS trong đời sống xã hội, hoặc quá
đề cao gần như “tuyệt đối" cái gọi là “biểu tượng của trình độ phát triển dân chủ xã
hội ”, hoặc hạ thấp vai trò của LS chỉ là người trợ giúp, hoạt động mang tính chất
“bổ trợ” và thụ động, phụ thuộc vào cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Với tư cách là
một chức danh tư pháp tham gia độc lập vào đời sống xã hội và tố tụng tư pháp, LS
đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các thiết chế dân chủ ở nước ta.
Trong điều kiện phát triển của xã hội nước ta hiện nay và yêu cầu của chiến
lược cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới [1]; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 [2]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [3], LS đã bước đầu được
13
nhìn nhận có vai trò quan trọng trong hoạt động tranh tụng và tư vấn pháp luật, là
những người hành nghề chuyên nghiệp về pháp luật. Với cơ sở lý luận và thực tiễn,
như phân tích ở trên, khái niệm LS nên được hiểu như sau: LS là một chức danh tư
pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy
định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo uỷ quyền,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước TAND và
thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Tham khảo một số quan điểm về vai trò của LS, thấy rằng: TS. Nguyễn Văn
Tuân quan niệm vai trò của LS thể hiện trên 3 phương diện: a) Bảo vệ quyền của bị
can, bị cáo và các đương sự trước toà án; bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức
trong hoạt động tư vấn pháp luật và c) góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật [45,
tr. 11- 16]. Có tác giả lại đề cập vai trò của LS trong lĩnh vực thông tin pháp luật,
giải thích pháp luật, hướng dẫn hành vi của chủ thể được tư vấn pháp luật. Một
quan niệm khác xem xét vai trò của LS trên bình diện truyền thống và hiện đại,
trong đó LS có tác dụng hữu hiệu đối với việc bảo vệ và tăng cường thể chế pháp
quyền; bênh vực và bảo vệ kẻ yếu; tham gia và đóng góp tích cực vào quá trình
soạn thảo luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực và ý
thức xã hội trong việc tiếp cận với dân chủ và pháp luật.
Có thể nói vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là rất quan trọng. Tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm
giam, tạm giữ, bị can, bị cáo, LS sẽ cùng với thân chủ của mình trở thành một bên
trong tố tụng; LS phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến
thức chuyên môn của mình trong đó có kỹ năng về TTCC, kiến thức về chứng cứ và
đánh giá chứng cứ, sàng lọc, phân loại, đánh giá tài liệu nào, lời khai nào, vật chứng
nào, kết luận giám định nào… được coi là chứng cứ, nhằm bác lại những quan điểm
đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Khi thu thập được các tài liệu, chứng cứ liên
quan đến vụ án thì LS phải có trách nhiệm giao cho các CQTHTT; do vậy, LS khi
thu thập được chứng cứ cần lựa chọn thời điểm đưa ra phù hợp trong quá trình tố
14
tụng của vụ án. Bên cạnh đó, LS công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về
chứng cứ và sự thật khách quan của vụ án để phản biện lại những quan điểm của
CQĐT; trao đổi, đề xuất những vấn đề về chứng cứ của vụ án; phát hiện ra những
dấu hiệu không đảm bảo về chứng cứ trong quá trình xét xử, như chưa đủ chứng cứ
hoặc chứng cứ yếu giúp cho CQĐT, cân nhắc trước khi đưa ra quyết định. Chính vì
vậy, có thể nói, LS có vai trò rất quan trọng cùng với những người THTT khác
trong việc đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự nhằm
bào chữa và bảo vệ tối đa quyền lợi của thân chủ.
Qua phân tích, nghiên cứu những nội dung trên có thể hiểu vai trò của luật sư
trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự như sau:
Vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
giai đoạn điều tra VAHS là ảnh hưởng, tác động của LS thông qua hoạt động
thực hiện chức năng của mình đối với việc phát hiện, tìm kiếm, kiểm tra và lựa
chọn những thông tin, tài liệu, đồ vật để chống lại sự buộc tội, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho bị can theo quy định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của
Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Trong TTHS, LS tham gia vào giai đoạn điều tra VAHS với tư cách người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ công lý, bảo đảm cho các hoạt động tố tụng
được tiến hành khách quan, đúng pháp luật. Ở giai đoạn điều tra, giai đoạn có tính
quyết định của quá trình tiến hành tố tụng, vì người bị tạm giữ, bị can chỉ là đối
tượng bị “tình nghi phạm tội”, nếu thiếu thận trọng thì khoảng cách giữa không
phạm tội và phạm tội hoặc giữa lỗi và tội dễ bị xóa nhòa. LS đóng vai trò “bác sĩ
pháp lý” cho bị can, người được tiếp cận bị can với tư cách người bào chữa, người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có trách nhiệm giải thích cho bị can về
những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người bị “tình
nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo, trung thực, khách
15
quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung điều tra
để minh oan cho người bị “tình nghi phạm tội”.
Theo quy định tại Điều 58 BLTTHS 2003, LS bào chữa được quyền thu thập
tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo
yêu cầu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhưng chỉ trong giới hạn phạm vi nhất
định. Nếu chứng cứ liên quan đến việc bào chữa của LS thuộc bí mật nhà nước, bí
mật công tác thì LS bào chữa cũng không được quyền thu thập mà phải do các
CQTHTT thu thập.
Trong giai đoạn điều tra VAHS, việc TTCC của LS được thực hiện thông
qua các hoạt động sau:
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo
yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí
mật công tác.
LS tiến hành gặp gỡ, tham gia việc hỏi cung bị can. Công việc này có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan của việc điều tra, hạn chế
được các vi phạm pháp luật có thể xảy ra như: ép cung, mớm cung, bức cung, làm
sai lệch hồ sơ vụ án… Ngoài ra, việc LS bào chữa tham gia vào các hoạt động điều
tra khác như khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, xem xét dấu vết thân
thể… cũng là một hoạt động cần thiết và có ý nghĩa; thông qua các hoạt động này,
LS có thể phát hiện được những tình tiết mới của vụ án hoặc các tình tiết giảm nhẹ
TNHS của bị can, các tình tiết có ý nghĩa minh oan cho bị can trong trường hợp bị
can vô tội, làm hạn chế tình trạng oan sai ngay từ giai đoạn điều tra trong TTHS.
Tuy là giai đoạn đầu tiên của TTHS nhưng ngay từ công việc điều tra, LS đã phải
định hướng cho mình cách nghiên cứu hồ sơ, thu thập tài liệu, chứng cứ và định
hướng việc bào chữa cho bị can nhằm bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp cho họ.
Khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có
trách nhiệm giao cho CQĐT. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào
16
chữa và CQTHTT phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của BLTTHS
năm 2003.
- Tham gia vào việc hỏi cung bị can: theo quy định của BLTTHS, LS được
có mặt khi ĐTV lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can. LS được hỏi
người bị tạm giữ, bị can nếu được ĐTV đồng ý. Lời khai là nguồn chứng cứ quan
trọng trong TTHS. Việc tham dự cuộc lấy lời khai, hỏi cung giúp LS nắm được
những thông tin, tình tiết liên quan đến người mà mình bào chữa. Để bảo đảm chặt
chẽ, khoản 3 Điều 132 BLTTHS năm 2003 quy định: Trong trường hợp người bào
chữa được hỏi bị can thì trong biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của người bào chữa
và trả lời của bị can.
- Luật sư còn có thể thực hiện các hoạt động điều tra khác, như: đối chất,
nhận dạng, khám xét, thực nghiệm điều tra, khám nghiệm hiện trường, thu thập vật
chứng v.v.., Nếu chứng cứ liên quan đến việc bào chữa của LS thuộc bí mật nhà
nước, bí mật công tác thì LS bào chữa cũng không được quyền thu thập mà phải do
các CQTHTT thu thập.
- Xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các
quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
- Gặp gặp bị can đang bị tạm giam: BLTTHS cho phép LS được gặp riêng bị
can đang bị tạm giam. Hoạt động này giúp LS thu thập những tình tiết có lợi cho bị
can, đồng thời góp phần phòng ngừa hành vi vi phạm từ phía ĐTV; giúp cho bị can
hiểu rõ được quyền, nghĩa vụ của mình; hỗ trợ họ về mặt tâm lý để tự bảo vệ mình.
Trong khi tiến hành hoạt động TTCC, LS bào chữa không được quyền áp
dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng như ĐTV. Chỉ có Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT các cấp mới có thẩm quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp cưỡng chế
để TTCC như: Ra lệnh khám xét, phê chuẩn lệnh khám xét, ra quyết định trưng cầu
giám định, quyết định khai quật tử thi, triệu tập người tham gia tố tụng để hỏi cung,
lấy lời khai, đối chất,... Nếu việc áp dụng các biện pháp TTCC của CQĐT mang
tính chất cưỡng chế thì đối với LS điều này là không thể. Việc này đã làm cho LS
không thể hiện sự chủ động tìm kiếm, phát hiện và thu thập, xử lý các chứng cứ của
17
một VAHS, nhằm phát huy khả năng chứng minh của chứng cứ trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích cho thân chủ. LS chỉ đánh giá và nghiên cứu những chứng cứ được
các CQTHTT cung cấp, hoặc chỉ dựa trên những lại khai, lời thuật lại của những
người có liên quan trong vụ án qua đơn thuần là các văn bản được soạn ra trên giấy.
Như thế, rõ ràng việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ chưa được toàn diện
và trọn vẹn.
Có thể nói quá trình điều tra VAHS có những đặc thù riêng so với các hoạt
động tố tụng khác, những đặc thù của giai đoạn này có ảnh hưởng, tác động nhất
định đến hoạt động bào chữa của LS.So với giai đoạn khác hoạt động bào chữa
trong giai đọan này có những đặc điểm riêng, đó không phải là sự đối sánh chứng
cứ trực tiếp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội như ở giai đoạn xét xử. Những thông
tin, tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho việc xác định sự thật của vụ án đối với LS
không nhiều nhưng những thông tin tài liệu, chứng cứ đó lại rất quan trọng đối với
việc bảo vệ quyền lợi cho bị can. Do vậy LS cần phải biết tập trung thời gian, công
sức trí tuệ để nghiên cứu, đánh giá tính hợp pháp của những thông tin, tài liệu,
chứng cứ đó. Chỉ khi tập trung, đánh giá có trọng điểm và chính xác những chứng
cứ là cơ sở cho việc xác định sự thật vụ án thì kết quả của hoạt động này mới trở
nên có ý nghĩa.
Trong TTHS chức năng gỡ tội luôn tồn tại độc lập và đối trọng với chức
năng buộc tội như một tất yếu khách quan. Với bản chất dân chủ, pháp luật TTHS
của Nhà nước ta ghi nhận quyền được bào chữa (gỡ tội) của người bị buộc tội như
một nguyên tắc cơ bản, coi đây là quyền Hiến định được ghi trong Hiến pháp:
người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào
chữa, nhờ LS hoặc người khác bào chữa [12].
Nếu như nhiệm vụ Cơ quan điều tra chứng minh một người có hành vi phạm
tội theo các nội dung: “1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa
điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. 2. Ai là người thực hiện hành vi
phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực TNHS hay không;
mục đích, động cơ phạm tội. 3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS
18
của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo. 4. Tính chất
và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tôi gây ra” (Điều 63 BLTTHS 2003) thì nhiệm
vụ của LS là chứng minh họ vô tội hoặc có tội không đúng như kết luận đề nghị
truy tố của CQĐT.
Như vậy hoạt động thu thập, dánh giá và sử dụng chứng cứ của LS khác với
hoạt động của CQĐT:
- Về tố tụng: LS cần phải xem xét xem hồ sơ vụ án có đảm bảo đúng thủ tục
TTHS hay không; có việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không; có cần
đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc nhập hoặc tách vụ án hay không.
- Về chứng cứ: Đã có đủ chứng cứ để xét xử bị cáo chưa, nếu còn thiếu
chứng cứ thì đó là chứng cứ quạn trọng hay không quan trọng đối với vụ án, có thể
bổ sung tai phiên Tòa hay không; có đúng là bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội
đã bị truy tố hay phạm một tội khác hoặc có người khác cùng phạm tội với bị cáo.
Yêu cầu này đòi hỏi chứng cứ do LS thu thập phải toàn diện và có giá trị
chứng minh, là đối trọng với chứng cứ do CQĐT thu thập trong trường hợp chứng
cứ đó được sử dụng làm chứng cứ gỡ tội.
1.3. Các hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của luật sư
TTCC là khâu đầu tiên và hết sức quan trọng của hoạt động của LS phát hiện
ra nó, đánh giá những thông tin có giá trị chứng minh những sự kiện, tình tiết của
vụ án. Sự đánh giá này mang tính chất sơ bộ, còn kết luận có phải là chứng cứ hay
không phải do CQĐT quyết định.
Khi phát hiện ra những thông tin, tài liệu, đồ vật liên quan đến người mà
mình bảo vệ, LS cần tiến hành các biện pháp ghi nhận theo quy định của pháp luật.
Đồng thời phải bảo quản chúng. Bảo quản chứng cứ: là giữ cho vật chứng nguyên
vẹn như tình trạng khi bị thu giữ, không bị mất mát, biến dạng để có thể sử dụng
được nó vào bất cứ thời điểm nào khi CQTHTT có yêu cầu. Bảo quản chứng cứ
ngoài mục đích bảo vệ giá trị chứng minh mà còn nhằm bào vệ giá trị vật chất, giá
trị kinh tế, văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau.
19
Điều 10 BLTTHS quy định: “CQĐT, VKS và TA phải áp dụng mọi biện pháp
hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,
làm rõ chứng cứ xác định xác định có tội và các chứng cứ xác định vô tội, những
tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo”. Còn tại
Điều 58 BLTTHS 2003 quy định : “Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ
vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Tại khoản 1 Điều 65 BLTTHS 2003 quy định: “Để TTCC CQĐT, VKS và TA
có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những
vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám
nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo qui định của bô luật này” đồng thời
khoản 2 Điều 65 BLTTHS 2003 cũng qui định: “Những người tham gia tố tụng, cơ
quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình
bày những vấn đề có liên quan đến vụ án”.
Theo quy định của BLTTHS 2003 các biện pháp TTCC của LS được xác
định bằng các hoạt động như sau:
- Thu thập tài liệu, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ bị can, người thân
thích của họ;
- TTCC trong quá trình tham dự việc hỏi cung bị can. LS có quyền mặt khi
hỏi cung bị can và nếu được ĐTV đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong những
hoạt động điều tra khác;
- TTCC bằng cách đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu;
- TTCC từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của bị can, nếu không
thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
Ta có thể so sánh hoạt động TTCC của LS và hoạt động TTCC các CQTHTT
để thấy được quá trình TTCC của người bào chữa còn nhiều thiệt thòi do qui định
của luật:
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, thì những người sau đây có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp TTCC: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
20