VIỆN HÀN LÂM
KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI MINH NGHĨA
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP,
ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn
Phản biện 1: …………………………………………
…………………………………………
Phản biện 2: …………………………………………
…………………………………………
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội ..... giờ ...... ngày ...... tháng ......
năm ......
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế đã chỉ ra rằng LS chưa khẳng định được vai trò của
mình; việc giám sát, đối trọng cũng như phối hợp với các CQTHTT
trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ vẫn chưa đạt được
kết quả mong muốn.
Mặt khác, trong thời gian qua, nhiều vụ án oan chưa được phơi
bày. Tất cả những vụ án oan xảy ra ở địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh hầu như không xuất hiện LS để tham gia bảo vệ quyền lợi
của họ. Bên cạnh những tiêu cực nêu trên thì mặt tích cực ta cũng
thấy được chính sự tham gia của LS trong giai đoạn điều tra đã giúp
cho CQĐT thu thập, đánh giá được các chứng cứ; góp phần giữ gìn
an ninh trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, bảo vệ pháp chế XHCN.
Đây cũng là luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề
tài: “Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh đề tài này, tác giả nhận thấy chưa có nhiều các
công trình, các bài viết liên quan; điều này xuất phát từ thực tiễn ở
nước ta, hoạt động của LS trong quá trình tham gia TTHS nhất là
trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai
đoạn điều tra VAHS còn mờ nhạt và không thể trở thành đối trọng
cân bằng với bên buộc tội.
Có thể kể đến một số tác phẩm của các tác giả như sau: Khúc
Thị Hoàng Hạnh (2010), “Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS
1
về TTCC”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Ngô Thị Ngọc Vân (2016), “Hoạt động bào chữa của LS trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm VAHS”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Tài liệu Hội thảo
khoa học “Nâng cao vai trò của LS trong TTHS”, Hà Nội; Hoàng Thị
Minh Sơn (2008), “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá và
sử dụng chứng cứ trong TTHS”, Tạp chí Luật học số 7, Hà Nội; Vai
trò của LS trong TTHS của TS. Hoàng Sơn (Trong sách: Sổ tay LS,
của Học Viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm
2004); Kỹ năng của LS trong giai đoạn điều tra VAHS,của tác giả:
Ths. Nguyễn Văn Điệp, (Trong sách: sổ tay LS của Học viện Tư
pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2004); Chứng cứ
trong VAHS, của tác giả: PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải (trong sách:
sổ tay LS, của Học Viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
Hà Nội năm 2004); Về chế định người bào chữa, của tác giả Đinh
Văn Quế, (Tạp chí TAND số 3, năm 2004); v.v…
Như vậy, cho đến nay, theo nghiên cứu của tác giả thì chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách trọn vẹn, toàn diện, hệ
thống và đồng bộ Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và
sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí
Minh.
Những công trình trên phần nào đã sẽ là nguồn tài liệu tham
khảo để tác giả kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu để
hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích nghiên cứu
2
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là trên cơ sở làm sáng tỏ
về mặt lý luận, quy địnhcủa pháp luật và thực trạng vai trò của LS
trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai
đoạn điều tra VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam, luận văn đưa ra
những giải pháp nâng cao vai trò của LS trong hoạt động thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS trong
giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận về vai trò của
LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn
điều tra VAHS;
- Làm rõ quy định của pháp luật về hoạt động thu thập, đánh
giá và sử dụng chứng cứ cùa LS trong giai đoạn điều tra VAHS;
- Làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về hoạt
động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS trong giai đoạn
điều tra VAHS, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật và thực tiễn của hoạt động LS trong việc thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi Luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu hoạt động
thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS bào chữa trong giai
đoạn điều tra VAHS nhằm bảo vệ quyền của người bị buộc tội (bị
3
can) từ thực tiễn trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh theo
quy định của BLTTHS năm 2003 trong thời gian từ năm 2011 đến
năm 2015. Luận văn không nghiên cứu nội dung này trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khác
trong vụ án.
* Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có thể có những đóng
góp về mặt lý luận đối với vai trò của LS trong hoạt động thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS.
Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra được những mặt hạn chế
trong thực tiễn tham gia của LS trong giai đoạn điều tra nhất là trong
việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm giúp giải quyết
VAHS một cách khách quan, toàn diện, tránh oan sai và thực hiện
đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của người bảo chữa góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hoạt động và vai trò của LS trong
TTHS.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có ba phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Luật sư trong
việc thu thập đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự.
4
Chương 2: Thực trạng vai trò của Luật sư trong việc thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
và thực tiễn áp dụng tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp nâng cao vai trò của Luật sư trong
việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT
SƯ TRONG VIỆC THU THẬP ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG
CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
- Khái niệm giai đoạn điều tra hình sự
Giai đoạn điều tra VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
VAHS và kết thúc khi CQĐT hoàn thành bản kết luận điều tra, đồng
thời quyết định đề nghị truy tố người bị nghi là phạm tội trước
TAND hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án.
- Khái niệm thu thập chứng cứ
TTCC được hiểu là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận,
thu giữ và bảo quản chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền bằng
các biện pháp luật định.
- Khái niệm đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ trong VAHS là hoạt động tư duy của chủ
thể có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS nhằm xem xét, kiểm
tra các chứng cứ đã thu thập được để xác định tính hợp pháp, tính
xác thực và tính liên quan của chứng cứ, qua đó làm rõ có sự việc
phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội.
- Khái niệm sử dụng chứng cứ
Sử dụng chứng cứ là việc các chủ thể có thẩm quyền lựa chọn
những chứng cứ đã thu được theo quy định của pháp luật để làm
sáng tỏ những vần đề cần phải chứng minh trong VAHS.
- Khái niệm vai trò của Luật sư
Vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng
cứ trong giai đoạn điều tra VAHS là ảnh hưởng, tác động của LS
6
thông qua hoạt động thực hiện chức năng của mình đối với việc phát
hiện, tìm kiếm, kiểm tra và lựa chọn những thông tin, tài liệu, đồ vật
để chống lại sự buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can
theo quy định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Trong giai đoạn điều tra VAHS, việc TTCC của LS được thực
hiện thông qua các hoạt động sau: Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa từ người bị can, người thân thích của
những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí
mật công tác.
1.3. Các hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng
cứ của luật sư
Theo quy định của BLTTHS 2003 các biện pháp TTCC của
LS được xác định bằng các hoạt động như sau:Thu thập tài liệu, tình
tiết liên quan đến việc bào chữa từ bị can, người thân thích của họ;
TTCC trong quá trình thạm dự việc hỏi cung bị can. LS có quyền
mặt khi hỏi cung bị can và nếu được Điều tra viên đồng ý thì được
hỏi bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
7
Chương 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU
THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Các qui định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
thể hiện vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
2.1.1. Thể hiện trong quy định về quyền của luật sư
BLTTHS hiện hành không có điều luật riêng quy định về vai
trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ mà
hoạt động này chủ yếu thông qua điều luật quy định về Quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa.
Theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003 thì
người bào chữa có quyền: “Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên
quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân
theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác”.
2.1.2 Quy định về thu thập chứng cứ
Như đã phân tích tại chương một, TTCC được hiểu là việc ghi
nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của CQTHTT làm cho chứng cứ
có đầy đủ giá trị chứng minh và hiệu quả sử dụng. Như vậy, chứng
cứ cần phải có sự ghi nhận theo thủ tục TTHS mới có thể sử dụng
làm chứng cứ chứng minh tội phạm. Khác với các vụ án dân sự là
nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về các đương sự, có nghĩa là các
đương sự phải có nghĩa vụ đưa ra những tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, đối với các
8
VAHS, trách nhiệm chứng minh tội phạm hoàn toàn thuộc về các
CQTHTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh là mình vô tội.
2.1.3. Quy định về đánh giá và sử dụng chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là quá trình hoạt động phân tích của
CQTHTT nhằm xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đối với
những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án hình sự. Vấn đề đánh
giá chứng cứ là rất phức tạp, cùng một chứng cứ, cùng một hồ sơ
hoặc cùng một tình tiết nhưng quan điểm đánh giá nhiều khi rất khác
nhau.
Theo quy định pháp luật hiện hành, LS có một vai trò rất quan
trọng trong việc đánh giá chứng cứ. Tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can,
bị cáo, LS sẽ cùng với thân chủ của mình trở thành một bên trong tố
tụng; LS phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và
kiến thức chuyên môn của mình trong đó có kiến thức về chứng cứ
và đánh giá chứng cứ nhằm bác lại những quan điểm đối lập, bảo vệ
quan điểm của mình
2.1.4. Đánh giá quy định của pháp luật về hoạt động thu
thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
2.1.4.1. Những bất cập trong quy định của Bộ Luật tố tụng
hình sự năm 2003 về vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh
giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã
được quy định trong Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015
Để khắc phục những bất cập trong quy định của BLTTHS năm
2003 về vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS đã được BLTTHS năm
9
2015 khắc phục với những nội dung mới, thể hiện sự tiến bộ bằng
những nội dung mới sau đây: Thứ nhất, lần đầu tiên, nguyên tắc
tranh tụng được đưa vào BLTTHS như là sự thừa nhận rằng, TTHS
Việt Nam hướng đến nền tố tụng công bằng giữa bên buộc tội với
bên bị buộc tội. Thứ hai, BLTTHS 2015 quy định cụ thể sự tham gia
tố tụng của người bào chữa và xóa bỏ những cản trở đã từng xảy ra
khi thực thi BLTTHS 2003. Thứ ba, để người bào chữa thực hiện tốt
việc bào chữa, gỡ tội, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền của
người bào chữa Thứ tư, BLTTHS năm 2015 bổ sung các cơ chế để
người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, Thứ năm, quy định rõ
hơn về các biện pháp TTCC mà LS được sử dụng. Thứ sáu, để phù
hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về tăng
cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,
Thứ bảy, việc lấy lời khai những người tham gia tố tụng và hỏi cung
bị can cũng có những nội dung mới như sau.
2.1.4.2. Những bất cập trong quy định của Bộ Luật tố tụng
hình sự năm 2003 về vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh
giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự chưa
được khắc phục trong Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015
Thứ nhất, Mặc dù đã có nhiều đổi mới trong các quy định về
hoạt động TTCC của LS nhưng tương tự như BLTTHS 2003,
BLTTHS 2015 vẫn chưa có quy định rõ trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ
của cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp tài liệu cho LS.
Thứ hai, chưa thật sự tạo được thế “cân bằng” giữa bên buộc
tội và bên gỡ tội trong quá trình TTCC bởi lẽ người bào chữa sau khi
vất vã “chạy ngược, chạy xuôi” làm đủ mọi cách nhưng vẫn không
thể thu thập được chứng cứ mà theo họ là cần thiết.
10
Thứ ba, Người bào chữa vẫn bị hạn chế quyền được hỏi vì phụ
thuộc nhiều vào quan điểm chủ quan của người có thẩm quyền, bởi
lẽ theo quy định này thì trong quá trình người có thẩm quyền lấy lời
khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can thì người
bào chữa chỉ được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can nếu
người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý.
Thứ tư, việc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ
sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa chỉ được chấp thuận sau khi kết
thúc điều tra, nhưng thực tế sau khi kết thúc điều tra, LS không được
tạo điều kiện nghiên cứu, sao chụp hồ sơ mà chờ đến khi chuyển
sang VKS mới được nghiên cứu, sao chụp.
Thứ năm, BLTTHS năm 2015 chưa quy định rõ trách nhiệm
cung cấp chứng cứ của các cơ quan hữu quan mà mới chỉ quy định
quyền của LS đối với vấn đề này.
2.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Luật sư trong việc
thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra
tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh
Có thể nói án hình sự ở địa bàn Quận 1 đa phần liên quan đến
trộm cắp, cướp giật và ma tuý cho nên sự tham gia của LS thì số
lượng các vụ án do chỉ định vẫn cao hơn so với số lượng các vụ án
mà LS được bị can, bị cáo hoặc người nhà của họ mời tham gia.
Thực tiễn quyền được nhờ người bào chữa trong TTHS là chưa tốt,
phần lớn là do tâm lý của những người tham gia tố tụng chưa quen
với việc mời LS bào chữa hoặc đại diện cho mình mỗi khi tham gia
vào các quan hệ pháp luật.
2.2.1. Khái quát về tình hình thực hiện vai trò của Luật sư
trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh
11
Thực tế cho thấy, trong cả quá trình điều tra LS gần như bị các
CQĐT vô hiệu hoá. LS rất khó khăn trong việc gặp bị can bởi các
quy định của pháp luật và cả chủ quan của CQĐT không muốn LS
tham gia. Khi được gặp bị can thì những nội dung quan trọng đã
được hoàn tất trong hồ sơ vụ án, LS chỉ hỏi bị can những vấn đề
không quan trọng”.
Việc CQĐT gây khó trong việc cấp Giấy chứng nhận người
bào chữa, không công nhận các tài liệu, đồ vật được LS thu thập
trong quá trình bào chữa. Dù các tài liệu, đồ vật được thu thập có thể
bao hàm đẩy đủ thuộc tính của chứng cứ nhưng quá trình LS phải
thực hiện một loạt kỹ năng để chuyển hóa các tài liệu, đồ vật đó vào
quá trình TTHS là hết sức khó khăn, nhiều hạn chế.
Chính từ những nguyên nhân trên đã làm LS mất hết ý chí, e
ngại tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra. Gần như trên 90% LS
khi được yêu cầu bào chữa VAHS thì đều chỉ tham gia từ giai đoạn
khởi tố, xét xử; các LS tham gia từ giai đoạn điều tra là rất ít. Bên
cạnh đó, thực tế cũng cho thấy các án hình sự ở Quận 1 thành phố
Hồ Chí Minh tập trung vào các vụ cướp giật, trộm cắp, gây rối trật tự
công cộng, các án về ma tuý… cho nên ở các án không nghiêm trọng
thì các bị can, bị cáo đã không yêu cầu LS bào chữa cho mình.
Như vậy có thể thấy hoạt động TTHS phần lớn vẫn do các
CQTHTT chỉ định. Điều này có thể lý giải do các bị can, bị cáo khi
tham gia tố tụng không có sẵn tâm lý nhờ LS biện hộ quyền và lợi
ích của mình cũng như những nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.
+ Luật sư bị gây khó khăn trong khi thực hiện quyền được
nghiên cứu hồ sơ, sao chụp tài liệu.
Không phải trong trường hợp nào LS cũng được CQĐT tạo
điều kiện để sao chụp tài liệu. Nhiều trường hợp, ĐTV đưa ra những
12
lý do không chính đáng như: Cơ quan không có máy photocopy hoặc
máy hỏng, hoặc cán bộ cầm hồ sơ đi công tác. Để thực hiện quyền
năng này, không có cách nào khác là LS phải chủ động sát sao đề
nghị và chuẩn bị các phương tiện phục vụ cho công việc như máy
ảnh có chức năng chụp tài liệu, phần mềm scan tài liệu trên điện
thoại di động …
Việc cản trở LS không được sao chụp các loại văn bản tố tụng
trước khi xét xử là sai, tuy nhiên không thuộc loại vi phạm tố tụng
nghiêm trọng. Dựa vào quy định mù mờ của luật nên CQĐT, CQ
THTT thường xuyên gây khó cho LS.
+ Hoạt động gặp và trao đổi với người bị tạm giữ, bị can của
Luật sư
Hoạt động này chỉ được tiến hành giữa người bào chữa và
người bị tạm giữ mà không có sự tham gia của những người khác, để
củng cố tinh thần cho họ và cũng là dịp để LS giải thích bị can,
người bị tạm giữ quyền và nghĩa vụ của LS khi tham gia vào vụ án.
Khi đã hiểu được lợi ích của việc có LS, cũng như các quy định của
pháp luật, và khi đã tin tưởng bị can, và người bị tạm giữ có thể yên
tâm trình bày một cách trung thực những gì họ biết được về vụ án.
Với thực tế đầy rẫy những khó khăn như vậy khi tham gia vào
giai đoạn điều tra VAHS, nếu LS ngại va chạm với ĐTV, cán bộ của
CQĐT, không kiên quyết đấu tranh đế thực hiện đầy đủ và trách
nhiệm quyền năng của mình, thì rất khó để LS có thể hoàn thành
nhiệm vụ.
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện vai trò của luật sư trong
việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh
2.2.2.1. Kết quả đạt được
13
Với sự tham gia của mình trong giai đoạn điều tra, thực hiện
vai trò thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ, đại đa số LS bằng
việc trực tiếp nghiên cứu hồ sơ chứng cứ các VAHS:
- Đã phát hiện ra những vi phạm về trình tự, thủ tục điều tra,
tính chưa đầy đủ và sự mâu thuẫn giữa các tài liệu, chứng cứ; qua
việc tiếp xúc với bị can và các đương sự khác. Trên cơ sở đó, LS có
thể đưa ra những lời đề nghị với các cơ quan pháp luật làm rõ những
tình tiết cần chứng minh....
- LS còn góp phần quan trọng của mình vào việc phát hiện
những thiếu sót, hoặc vi phạm của CQĐT trong giai đoạn điều tra
VAH.
- Đa số các LS với tinh thần trách nhiệm cao trước khách hàng
và trước pháp luật (kể cả các vụ án theo yêu cầu của CQTHTT),
2.2.2.2. Hạn chế, vướng mắc
Luật sư còn gặp khó khăn trong việc tham dự việc hỏi cung bị
can và tham gia các hoạt động điều tra khác.
Trình độ, thủ tục giám định ảnh hưởng không nhỏ đến việc
đánh giả và sử dụng chứng cứ
- Điều kiện làm việc, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của
cơ quan tư pháp, giám định tư pháp nhiều nơi và trên nhiều lĩnh vực
còn thô sơ, lạc hậu, cơ sở giam, giữ còn chưa đáp ứng yêu cầu.
- Hoạt động điều tra còn có những thiếu sót, vi phạm về thủ
tục tố tụng khá phổ biến ở nhiều địa phương
2.2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế, vướng m
- Nguyên nhân từ quy định của pháp luật
BLTTHS 2003 quy định LS có quyền thu thập tài liệu, đồ vật,
nhưng lại chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục TTCC của luật sư.
14
Một số quy định của BLTTHS còn hạn chế, khái niệm chứng
cứ, các nguyên tắc đánh giá, sử dụng và loại trừ chứng cứ; chủ thể
TTCC.
Về cơ chế đánh giá và sử dụng chứng cứ, khoản 2 Điều 66
BLTTHS 2003 thì thẩm quyền đánh giá, sử dụng chứng cứ trong vụ
án hình sự hoàn toàn thuộc về người THTT: ĐTV, KSV, TP, HTND.
LS chỉ có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ thu thập được (tài liệu, đồ vật
và tình tiết có liên quan) cho CQTHTT
- Nguyên nhân từ phía Luật sư
Việc TTCC trong tố tụng nói chung, thu thập tài liệu, đồ vật có
liên quan của LS nói riêng đòi hỏi phải có kỹ năng, nghiệp vụ
chuyên sâu. Hiện nay, hầu hết LS hành nghề đều chưa được trang bị
kỹ năng, nghiệp vụ này một cách bài bản, nên khả năng thu thập tài
liệu, đồ vật rất hạn chế và ít có giá trị chứng minh trong VAHS.
- Nguyên nhân từ phía Cơ quan điều tra
Thứ nhất, đôi khi CQĐT khởi tố bị can là để áp dụng biện
pháp tạm giam đảm bảo bị can không bỏ trốn, còn hồ sơ vụ án thời
điểm đó cơ bản đã hoàn tất; trường hợp CQĐT gần kết thúc điều tra
mới khởi tố bị can thì rõ ràng là sự có mặt của LS trong giai đoạn
điều tra gần như không còn ý nghĩa.
Thứ hai, nhận thức của ĐTV, cán bộ CQĐT về quy định của
pháp luật, về ý nghĩa của sự tham gia của LS trong giai đoạn điều ra
VAHS còn hạn chế.
- Nguyên nhân từ phía bị can và người thân thích của họ
Trong nhiều VAHS, bị can và người thân thích của họ chưa
nhận thức rõ được vai trò quan trọng của LS bào chữa trong việc bảo
vệ quyền lợi của họ hoặc người thân của họ nên chưa tích cực, chủ
động trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật cho LS.
15
Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng nhiều bị can và người thân
thích của họ do lo sợ trước sự dọa nạt của một số ĐTV nên không
dám nhờ LS hoặc tiếp tục nhờ LS bào chữa hay cung cấp thông tin,
tài liệu, đồ vật theo yêu cầu của LS.
16
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG
VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ Ở
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Tăng cường triển khai các biện pháp hướng dẫn thi
hành Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 về hoạt động thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
- Cần kịp thời có văn bản hướng dẫn thi hành những quy định
của BLTTHS năm 2015 về những quy định có liên quan đến hoạt
động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS trong giai đoạn
điều tra VAHS.
- Liên đoàn LS Việt Nam cần phối hợp với các Đoàn LS tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương tổ chức các buổi Hội thảo, tọa đàm
hướng dẫn các LS áp dụng tốt các quy định mới của BLTTHS 2015
về quyền TTCC của LS khi tham gia tố tụng.
- Các CQTHTT cũng cần tổ chức tập huấn áp dụng quy định
mới của BLTTHS 2015, đặc biệt là các quy định về quyền TTCC của
người bào chữa cho các cán bộ tham gia hoạt động tố tụng, đảm bảo
áp dụng đúng quy định của pháp luật TTHS, thực hiện tốt quyền của
người bào chữa trên thực tế.
3.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của
Luật sư
Từ sự phân tích ở trên, tác giả đề xuất hoàn thiện các quy định
của pháp luật TTHS Việt Nam về hoạt động thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ của LS như sau:
17
Thứ nhất, cần quy định rõ trình tự, thủ tục gặp người bị buộc
tội của người bào chữ.
Thứ hai, cần sửa đổi quy định tại Khoản 2 Điều 58 BLTTHS
2003 như sau: Người bào chữa có quyền: “Có mặt khi người có thẩm
quyền lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can
và được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.”
Thứ ba, Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá
trình điều tra, truy tố mà không có sự tham gia của LS thì không
được công nhận là chứng cứ, trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra
đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Thứ tư, bổ sung quy định: “Các cơ quan, tổ chức, cá nhân lưu
giữ tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa có trách
nhiệm cung cấp cho người bào chữa khi có yêu cầu”.
- Luật LS cũng cần sửa đổi, bổ sung cho thích ứng kịp thời với
các bộ luật mới được ban hành
3.3. Các giải pháp khác
- Ghi nhận và khẳng định địa vị pháp lý của LS tham gia bào
chữa như một chức danh tư pháp độc lập với đầy đủ các quyền năng
để LS thực hiện tốt quyền được thu thập, đánh giá và sử dụng chứng
cứ
- Cần có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi, tạo sự bình đẳng để LS
thực hiện hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ một
cách độc lập
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của đội ngũ
LS bào chữa cả về số lượng và chất lượng
- Nâng cao nhận thức, vai trò của những người THTT, các
CQTHTT trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa
18
nói chung, quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc
bào chữa của LS nói riêng
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến
thức pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân các quy định về vị trí, vai
trò của LS bào chữa, đặc biệt là những quy định mới về quyền TTCC
của LS bào chữa theo BLTTHS 2015
19
KẾT LUẬN
1. Nhà nước pháp quyền là một mô hình, phương thức tổ
chức nhà nước và xã hội dựa trên nền tảng dân chủ và tinh thần
thượng tôn pháp luật. Đảng ta đã nhận thức được tính tất yếu khách
quan, cấp thiết việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra: “Trăm điều phải có
thần linh pháp quyền”. Báo cáo chính trị Đại hội XII đã khẳng định:
“Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính
trị”. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã không ngừng nâng cao nhận
thức, đổi mới tư duy, từng bước để cao nguyên tắc quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
2. Trong sự cố gắng của cả hệ thống chính trị, cần ghi nhận nỗ
lực cố gắng của các cơ quan tư pháp và bên cạnh đó là hoạt động của
đội ngũ LS. Sự chuyển biến trong chất lượng của các cơ quan tư
pháp được thể hiện rõ nét kể từ khi Bộ Chính trị ban hành nghị quyết
số 08- NQ/TW ngày 02/1/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp thời gian tới”, tiếp đó là nghị quyết số 49- NQ/TW
của Bộ chính trị ban hành ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020”. Đó là hai văn bản hết sức quan trọng đề cập
toàn diện các nhiệm vụ cải cách tư pháp, đưa ra định hướng, quan
điểm chỉ đạo, các biện pháp cụ thể đối với công tác tư pháp, đổi mới
tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp, và các tổ chức bổ trợ tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động của LS.
3. Hoàn thiện pháp luật về tố tụng cần phải theo kịp và đồng
bộ với tiến trình đổi mới pháp luật về nội dung và pháp luật về tổ
chức Bộ máy Nhà nước để đảm bảo có đủ công cụ pháp lý cần thiết
cho Cơ quan, tổ chức tư pháp thực hiện quyền năng và trách nhiệm
20
của mình và công dân có cơ sở bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Hoàn
thiện pháp luật tố tụng theo hướng đảm bảo các thủ tục tố tụng dân
chủ, tăng cường vai trò của LS nhằm thực thi nguyên tắc bình đẳng
và tôn trọng quyền con người trong TTHS. Chế định LS đã được quy
định tương đối cụ thể trong BLTTHS. Tuy nhiên, do nhận thức chưa
thật đầy đủ và do chưa có sự hướng dẫn cụ thể, đồng bộ, thống nhất
dẫn đến việc LS tham gia vào hoạt động tố tụng chưa hiệu quả. Một
số quy định của Luật TTHS còn mang tính hình thức hoặc khó thực
hiện hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng không
thống nhất.
4. Việc cho phép LS tham gia ở giai đoạn điều tra không chỉ
mở rộng những nguyên tắc dân chủ của TTHS mà còn nâng cao chất
lượng điều tra VAHS, tăng cường pháp chế XHCN trong giai đoạn
điều tra... Sự tham gia của LS thúc đẩy việc điều tra vụ án đầy đủ,
toàn diện và khách quan hơn. Sự giúp đỡ đó không chỉ có lợi cho bị
can, mà còn có lợi cho cả các CQTHTT. Vụ án càng có ý nghĩa
chính trị - Xã hội, càng quan trọng và phức tạp thì càng cần có sự
tham gia sớm hơn của LS ở giai đoạn điều tra, nhất là cùng với
CQĐT tiến hành thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ để làm sáng
tỏ vụ án, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.
5. Với đề tài "Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá
và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố
Hồ Chí Minh", tác giả đã nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở lý luận về
vai trò của LS trong giai đoạn điều tra VAHS, về thực trạng hoạt
động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS, những hạn chế,
nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của LS trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng
21
chứng cứ. Đồng thời đưa ra những kiến nghị và giải pháp cho việc
nâng cao vai trò của LS trong giai đoạn điều tra VAHS, và cũng là
nâng cao vị thế của LS trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất
nước, từng bước hội nhập khu vực và thế giới. Mặc dù phạm vi đề
tài nghiên cứu phức tạp, có nhiều khó khăn trong việc thu thập số
liệu thực tiễn từ các CQĐT, tuy nhiên, luận văn đã đạt được một số
kết quả khiêm tốn.
22