Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.43 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC THẢNH

TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC THẢNH

TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT
NGƯỜI ....................................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội giết người ..................................... 6
1.2. Phân biệt tội giết người và một số tội phạm khác ......................................... 17
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Viêt Nam về tội giết người ......................... 25
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN ......... 39
2.1 Thực trạng tội giết người trên địa bàn tỉnh Long An ................................... 39
2.2. Thực tiễn định tội danh tội giết người trên địa bàn tỉnh Long An .............. 41
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội giết người trên địa bàn tỉnh Long
An ....................................................................................................................... 49
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM .............................................................................................................. 63
3.1. Yêu cầu đối với áp dụng đúng pháp luật về tội giết người ......................... 63
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội giết người .............. 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 72
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL

: Áp dụng pháp luật

BLHS

: Bộ luật hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

CQĐT

: Cơ quan điều tra

QĐHP

: Quyết định hình phạt

TAND

: Tòa án nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án về tội giết người và các vụ án hình sự khác
được xét xử trong giai đoạn từ 2012 – 2016 trên địa bàn tỉnh Long An
Bảng 2.2: Bảng thống kê về hình phạt tội giết người được xét xử sơ thẩm trong
giai đoạn từ 2012 – 2016 trên địa bàn tỉnh Long An
Bảng 2.3. Thống kê các vụ án hình sự về tội giết người và các tội liên quan đến
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người trên địa bàn tỉnh Long An giai đoạn 2012 –
2016
Biểu đồ 2.1: Số vụ án về tội giết người được xét xử trên địa bàn tỉnh Long An
giai đoạn 2012 - 2016


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam từ khi thống nhất đất nước (1975) luôn có một nền chính trị - xã
hội ổn định. Đây là một tiền đề quan trọng để tiến hành cải cách, đổi mới và phát
triển kinh tế đất nước. Đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và
quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế phát triển không
ngừng, an ninh chính trị, trật tự xã hội ổn định, đời sống của người dân được nâng
cao…..
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta cũng đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức không hề nhỏ như sự chống phá từ các thế lực
thù địch; sự suy thoái, khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu; các vấn đề mặt trái
của sự phát triển kinh tế (tăng dân số, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, tội phạm…), trong
đó, tình hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm giết người có diễn biến ngày càng phức
tạp, tinh vi và có tính chất, mức độ nguy hiểm ngày một tăng. Ngoài việc tước đoạt
tính mạng của người khác, gây ra những nỗi đau thương cho nhiều gia đình, nó còn

để lại hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Long An là một tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm Phía Nam và là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ, Thành Phố Hồ Chí
Minh với khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Cũng như các tỉnh, thành phố khác,
mặt trái của sự phát triển nhanh về kinh tế, sự phát triển nhanh của ngành giải trí,
thông tin truyền thông là sự đi xuống về đạo đức, lối sống của một bộ phận người
dân làm phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh, nhất là tội phạm về
giết người với thủ đoạn và mức độ ngày càng nguy hiểm. Nhiều vụ án giết người
trên địa bàn tỉnh Long An xảy ra một cách tàn ác, dã man với những phương thức,
thủ đoạn, kế hoạch tinh vi, xảo quyệt. Đa số tội phạm giết người có tính chất côn
đồ, liều lĩnh, có tổ chức, sử dụng các loại hung khí nguy hiểm để phạm tội đã đánh
lên hồi chuông cảnh tỉnh về tình trạng bạo lực, xem thường tính mạng, sức khỏe của
con người, xem thường pháp luật.

1


Trước tình hình diễn biến tội phạm xảy ra phức tạp như vậy, các cơ quan bảo
vệ pháp luật tỉnh Long An đã cố gắng trong việc áp dụng pháp luật một cách đúng
đắn, có hiệu quả để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm, ổn định trật
tự xã hội. Song vẫn còn đó một số vụ án giết người còn thể hiện sự hạn chế trong
hoạt động điều tra, truy tố và xét xử như: việc định tội danh và quyết định hình phạt
còn chưa chính xác, vi phạm các thủ tục tố tụng hình sự…dẫn đến phải trả hồ sơ
hoặc làm cho quá trình xét xử, thi hành án kéo dài. Việc xác định tội danh và quyết
định hình phạt đúng đối với tội giết người là một trong những điều kiện quan trọng
đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, sự ổn định kỷ cương xã hội, góp phần nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Long An nói riêng
và cả nước nói chung. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tội giết người theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” sẽ góp phần làm rõ thêm về lý
luận và pháp luật về tội giết người theo pháp luật Việt Nam, những tồn tại, hạn chế

trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giết người. Ngoài
ra, trong một chừng mực nhất định, việc nghiên cứu đề tài góp phần sửa đổi, bổ
sung chế định pháp luật hình sự về tội giết người, tạo cơ sở cho việc xử lý các vụ án
giết người trên địa bàn tỉnh Long An nói riêng, cả nước nói chung, góp phần nâng
cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm trong cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về tội giết người như: Luận văn Thạc
sĩ luật học “Tội giết người theo Luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống
tội phạm giết người” của tác giả Hoàng Công Huân, Hà Nội, năm 1997; Luận văn
Thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam” của tác
giả Bùi Trọng Tuệ, Hà Nội, năm 2004; Luận án Tiến sĩ luật học “Tội giết người
trong Luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống loại tội phạm này” của tác
giả Đỗ Đức Hồng Hà, Hà Nội, năm 2006; Luận văn “Tội giết người theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định” của tác giả Nguyễn Chí Công, Hà
Nội, năm 2016; Luận văn “Đấu tranh phòng chống các tội giết người trong giai
đoạn hiện nay tại Long An” của tác giả Lê Kim Dung năm 2007; ....

2


Các công trình nghiên cứu trên đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc
nghiên cứu, đánh giá tình hình tội phạm giết người, đồng thời chỉ ra được các
nguyên nhân, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực tiễn đấu tranh trong
giai đoạn tiếp theo. Kết quả nghiên cứu về lí luận của các công trình nêu trên sẽ
được tác giả tiếp thu, phát triển trong Luận văn của mình. Tuy nhiên, những công
trình trên đều đã được thực hiện cách đây nhiều năm, nhiều đề tài nghiên cứu từ
thực tiễn ở một địa phương nhất định với những đặc thù, đặc điểm địa phương khác
nhau nên đã có những cách áp dụng pháp luật, xử lý có nét khác biệt và thời gian
gần đây chưa có đề tài nào nghiên cứu về tội giết người từ thực tiễn tỉnh Long An.
Do vậy, tác giả đã chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở các vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam, từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội giết người trên địa bàn tỉnh
Long An, Luận văn đề xuất các giải pháp đảm bảo việc xác định tội danh và hình
phạt đối với tội giết người ở Việt Nam và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các quy
định liên quan đến tội giết người trong BLHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích về sự hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội giết người.
- Phân tích các dấu hiệu pháp lý về tội giết người và phân biệt tội giết người
với một số tội phạm khác.
- Phân tích và đánh giá hoạt động xét xử các vụ án hình sự về tội giết người
trên địa bàn tỉnh Long An, trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích việc định tội
danh và quyết định hình phạt trong các vụ án về tội giết người.
- Đưa ra các giải pháp đảm bảo việc định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội giết người và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp
luật liên quan đến tội giết người.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bộ luật hình sự 2015 chưa có hiệu lực thi hành và đã được sửa đổi, bổ sung,
dự kiến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự vừa được Quốc hội
thông qua tại Kỳ họp thứ 3 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, do vậy, đề tài tập
trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tội giết người dựa theo BLHS Việt Nam
năm 1999, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật quy định về tội giết người
tại tỉnh Long An từ năm 2012 đến năm 2016.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi lý luận về định tội danh và quyết
định hình phạt tội giết người dưới góc độ Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, gắn
với thực tiễn tại tỉnh Long An. Các số liệu thu thập được từ Vụ thống kê- Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, các báo cáo của Đoàn giám sát của
Quốc hội, Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An
từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và Pháp luật, về đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã trực tiếp tổng hợp các tài liệu liên quan đến tội giết người, xử lý
các vụ án giết người trên địa bàn tỉnh Long An và cả nước, kết hợp với việc nghiên
cứu, đánh giá, phân tích một số vụ án cụ thể để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu
trong Luận văn.
Những phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận, góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật về tội giết người. Ngoài ra, Luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu học tập và nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu trong Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả xử lý các vụ
án hình sự về tội giết người, đồng thời làm cơ sở để trình cấp có thẩm quyền sửa
đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật liên quan đến tội giết người trong Bộ
luật hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
7. Cơ cấu
Ngoài Phần mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương,
như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội giết người trên địa bàn tỉnh Long An.
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án về
tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội giết người
1.1.1. Khái niệm về tội giết người
Con người được coi là vốn quý trong xã hội, là chủ thể của tổng hòa các mối
quan hệ xã hội. Con người sáng tạo ra xã hội và là giá trị xã hội cao quý nhất. Vì
thế, bảo vệ cuộc sống bình yên và chăm lo hạnh phúc cho con người luôn là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của mỗi quốc gia, mà điều căn bản tiên quyết đó là bảo vệ
những quyền thiêng liêng: quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc.
Từ trước đến nay, hành vi giết người, ở bất kỳ chế độ nào cũng đều bị coi là
hành vi tàn ác, vô nhân đạo, vì nó không những gây đau thương mất mát cho gia
đình, người thân nạn nhân, phá vỡ tế bào xã hội mà còn gây mất an ninh, trật tự ở
địa phương, tạo ra tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Chính vì lẽ

đó, pháp luật hình sự về tội giết người đã được hình thành từ khá sớm trong hệ
thống pháp luật Việt Nam và nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người
luôn luôn được đặt lên hàng đầu.
Trước khi nghiên cứu về tội giết người, ta cần hiểu khái niệm tội giết người
là thế nào. Theo đó, trước hết phải đi từ vấn đề chung nhất, đó là khái niệm về tội
phạm. Khái niệm về tội phạm dùng để chỉ tất cả các hành vi được luật quốc gia hay
luật quốc tế xác định là trái pháp luật mà chủ thể thực hiện hành vi đó phải chịu
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước là hình phạt. Tùy sự ghi nhận,
định nghĩa của từng quốc gia cũng như quan điểm của các nhà khoa học mà khái
niệm về tội phạm không hoàn toàn giống nhau.
Có thể lấy ví dụ như: Điều 40 BLHS Malaysia quy định tội phạm là: “Bất cứ
hành vi nào bị Bộ luật này hoặc các đạo luật có hiệu lực tại thời điểm thực hiện
hành vi coi là phải chịu hình phạt” hoặc quy định tại Điều 3 BLHS Philipines:
“Hành vi hành động hoặc hành vi không hành động bị trừng trị về mặt hình sự theo
quy định của luật thì gọi là tội phạm”.

6


Trong BLHS Việt Nam năm 1999, khoản 1 Điều 8 quy định: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.” [9, tr. 51].
BLHS Việt Nam năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự, do người có nâng lực trách nhiệm hình
sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc

lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. [11, tr.13].
Khái niệm tội phạm là một trong những khái niệm cơ bản nhất của pháp luật
hình sự, là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể trong phần các
tội phạm cụ thể của BLHS và để quy định khung hình phạt cho các loại tội đó. Xuất
phát từ khái niệm này, các tội xâm phạm tính mạng được hiểu là những hành vi
(hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực
TNHS thực hiện, có lỗi (cố ý hoặc vô ý), xâm phạm đến quyền được tôn trọng và
bảo vệ đó là tính mạng của người khác.
Nhóm tội xâm phạm tính mạng bao gồm 13 tội, trong đó tội giết người, một
trong những tội phạm đặc biệt nguy hiểm, được quy định tại Điều 93 BLHS 1999
như sau: “1. Người nào giết người thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười hai năm, đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình…” [9, tr. 97].
Với quy định như vậy, nhà làm luật mới chỉ dừng lại ở việc nêu tội danh và khung
hình phạt mà chưa định nghĩa cụ thể thế nào là hành vi giết người và những dấu

7


hiệu pháp lý của nó. Nhìn lại lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay
cũng chưa thấy có văn bản pháp luật nào đưa ra khái niệm về tội giết người. Trên cơ
sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, hiện nay còn
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau xung quanh về khái niệm tội giết người, cụ thể:
Tại bản tổng kết thực tiễn xét xử tội giết người ban hành kèm theo Công văn
số 452-HS2 ngày 10/08/1970 của Tòa án nhân dân tối cao có nêu định nghĩa: “Tội
giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp
luật” [14]. Quan điểm khác lại cho rằng: “Tội giết người là hành vi trái pháp luật

của người đủ năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước bỏ quyền sống của người
khác”. Có thể thấy: quan điểm thứ nhất mới chỉ đề cập đến mặt khách quan của tội
này mà chưa đưa ra được dấu hiệu năng lực TNHS và độ tuổi chịu TNHS của chủ
thể tội phạm. Quan điểm thứ hai đã đề cập đến dấu hiệu năng lực TNHS nhưng lại
không đề cập đến độ tuổi chịu TNHS.
Để xác định một hành vi có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội giết người, trước
tiên hành vi đó phải có tính chất nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS,
hành vi đó phải do người có năng lực TNHS và đạt đủ điều kiện về độ tuổi chịu
TNHS với lỗi cố ý. Điều 9 BLHS quy định về lỗi cố ý là phạm tội trong những
trường hợp sau đây:
“1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra” [9, tr. 52].
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mình gây ra và có khả năng điều khiển hành vi ấy. Năng lực TNHS chỉ
được hình thành khi con người đạt đến một độ tuổi nhất định và năng lực đó tiếp tục
phát triển hoàn thiện trong thời gian nhất định tiếp theo. Khoản 2 Điều 12 BLHS
quy định độ tuổi chịu TNHS như sau: “2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa

8


đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.” [9, tr. 52]
Từ những quan điểm, quy định pháp luật và phân tích nêu trên, ta có thể rút
ra khái niệm về tội giết người như sau: “Tội giết người được hiểu là hành vi trái
pháp luật được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm

hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý nhằm tước
đoạt tính mạng của người khác.”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội giết người
Phân tích quy định về tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS năm
1999 và Điều 123 BLHS năm 2015 cho thấy, tội giết người có các dấu hiệu pháp lý
như sau:
1.1.2.1. Về khách thể
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm
có vị trí đặc biệt với ý nghĩa là những quan hệ xã hội bị tội phạm gây ra thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại. Những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của
luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 của BLHS năm
1999.
Khách thể của tội giết người là những quan hệ xã hội quan trọng được luật
hình sự bảo vệ, đó là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng – các
quyền cơ bản nhất của con người được quy định tại Điều 19 Hiến pháp năm 2013
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con
người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” [10].
Đồng thời được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 6 Công ước quốc tế về các Quyền dân
sự, chính trị (ICCPR) cụ thể hóa Điều 3 UDHR, trong đó nêu rằng: “Mọi người đều
có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có
thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện”.

[3]

Đối tượng tác động tội giết người là những chủ thể có quyền được tôn trọng
và bảo vệ tính mạng, đó là những người đang sống, đang tồn tại trong thế giới

9



khách quan với tư cách là một con người – thực thể tự nhiên và xã hội. Khoảng thời
gian người bị hành vi phạm tội xâm hại đến tính mạng bắt đầu từ khi người đó được
sinh ra và kết thúc khi họ chết đi. Như vậy, trường hợp có hành vi xâm hại trước
thời điểm một người được sinh ra (tức chưa là thực thể tồn tại độc lập cũng chưa tồn
tại về mặt pháp lý) thì hành vi phạm tội chưa thể xâm hại người đó được. Ví dụ:
hành vi phá thai nhưng thai nhi ở tháng thứ mấy cũng không coi là hành vi giết
người. Tương tự, nếu một người đã chết, thì hành vi xâm phạm đến xác chết đó
không phải là hành vi giết người, nhưng giết một người sắp chết vẫn là giết người.
Tuy vậy, trường hợp người phạm tội tưởng nhầm xác chết là người đang còn sống
nên đã thực hiện hành vi giết người với lỗi cố ý thì vẫn coi là phạm tội giết người.
Khoa học luật hình sự gọi đó là sai lầm về đối tượng.
1.1.2.2. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội giết người là mặt bên ngoài, gồm những biểu hiện
của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách quan
của tội giết người bao gồm các yếu tố cấu thành: hành vi khách quan của tội giết
người, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách
quan với hậu quả nguy hiểm cho xã hội đó. Mặt khách quan là một trong bốn yếu tố
cấu thành của tội phạm. Nếu không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố
khác của tội giết người và do đó cũng không có tội giết người.
 Hành vi khách quan của tội giết người:
Trong luật hình sự, hành vi khách quan là những biểu hiện của con người ra
ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể có sự kiểm soát của ý thức
và sự điều khiển của ý chí nhằm đạt được mục đích có chủ định và mong muốn.
Theo đó, hành vi khách quan của tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp
luật tính mạng của người khác. Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác có thể
hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người và chấm dứt sự sống của
họ. Những hành vi không có khả năng này không thể coi là hành vi khách quan của
tội giết người. Hành vi khách quan của tội giết người có những đặc điểm sau đây:


10


Thứ nhất, hành vi tước đoạt tình mạng người khác là hành vi có tính nguy
hiểm cho xã hội. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi khách quan phụ thuộc
vào tính chất của quan hệ xã hội mà hành vi xâm hại cũng như vào tình chất và mức
độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho quan hệ xã hội đó. Đây là đặc điểm cơ
bản của hành vi phạm tội, đặc biệt là ở tội giết người thì tính chất nguy hiểm và khả
năng gây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là rất đáng kể mà
trước hết đó là xâm phạm đến quyền được sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ
tính mạng của con người, tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương
nơi tội phạm diễn ra.
Thứ hai, hành vi khách quan của tội phạm này có thể được thực hiện dưới
dạng hành động hoặc không hành động. Hành động thường được biểu hiện như:
đâm, chém, bắn, đốt cháy, đầu độc, bóp cổ, ném xuống sông, v.v…. Không hành
động, đó là trường hợp chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện những hành động, công
việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng cho người khác nhưng họ đã
không làm, không thực hiện nghĩa vụ đó cuối cùng dẫn đến hậu quả chết người. Ví
dụ: trường hợp bác sĩ, vì mục đích tư thù cá nhân nên đã trực tiếp xử lý ca mổ
nhưng cố trì hoãn không cho mổ dẫn đến hậu quả là người bệnh chết.
Thứ ba, hành vi tước đoạt tính mạng người khác phải là hành vi trái pháp
luật hình sự. Những trường hợp tước bỏ tính mạng người khác nhưng được sự cho
phép của pháp luật thì những hành vi đó không được coi là hành vi khách quan của
tội giết người. Đó là các trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết
hoặc thi hành mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách. Ví dụ như công an thi hành
bản án tử hình đối với người phạm tội. Hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính
bản thân mình không phải hành vi khách quan của tội giết người.
Đồng thời BLHS năm 2015 cũng đã quy định thêm ba trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự đối với hành vi có thể xâm hại đến tính mạng người khác đó là:
gây thiệt hại khi bắt người phạm tội (khoản 1 điều 24); Rủi ro trong nghiên cứu, thử

nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (điều 25); Thi hành mệnh
lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (điều 26).

11


 Hậu quả:
Hậu quả là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách
thể bảo vệ của luật hình sự.
Hậu quả của tội giết người là thiệt hại về tính mạng con người, xâm phạm
đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là quyền sống, quyền được tôn
trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc
trong CTTP tội giết người. Tuy nhiên nhiều trường hợp vì các nguyên nhân khách
quan mà nạn nhân chỉ bị thương, bị tật cố hoặc thậm chí không bị ảnh hưởng gì ví
dụ như bị bắn nhưng không trúng, bị đâm vào ngực nhưng lệch mũi đâm hoặc bị gài
bẫy, đầu độc nhưng được cấp cứu kịp thời nên không chết…hậu quả chết người
không xảy ra nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Đây là trường hợp
giết người chưa đạt đã hoàn thành.
 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả:
Trong CTTP, hậu quả được phản ánh là dấu hiệu khách quan và mối quan hệ
nhân quả cũng sẽ là dấu hiệu khách quan. Theo đó, quan hệ nhân quả giữa hành vi
khách quan – hành vi tước đoạt tính mạng người khác đã thực hiện và hậu quả chết
người đã xảy ra cũng là một dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội giết người.
Hành vi khách quan của tội giết người được coi là nguyên nhân nội tại, tất
yếu gây ra hậu quả chết người nếu thỏa mãn những điều kiện:
Một là, hành vi khách quan của tội giết người phải xảy ra trước hậu quả chết
người về mặt thời gian;
Hai là, hành vi khách quan đó độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với
một hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu
quả chết người;

Ba là, hậu quả chết người đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng
thực tế tất yếu sẽ làm phát sinh hậu quả của hành vi phạm tội.
Việc xác định mối quan hệ nhân quả này có ý nghĩa quan trọng trong tội giết
người bởi người có hành vi tước đoạt tính mạng người khác trái pháp luật chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi khách quan mà họ thực hiện là nguyên nhân

12


trực tiếp dẫn đến hậu quả chết người; đồng thời hậu quả chết người là kết quả tất
yếu do hành vi khách quan mà họ thực hiện gây ra. Trong thực tiễn, việc xác định
mối quan hệ nhân quả này cũng hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của giám
định pháp y.
1.1.2.3. Về chủ thể
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi
luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Theo đó, chủ thể của tội giết
người là người có năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện
hành vi giết người.
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không và để truy cứu trách nhiệm
hình sự của họ. Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình và có khả năng điều khiển hành vi ấy.
Điều 12 BLHS năm 1999 đã quy định về độ tuổi chịu TNHS:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
[9, tr. 52]
Khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 quy định giới hạn các tội danh mà nhóm tuổi

từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS như sau: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội
mua bán người dưới 16 tuổi);

13


b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều
173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái
phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội
mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị,
phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương
trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng
máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội
sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương
tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự)”[11, Tr. 16]

Người không có năng lực TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội thì không
phải chịu TNHS do hành vi mà mình gây ra. Khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1999
cũng quy định về tình trạng không có năng lực TNHS: “Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh” [9, tr. 53]. Ngoài ra pháp luật hình sự cũng quy định những trường hợp hạn
chế năng lực TNHS. Với những đối tượng thực hiện hành vi phạm tội mà bị hạn chế
khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi thì họ vẫn phải chịu TNHS do
hành vi mình gây ra nhưng khi xét xử được xem xét là tình tiết giảm nhẹ quy định

14


tại điểm n khoản 1 Điều 46 BLHS: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” [9, tr. 69]
Khung hình phạt cơ bản của tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS năm
1999 có mức cao nhất đến 15 năm tù. Căn cứ theo khoản 3 Điều 8 BLHS, ta thấy tội
giết người thuộc loại tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Như
vậy, từ những phân tích trên, ta có thể xác định chủ thể của tội giết người là bất kỳ
người nào từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực TNHS.
1.1.2.4. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội
bao gồm: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
 Lỗi:
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố
ý hoặc vô ý.
Lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc
lỗi cố ý gián tiếp.

Lỗi cố ý trực tiếp: là trường hợp người phạm tội thấy trước hậu quả chết
người có thể xảy ra nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi
phạm tội. Về lý trí: người phạm tội giết người không những nhận thức rõ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình thực hiện mà họ còn thấy trước được hậu
quả chết người sẽ xảy ra hoặc có thể xảy ra. Về ý chí: người phạm tội mong muốn
hậu quả chết người xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: là trường hợp người phạm tội nhận thức hành vi của mình
có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy
không mong muốn nhưng để đạt được mục đích của mình, họ có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra. Về lý trí: người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây nguy hiểm cho
xã hội. Về ý chí: người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, hậu

15


quả đó không phù hợp với mục đích mà họ đặt ra khi thực hiện hành vi phạm tội,
nhưng để đạt được mục đích đã đặt ra, họ chấp nhận hậu quả chết người (nếu có).
Trường hợp hậu quả chết người đã xảy ra, việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay
cố ý gián tiếp không có ý nghĩa trong việc định tội nhưng lại có ý nghĩa rất quan
trọng nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan mà hậu quả lại chưa xảy
ra:
Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra mà lỗi của người thực hiện hành vi là cố
ý trực tiếp thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội giết người chưa đạt. Trường
hợp hậu quả chết người chưa xảy ra mà lỗi của người thực hiện hành vi là cố ý gián
tiếp thì người đó chỉ phải chịu TNHS về tội cố ý gây thương tích nếu thỏa mãn các
yếu tố CTTP của tội này.
Trong thực tiễn, việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp không phải
luôn đơn giản, mà nhiều trường hợp hết sức phức tạp. Việc xác định lỗi còn đặc biệt
phức tạp hơn trong những vụ việc xác định lỗi cố ý gián tiếp hay chỉ là lỗi vô ý do

quá tự tin đối với hậu quả chết người.
 Mục đích và động cơ
Mục đích của tội phạm là kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được
khi thực hiện hành vi phạm tội. Theo đó, mục đích của tội phạm giết người là nhằm
tước bỏ đi mạng sống của nạn nhân, chấm dứt sự sống của họ. Mục đích không phải
là dấu hiệu bắt buộc phải có trong cấu thành tội giết người song trong một số trường
hợp lại là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan để làm căn cứ phân biệt một số
trường hợp và xác định tội danh của chủ thể.
Ví dụ 1: trường hợp gây thương tích cho nạn nhân nhưng hậu quả chết người
chưa xảy ra, nếu người phạm tội thực hiện hành vi với mục đích giết người thì sẽ bị
truy cứu TNHS về tội giết người thuộc giai đoạn chưa đạt, còn nếu không có mục
đích giết người thì sẽ bị truy cứu TNHS về tội cố ý gây thương tích.
Ví dụ 2: hành vi giết người nhưng mục đích là chống lại chính quyền nhân
dân sẽ cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân theo Điều 84
BLHS.

16


Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội của mình. Động cơ thúc đẩy người phạm tội giết người thực hiện hành vi
khách quan có thể là động cơ đê hèn, do muốn cướp tài sản nạn nhân, giết người để
thực hiện hoặc che dấu tội phạm khác,…Động cơ tuy không có ý nghĩa về mặt định
tội nhưng có một số động cơ phạm tội được luật quy định là tình tiết định khung
tăng nặng hay giảm nhẹ.
1.2. Phân biệt tội giết người và một số tội phạm khác
Tội giết người và các tội xâm phạm tính mạng khác trong phần các tội xâm
phạm tình mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người được quy định tại
chương XII BLHS năm 1999, chương XIV BLHS năm 2015 đều là các hành vi xâm
phạm đến các quyền cơ bản của con người được pháp luật bảo vệ, vì thế các tội này

đều có những điểm chung cơ bản, đó là:
Về mặt khách thể: Khách thể của nhóm tội phạm này là một trong những
khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ, là quyền sống, quyền được tôn
trọng và bảo vệ tính mạng. Đối tượng của nhóm tội này là những con người đang
sống, đang tồn tại trong thế giới khách quan- thực thể tự nhiên và xã hội.
Về mặt khách quan: Ở mỗi tội xâm phạm tính mạng lại có những hình thức
thể hiện cụ thể khác nhau nhưng đều có cùng tính chất là có thể trực tiếp hay gián
tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đó. Hình thức thực
hiện của những hành vi phạm tội trong nhóm này có thể là hành động hoặc không
hành động. Hậu quả của hành vi đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại
đến tính mạng của con người.
Về mặt chủ thể: Chủ thể của hầu hết các tội xâm phạm tính mạng không phải
là chủ thể đặc biệt. Có một số tội đòi hỏi chủ thể phải có thêm những đặc điểm đặc
biệt khác. Những người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định đều có khả năng
trở thành chủ thể của nhiều tội thuộc nhóm này.
Bên cạnh những điểm tương đồng về dấu hiệu pháp lý giữa các tội xâm
phạm tính mạng con người còn có những đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt trong CTTP
ở mỗi tội đó.Việc so sánh, phân biệt các tội phạm đó một cách rõ ràng là một vấn đề

17


quan trọng, cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Nếu không có sự phân biệt, xem xét, đánh giá toàn diện thì dễ dẫn đến những nhầm
lẫn, sai lầm nghiêm trọng, trong quá trình giải quyết vụ án có thể xảy ra tình trạng
xử không đúng người, không đúng tội, bỏ lọt tội phạm, oan, sai…
1.2.1. Tội giết người và tội giết con mới đẻ (Điều 94)
- Giống nhau: đều xâm phạm đến tính mạng của người khác với hành vi tước
đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật với lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý
gián tiếp.

- Khác nhau:
+ Về chủ thể: chủ thể của tội giết người là bất kỳ người nào có năng lực
TNHS và đủ 14 tuổi trở lên (không phải chủ thể đặc biệt). Trong khi đó, chủ thể của
tội giết con mới đẻ phải là người mẹ đang còn trong trạng thái vừa mới sinh con.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04 ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC thì khoảng thời gian người mẹ được coi còn trong trạng thái mới sinh con
là khoảng thời gian từ khi sinh cho đến ngày thứ bảy. Trường hợp “đẻ thuê”, “đẻ
hộ”… cho người khác mà giết con mới đẻ thì cũng có thể phạm tội này nếu thỏa
mãn đủ các dấu hiệu của CTTP [4].
Không phải bất kỳ trường hợp nào người mẹ giết con mới đẻ cũng là phạm
tội giết con mới đẻ mà nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ
con mới đẻ là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP. Điều 94 BLHS 1999 có quy định về
chủ thể tội này: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc
trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt” [9, tr. 98]. Theo đó, chủ thể ở đây là người
mẹ thực hiện hành vi giết con mình do chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu
là ảnh hưởng của tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với xã hội đương thời
như tin vào bói toán hay các quan niệm cổ hủ thời phong kiến, phong tục tập quán
lạc hậu… hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt như người mẹ không có khả năng
nuôi con mình, bị mất sữa, bệnh nặng, đứa trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh, mắc bệnh
nan y mà việc chữa trị khó khăn, tốn kém…

18


+ Về đối tượng tác động: tội giết người có thể tác động tới bất kỳ người đang
sống, đang tồn tại không phân biệt độ tuổi, giới tính, dân tộc…Tội giết con mới đẻ
trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của đứa trẻ vừa mới sinh trong vòng 7 ngày và
đó lại là con đẻ của người phạm tội.
+ Về hành vi khách quan: tội giết con mới đẻ có hành vi khách quan là giết
con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Như vậy, hành vi khách quan có thể được thực

hiện bởi một trong hai nhóm hành vi là hành động phạm tội hoặc không hành động
phạm tội. Đối với hành vi giết con mới đẻ thì đây là dạng hành động phạm tội, tác
động trực tiếp đến thân thể đứa trẻ nhằm mục đích tước bỏ đi sự sống của nạn nhân,
ví dụ như: chôn sống, đâm, chém, bóp cổ,… trừ các dấu hiệu phân tích ở trên thì
dạng này không có gì khác biệt so với hành vi phạm tội giết người. Với hành vi vứt
bỏ con mới đẻ, có thể coi đây là dạng hành vi không hành động phạm tội. Trường
hợp này, người mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con như thủ đoạn không
cho con bú, không chăm sóc cho trẻ, bỏ rơi nơi công cộng hoặc ngoài đường… dẫn
tới hậu quả là đứa trẻ chết.
+ Về mặt hậu quả: Hậu quả của hai tội giết người và giết con mới đẻ là giống
nhau, đều tước bỏ đi tính mạng của người khác. Tuy nhiên, ở tội giết con mới đẻ,
hành vi vứt bỏ con mới đẻ đòi hỏi phải có hậu quả chết người xảy ra và lỗi của
người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp. Nếu người mẹ vứt bỏ con mình (hành vi có thể
dẫn tới hậu quả chết người) nhưng thực tế, đứa trẻ lại không chết thì chưa cấu thành
tội giết con mới đẻ và ở dạng hành vi này không có trường hợp phạm tội chưa đạt.
+ Về khung hình phạt: đối với tội giết người thì có các khung hình phạt như
phân tích ở phần trên và kèm theo hình phạt bổ sung trong trường hợp cần thiết.
Phạm tội giết con mới đẻ thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù
từ 3 tháng đến 2 năm.
1.2.2. Tội giết người và tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 95)
+ Về chủ thể: cả hai tội giết người và giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh đều là chủ thể thường (người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật

19


×