Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Tổ chức và hoạt động Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.45 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC - XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI

VÕ CÔNG HOÀNG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC - XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI

VÕ CÔNG HOÀNG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
:
60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình do tôi tự thực hiện nghiên cứu theo sự hướng dẫn của
GS.TS. Võ Khánh Vinh luận văn là đáng tin cậy.
Kết quả nghiên cứu toàn bộ luận văn chưa được ai công bố trong công trình
nghiên cứu nào khác./.
Tác giả luận văn

Võ Công Hoàng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .........................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ...........7
1.2. Tổ chức và hoạt động của Thi hành án dân sự trước khi có Luật thi hành án
dân sự ........................................................................................................................15
1.3. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự hiện nay ............................................20
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự .................26
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH ...................................................................31
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh
Bình Định ..................................................................................................................31

2.2. Thực trạng tổ chức thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định .................................34
2.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định .............................36
2.4. Những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại
tỉnh Bình Định và nguyên nhân ................................................................................40
2.5. Những hạn chế trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình
Định và nguyên nhân ................................................................................................44
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..............................................................53
3.1. Quan điểm hoàn thiện về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự...................53
3.2. Giải pháp hoàn thiện về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự .....................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Tên viết tắt

Tên đầy đủ

CHV

Chấp hành viên

CNH

Công nghiệp hóa

CNTT


Công nghệ thông tin

CQTHADS

Cơ quan Thi hành án dân sự

HĐH

Hiện đại hóa

KT-XH

Kinh tế - xã hội

QLNN

Quản lý nhà nước

TAND

Tòa án nhân dân

TH

Thi hành

THA

Thi hành án


THADS

Thi hành án dân sự

THAHC

Thi hành án hành chính

TPL

Thừa phát lại

TTHC

Tố tụng hành chính

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

1.1.

Số liệu về kết quả án tồn về việc (2005-2008)

20

2.1.

Kết quả thi hành án về việc (từ năm 2012 – 2016)

41

2.2.

Kết quả thi hành án về giá trị (từ 2012 – 2016)

41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước, nhằm đưa bản án, quyết định

về dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết,
quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là phán quyết của Tòa án) thi hành
trên thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, những phán quyết của Tòa án về mặt
dân sự sẽ được thi hành, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức và mọi công dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, góp phần giữ vững kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Đây là một nguyên tắc Hiến định, được qui định xuyên suốt trong các Hiến
pháp của Việt Nam. Tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết
định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”
[53, tr.17].
Sau hơn hai mươi bốn năm, kể từ khi nhiệm vụ quản lý và tổ chức thi hành án
dân sự được chuyển từ Tòa án nhân dân sang Chính phủ (tháng 7 năm 1993), cơ
quan Thi hành án dân sự đã được hình thành và thực thi nhiệm vụ được giao, đáp
ứng các yêu cầu của nhà nước và xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Kể từ khi được
thành lập đến nay, công tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng ghi
nhận; hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Toà án được bảo đảm thực hiện,
tạo được lòng tin đối với nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
góp phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đáng chú ý, công tác tổ chức,
cán bộ của cơ quan THADS đã được Đảng và nhà nước quan tâm kiện toàn cả về số
lượng, lẫn chất lượng; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài nhiều năm không
giải quyết được đã được tổ chức thi hành dứt điểm. Một số án đặc biệt lớn, tính chất
hết sức phức tạp, có ảnh hưởng lớn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng
1


đã được Đảng và nhà nước quan tâm chỉ đạo giải quyết dứt điểm. Kết quả đạt được
nói trên, phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác thi hành án dân sự và của cả hệ thống chính trị, sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao của lãnh đạo Đảng, nhà nước, của ngành và các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự,
trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, án chậm giải quyết, kéo
dài, kết quả thi hành án chưa thật bền vững, công tác tổ chức cán bộ chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vẫn còn tình trạng các bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được nghiêm chỉnh thi hành,
làm giảm hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định cũng như lòng tin của nhân dân
đối với với nhà nước; hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án còn thiếu đồng bộ,
cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chồng chéo, công tác hoạch định chính sách, kiện
toàn tố chức, bộ máy còn chậm, các chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác
THADS chưa tương xứng, cơ sở vật chất chưa đồng bộ so với yêu cầu nhiệm vụ đặt
ra trong bối cảnh chúng ta đang từng bước hiện đại hóa nền hành chính quốc gia.
Thực tiễn thi hành án dân sự cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi
khoa học về thi hành án dân sự phải nghiên cứu giải quyết như khái niệm về thi
hành án, thi hành án dân sự, đặc điểm, vai trò thi hành án dân sự, tổ chức thi hành
án dân sự, hoạt động thi hành án dân sự, phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các
ngành hữu quan trong thi hành án dân sự và thực tiễn tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự. Trong khi đó, xét về mặt lý luận, những vấn đề nói trên chưa được quan
tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng và còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động Thi
hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định" để làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành
Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực
2



THADS, quản lý THADS được thực hiện và công bố rộng rãi trong toàn quốc, cụ
thể là:
- Đề tài cấp bộ: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại",
mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp
với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì;
- Đề tài cấp bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số:
96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay gọi là Tổng Cục thi
hành án dân sự) chủ trì năm 1996;
- Đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt

động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, năm
2000;
- Đề tài cấp bộ: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện” của

Dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì năm 1998;
- Luận văn thạc sỹ luật học “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS” của

tác giả Hoàng Kim Chiến;
- Luận văn thạc sỹ Luật học: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân

sự", tác giả Lê Xuân Hồng, năm 2002;
- Luận văn thạc sỹ Luật học: "Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam" của

tác giả Trần Anh Tuấn, năm 2002;
- Luận văn thạc sỹ Luật học: “Quản lỷ nhà nước về THADS từ thực tiễn thành

phố Nẵng” của tác giả Mai Đăng Hòa;
- Luận văn thạc sỹ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của

tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2001;

- Luận văn thạc sỹ Luật học: “Đổi mới tổ chức và hoại động THADS tại Việt

Nam” của tác giả Nguyễn Quang Thái, năm 2003;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “ Đổi mới thủ tục THADS ở Việt Nam” của tác

giả Lê Anh Tuấn, năm 2004;
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng đội ngũ Chấp hành viên và xây dựng

khung chương trình đào tạo Chấp hành viên theo yêu cầu cải cách tư pháp ”, năm
3


2010, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS – Bộ Tư
pháp làm chủ nhiệm;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Quản lý nhà nước về THADS qua thực tế ở

Thanh Hóa” của tác giả Đậu Thị Thủy;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Quản lý nhà nước về THADS từ thực tiễn tỉnh

Gia Lai” của tác giả Ngô Thanh Nghị;
- Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án

dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Khánh Na;
- Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án

dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Trần Văn Phong;
- Bài viết “Tổ chức hoạt động THADS trước yêu cầu của tiến trình cải cách

tư pháp” của đồng tác giả TS. Nguyễn Thanh Thủy và Ths. Nguyễn Văn Nghĩa;
- Bài viết “Hệ thống tổ chức THADS Việt Nam trong nhà nước pháp quyển xã


hội chủ nghĩa ” của TS. Nguyễn Văn Nghĩa;
Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có Giáo trình Luật Tố tụng dân
sự, Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh, các công trình nghiên cứu, các bài viết được công bố trên sách, báo,
tạp chí; một số bài viết liên quan đến thi hành án dân sự được đăng trên Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học.... Các công
trình nghiên cứu nêu trên có nội dung nghiên cứu về THADS ở những góc độ, khía
cạnh khác nhau, chưa có công trình nghiên cứu toàn diện về thực trạng và giải pháp
để hoàn thiện, nâng cao tổ chức và hoạt động THADS nói chung và đặc thù của tỉnh
Bình Định nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự,
luận văn nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống về tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự từ thực tiễn của tỉnh Bình Định một cách khách quan, chính xác,
góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác THADS trên địa bàn tỉnh Bình
4


Định nói riêng và công tác THADS nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra để giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của THADS;

những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của THADS;
- Đánh giá thực trạng, tình hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ
thực tiễn tỉnh Bình Định, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân
trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự;

- Đề xuất hệ thống quan điểm và các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả tổ chức và hoạt động của THADS tỉnh Bình Định.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
tổ chức và hoạt động của THADS tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức và hoạt động của THADS cấp tỉnh và
THADS cấp huyện thuộc tỉnh Bình Định.
Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ khi cơ quan Thi hành án dân sự tách và thành
lập (7/1993), nhưng tập trung nghiên cứu sâu kể từ thời điểm Luật thi hành án dân
sự năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; chiến
lược cải cách hành chính và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có
lĩnh vực THADS.

5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: hệ thống, phân tích,
tổng hợp, lịch sử, thống kê, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so
sánh, khảo sát thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ của

mình vào sự phát triển của kho tàng lý luận về khoa học thi hành án dân sự và tổng
kết nghiên cứu thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngoài ra, đề tài
còn góp phần hệ thống hóa các vấn đề về lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy,
nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực THADS. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS nói chung và của
THADS tỉnh Bình Định nói riêng; góp một phần vào công cuộc cải cách hành
chính, cải cách nền Tư pháp ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của Luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tỉnh Bình
Định
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự
1.1.1. Khái niệm về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự

1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Để làm sáng tỏ khái niệm thi hành án dân sự, trước hết cần làm rõ khái niệm
thi hành án.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết
định" [71, tr.1559]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn
bản pháp lý của nhà nước, do Tòa án nhân danh nhà nước tuyên, quyết định tại
phiên tòa, để giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, kinh tế, hành chính…
Hiện nay, xung quanh bản chất pháp lý của khái niệm thi hành án, còn có
nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất của TS. Phan Hữu Thư cho rằng, thi hành án là một giai
đoạn tố tụng: "Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn
bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định
của Tòa án, chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ đúng, sai, phải, trái trên văn bản giấy tờ.
Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở việc tổ chức thi hành án trên
thực tế. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử." [67, tr.8].
ThS. Nguyễn Công Bình cũng đồng quan điểm trên, cho rằng thi hành án là một giai
đoạn tố tụng. Hoạt động thi hành án này gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi
phối của quá trình xét xử [67, tr.8].
Quan điểm thứ hai của GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng, thi hành án là một
giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp, không thể đồng nhất hoạt động thi hành
7


án với hoạt động tố tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý,
xã hội của nó…. Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và
quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng, các quan
hệ mang tính hành chính tư pháp là chủ yếu hơn. Thi hành án dân sự là hoạt động
của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có

thể xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm
khác so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp,
không thể xã hội hóa [67, tr.10-11].
Cùng quan điểm trên, TS. Đinh Trung Tụng cho rằng: Thi hành án không
mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành
chính-tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện
thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không
phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang nặng tính hành chính tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải là
hình phạt tù…) [67, tr.12].
Các quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý và đều dựa trên những luận cứ
khoa học nhất định, nhưng về vấn đề này, tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, tức
là thi hành án dân sự là hoạt động mang tính hành chính- tư pháp.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về thi hành án và thi hành án
dân sự như sau:
Thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người
có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án,
quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được
thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm về thi hành án dân sự: Thi hành án dân sự là hoạt động hành
chính - tư pháp do cơ quan Thi hành án dân sự tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật qui định nhằm đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc các
8


quyết định khác theo qui định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, bảo đảm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.2. Khái niệm về tổ chức thi hành án dân sự

Có nhiều định nghĩa khác nhau về “tổ chức”, một định nghĩa có ý nghĩa triết
học sâu sắc: “Tổ chức, nói rộng, là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn
tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ
chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”. Tổ chức là thuộc tính của sự vật,
nói cách khác sự vật luôn tồn tại dưới dạng tổ chức nhất định;
Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt với thể
nhân (con người) là các chủ thế của quan hệ pháp luật dân sự. Theo quy định tại
Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi
có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tố chức chặt chẽ; có tài
sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân
danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Luật học nhấn mạnh
đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu đảm bảo hoạt động của tổ chức.
Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là “tập thể
của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới
một mục tiêu xác định của tập thể đó”. Quan niệm về tổ chức theo Khoa học tổ
chức và quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật học, Quản trị công ở chỗ đều
xác định tổ chức thuộc về con người, là của con người trong xã hội; vì là tổ chức
của con người, có các hoạt động chung do vậy mục tiêu của tổ chức là một trong
những điều kiện quan trọng, không thể thiếu của tổ chức;
Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước” định
nghĩa: „Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý thức, có phạm
vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu chung (của
tổ chức). Quan niệm của những người làm công tác tổ chức nhà nước có nhiều điểm
tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó nhấn mạnh tới mục tiêu chung,
nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều phối một cách có ý thức). Trên phương diện
9


ngôn ngữ: Tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu, mục đích... có thể sử dụng các
thuật ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công ty, hội... thay thế thuật ngữ tổ chức. Sự

đa dạng trên phương diện ngôn ngữ còn thể hiện ở việc thuật ngữ tổ chức được
dùng với các chức năng khác nhau như: là danh từ, là động từ, là tính từ.
Vậy, từ khái niệm THADS và khái niệm “tổ chức”, chúng ta có thể hiểu khái
niệm về tổ chức THADS như sau: Tổ chức THADS là cơ quan thuộc bộ máy nhà
nước, được quản lý theo hệ thống dọc, thống nhất từ trung ương đến địa phương;
có các công chức như: Chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký và các công chức
khác, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
được thực hiện theo qui định của pháp luật về THADS (các cơ quan THADS thuộc
cơ quan hành chính - tư pháp).
1.1.1.3. Khái niệm hoạt động thi hành án dân sự
Quan điêm thứ nhất cho rằng, hoạt động THADS là một hoạt động tư pháp.
Theo quan điểm này thì hoạt động THADS là giai đoạn nằm trong quá trình giải
quyết vụ án và nó được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự, là giai đoạn thực thi
các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Tuy nhiên, quan điểm này không lý giải
được một vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan THADS không
phải là cơ quan tiến hành tố tụng.
Quan đỉêm thứ hai cho rằng, hoạt động THADS là hoạt động mang tính hành
chính vì bản chất, mục đích của THADS khác hoàn toàn với tố tụng dân sự. Bỡi lẽ,
bản chất và mục đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ
án dân sự, việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo luật định. Đối với hoạt
động THADS là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết
định khác do pháp luật quy định. Trên cơ sở bản án, quyết định, cơ quan THADS
ban hành một quyết định hành chính mang tính cá biệt để tổ chức thực hiện bản án
trên thực tế, yêu cầu các tổ chức, cá nhân, các đối tượng có nghĩa vụ và các chủ thể
khác có liên quan thực hiện. Hơn nữa, hoạt động THADS là hoạt động hành chính
vì bản chất của nó thể hiện rõ nét tính chấp hành và điều hành và toàn bộ hoạt động
THADS nhằm thực hiện những nội dung được ghi trong bản án, quyết định của Tòa
10



án và các cơ quan khác theo quy định. Tuy nhiên, quan điếm này cũng không lý giải
được đối với những trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu nhưng nếu người được
THA và người phải THA không làm đơn yêu cầu THA, cơ quan THADS không có
cơ sở để ra quyết định và tổ chức thi hành. Do đó, trong trường hợp này xác định
hoạt động của thi hành án dân sự là hoạt động mang tính hành chính là không chính
xác.
Quan điểm thứ ba cho rằng, hoạt động THADS là hoạt động mang tính hành
chính - tư pháp, nó vừa mang tính hành chính, vừa mang yếu tố của tính tư pháp.
Bởi lẽ, THADS không chỉ đơn thuần là hoạt động hoặc mang tính hành chính hoặc
mang tính tư pháp, cũng càng không phải giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng.
Theo giáo sư, viện sỹ Nguyễn Duy Quý và PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn thì
“Cơ quan THADS cần xác định rõ là cơ quan hành chính - tư pháp (tác giả nhấn
mạnh), hướng là phải tập trung nhiệm vụ thống nhất QLNN về công tác THA vào
một đầu mối. Đồng thời, từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS và quy
định hình thức, thủ tục đã giao cho tổ chức không phải là cơ quan QLNN thực hiện
một so công việc THA " [56, tr.12].
Bản chất của hoạt động THADS thể hiện rõ cả hai đặc điểm, đó là tính hành
chính và tính tư pháp. Tính chất tư pháp của THADS thể hiện ở chỗ, đây là giai
đoạn tiếp theo sau của quá trình giải quyết vụ án dân sự; công chức THADS, người
tổ chức thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án trong cơ quan THADS được
xét vào một loại chức danh và được đào tạo từ các trường đào tạo chức danh tư
pháp. Mặt khác, hoạt động THADS là dạng hoạt động quản lý vì, THADS là việc
tác động của pháp luật, thông qua các cơ quan THADS tới đối tượng phải THA để
họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã
được xác định trong các bản án, quyêt định của tòa án. Xét về bản chất, hoạt động
THADS là hoạt động mang tính chất tổ chức, điều hành, đây là đặc điểm của hoạt
động quản lý hành chính nhà nước.
Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động THADS như
sau: Hoạt động THADS là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, do cơ quan,
11



tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để tổ chức
thực hiện trên thực tế bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của
cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, THADS là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp nhằm thực
hiện quyền lực nhà nước, do cơ quan Thi hành án dân sự, các cơ quan có liên quan
và người được nhà nước trao quyền thực hiện, bảo đảm hiệu lực các bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định về dân sự khác của cơ quan có thẩm quyền được
thi hành trên thực tế; duy trì và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, thi hành án dân sự dựa trên các bản án, quyết định về dân sự của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực nhưng được thi hành ngay,
đó là: bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết
định về phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịch thu tài sản, án
phí); quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của
bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam (gọi chung là bản án, quyết định của Tòa án). Những bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, bao gồm: bản án, quyết định
của Tòa án về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc,
trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân…
Thứ ba, trong thi hành án dân sự thông thường tồn tại ba chủ thể chính với
địa vị pháp lý khác nhau, đó là cơ quan thi hành án dân sự, người phải thi hành án
và người được thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và một số
có quan có liên quan tham gia quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự không phải
vì lợi ích của chính mình, mà nhân danh nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước

trên thực tế để thi hành những phán quyết về dân sự của Tòa án, nhằm bảo đảm lợi
12


ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử; bản án, quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án dân
sự. Nếu không có hoạt động xét xử thì không có hoạt động thi hành án. Do đó,
THADS có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng
lại có tính độc lập tương đối, thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết
định của Thủ trưởng cơ quan THADS mang tính bắt buộc chấp hành đối với các
chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS.
Thứ năm, trong quá trình thi hành án, bằng các qui định của pháp luật, cơ
quan thi hành án tác động tới đối tượng phải thi hành án nhiều biện pháp để họ tự
nguyện thi hành hoặc áp dụng các biện pháp khác buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ
đã được xác định trong bản án, quyết định của Toà án. Qua đó, giáo dục họ và
những người liên quan về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của tập thể và
cá nhân, tôn trọng kỷ cương của nhà nước. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu của
hoạt động thi hành án phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra... đó là
những tính chất của hoạt động quản lý.
Thứ sáu, trong thi hành án dân sự, việc thi hành phần dân sự trong bản án,
quyết định của Toà án chỉ phát sinh khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi
hành án. Điều đó có nghĩa là, sau khi tranh chấp đã được Toà án xét xử, các bên
vẫn có quyền tiếp tục tự thoả thuận với nhau về hình thức, thời gian thực hiện
quyền và nghĩa vụ trong suốt quá trình thi hành án. Cơ quan THADS có trách
nhiệm theo dõi, giám sát và ghi nhận việc tự thoả thuận thi hành của các bên đương
sự. Đây là một đặc điểm của thi hành án dân sự, xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện,
tự thỏa thuận của các bên trong giao lưu dân sự được qui định trong Bộ luật dân sự.
Từ chính đặc điểm này, làm cơ sở để nhà nước thực hiện chủ trương xã hội hoá một

số mặt hoạt động THADS.
Thứ bảy, hoạt động của cơ quan THADS chủ yếu thông qua vai trò của các
cá nhân được Nhà nước trao quyền thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, như:
13


Chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký thi hành án... Khi tổ chức thi hành thi hành
án, họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ. Việc thi hành án dân sự phải theo một cơ chế chặt chẽ do pháp luật về thi
hành án dân sự qui định. Trong quan hệ về thi hành án dân sự, Nhà nước ban
hành hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự một cách chi tiết, chặt chẽ
bao gồm các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý
cho cơ quan thi hành án thực hiện nhiệm vụ trên thực tế. Điều đó thể hiện tính
độc lập rất cao trong hoạt động thi hành án dân sự.
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự
Thứ nhất, THADS có vai trò bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Thông qua hoạt động THADS, những phán quyết của Tòa án được thực thi
trên thực tế, công lý, công bằng xã hội được đảm bảo thực hiện, trật tự xã hội được
giữ vững, niềm tin của nhân dân đối với nhà nước được củng cố. Một vụ việc chỉ
được kết thúc, khi bản án, quyết định của Tòa án đã được thi hành đầy đủ trên thực
tế. Nếu các bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành trên thực tế thì sẽ
tác động ngược lại đến toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; hiệu lực pháp luật
của bản án, quyết định của Tòa án không được tôn trọng; pháp chế xã hội chủ
nghĩa, trật tự, kỷ cương xã hội chưa nghiêm, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân bị xâm hại, đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự xung đột xã hội, tạo
hiệu ứng tiêu cực trong xã hội.
Thứ hai, THADS là khâu hoàn tất hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động
tư pháp khác. Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém,
song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết định của
Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực tế. Thông qua hoạt động THADS, hiệu

lực các bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo. THADS còn là giai đoạn kiểm
nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án đối với tính đúng dắn, khách
quan, trung thực, chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Thực tế cho thấy,
nhiều vụ việc khi cơ quan Thi hành án tổ chức thi hành, đương sự không những
14


không tự nguyện thi hành mà còn khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài do không đồng
tình với bản án, quyết định của tòa án. Việc này cho thấy, chất lượng xét xử của Tòa
án có vấn đề, do chưa đảm bảo tính khách quan, công bằng trong quá trình xét xử
[44, tr.16].
Thứ ba, THADS góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. THADS
thường có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan THA, các cơ quan có liên quan và
chính quyền địa phương để động viên, thuyết phục tự nguyện thi hành án. Thông
qua sự phối hợp này, tuyên truyền, động viên, giáo dục ý thức của người phải thi
hành án và nhân dân chấp hành các qui định của pháp luật. Thực tế thi hành án,
nhiều trường hợp không chỉ là hoạt động của cơ quan THADS, mà còn phải thuyền
xuyên phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và mọi
thành viên trong cộng đồng động viên, thuyết phục tự nguyện thi hành án.
Thứ tư, THADS là việc đưa ra thi hành trên thực tế các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án và cơ quan có thâm quyền, do đó, THADS là một
hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Ngoài ra, cơ quan THADS còn tổ chức THADS trên cơ sở yêu cầu
của người phải THA, người được THA, đó là việc tôn trọng và đảm bảo cho các bên
đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự nguyện THA [44, tr.17].
1.2. Tổ chức và hoạt động của Thi hành án dân sự trƣớc khi có Luật thi
hành án dân sự
1.2.1. Tổ chức của Thi hành án dân sự trước khi có Luật thi hành án dân sự
Cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước Việt Nam qua từng thời kỳ, tổ
chức THADS cũng có thay đổi nhất định cho phù hợp với sự phát triển chung của

đất nước. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, hệ thống cơ quan Tư pháp cũng được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở
Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các
luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung
thống nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật ấy “không trái với các nguyên tắc độc
lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”. Ngày 28/8/1945,
15


Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tuyên cáo công bố danh
sách Nội các thống nhất Quốc gia trong đó có Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đánh dấu sự
ra đời của Ngành Tư pháp nước ta. Tại Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức
Bộ Tư pháp, Phòng giám đốc Hộ vụ được thành lập, trong đó có Ban Công lại thực
hiện nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại. Cũng theo tinh thần Sắc lệnh ngày
10/10/1945, những quy định về thủ tục thi hành án dân sự tiếp tục được áp dụng,
đáp ứng yêu cầu của hoạt động tư pháp trong những năm đầu của chính quyền cách
mạng. Sắc lệnh số 13, ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam
dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở pháp
lý đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Sắc lệnh quy định Ban Tư
pháp xã có quyền “thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các
bản án, quyết định của Tòa án. Tại điều 3 của Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của
Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định: “Trong các xã, thị xã
hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành
những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Bản án ấy sẽ tuỳ từng việc, chỉ định
một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án”ở những nơi nào
đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành
mệnh lệnh”. Tại Điều thứ nhất của Sắc lệnh 130 quy định: “Các bản toàn sao hoặc
trích sao bản án hoặc mệnh lệnh” do các Phòng Lục sự phát cho các người đương sự
để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các Tòa án hộ đều phải có thể thức thi hành,
ấn định như sau: “Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho

các thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý
và biện lý kiểm sát việc thi hành án, cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương
sự chiếu luật yêu cầu”. Cuối năm 1950 theo sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về
“Cải cách Tư pháp và tố tụng”, công tác THADS được giao cho Tòa án cấp huyện
đảm nhận.
Sau khi Hiến pháp năm 1959 ra đời, Luật tổ chức TAND năm 1960 do Quốc
hội khóa I thông qua ngày 24/10/1960 đã xác định rõ nhiệm vụ của nhân viên chấp
hành án trong Tòa án, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động
16


của THADS. Ngày 13/10/1972, Chánh án TAND tối cao đã ra Quyết định số
186/TC và Thông tư số 187/TC của TAND tối cao về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
của CHV (thay thế nhân viên chấp hành án), tên gọi “CHV” ra đời từ đó và tồn tại
cho đến nay. Chánh án TAND địa phương có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo CHV của
Tòa án mình và có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn công tác THA của
Tòa án cấp dưới; chỉ đạo công tác thống kê, sơ tổng kết, giải quyết khiếu nại về
THA và xây dựng bồi dưỡng đội ngũ CHV.
Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh THA đầu tiên được ban hành có hiệu lực từ ngày
01/01/1990 nhằm tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS. Từ chỗ
Thẩm phán vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ THADS, nay
đội ngũ cán bộ THADS đã được chuyên môn hóa, tiêu chuẩn hóa và chịu trách
nhiệm trước Nhà nước về thực hiện các phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên về cơ chế
quản lý, THADS vẫn do Tòa án trực tiếp quản lý và chỉ đạo nghiệp vụ. Mặt khác,
nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án là xét xử, nên trong một thời gian dài hoạt động
THADS chưa được quan tâm đầy đủ, số cán bộ có năng lực thường bố trí làm Thẩm
phán. Cán bộ làm công tác THADS thường bị xáo trộn, thay đổi, không được quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, vừa thiếu về số lượng vừa yếu về trình độ, chất lượng.
Sau một thời gian thực hiện pháp lệnh, công tác THADS có những bước phát triển
hơn, tuy nhiên do Tòa án vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan làm nhiệm vụ

THADS, nên chưa đảm bảo khách quan, công bằng trong hoạt động THADS.
Thực hiện chủ trương cải cách bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách Tư
pháp nói riêng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tại kỳ họp thứ nhất ngày 06/10/1992,
Quốc hội khóa IX thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác THADS từ
TAND các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ và đặc biệt là sau khi Pháp lệnh
THADS ngày 21/4/1993 có hiệu lực kể từ ngày 01/6/1993 thay thế cho Pháp lệnh
1989; Chỉ thị số 266/TTg ngày 02/6/1993 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số
30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan quản lý công tác THADS, cơ quan THADS và CHV được ban hành. Đến hết
tháng 6/1993 việc thành lập các cơ quan THA và bàn giao công tác THADS từ
17


TAND các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ mới thực hiện xong. Hệ thống,
các cơ quan THADS, ở Trung ương gọi là Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp, ở cấp tỉnh gọi là Phòng THADS thuộc Sở Tư pháp, ở cấp quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh được gọi là Đội THADS thuộc Phòng Tư pháp.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
xác định “Đẩy mạnh đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp ... tập
trung thực hiện tốt công tác THA, nhất là THADS, khắc phục cơ bản tình trạng tồn
đọng kéo dài”. Ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua pháp
Lệnh THADS năm 2004, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Pháp lệnh THADS năm
2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã qui định, Chính phủ thống nhất QLNN
về THADS trong cả nước, Bộ Tư pháp giúp chính phủ QLNN về THADS, Bộ Quốc
phòng phối hợp với Bộ Tư pháp giúp Chính phủ QLNN về công tác THADS trong
quân đội. Ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối
hợp các cơ quan hữu quan trong việc THADS. Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp là cơ
quan chuyên môn giúp UBND cùng cấp QLNN về THADS và thực hiện một số
nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối với cơ quan THADS ở địa phương theo ủy quyền

của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Hệ thống cơ quan THADS được đổi tên, ở Trung ương
vẫn gọi là Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, ở cấp tỉnh từ Phòng THA đổi
tên thành: THADS tỉnh, ở cấp huyện: Đội THADS đổi tên thành: THADS huyện.
Trong Quân đội, Cục THA thuộc Bộ Quốc phòng được thành lập thay thế Phòng
quản lý THADS, Phòng THA cấp Quân khu đổi tên thành: THADS Quân khu.
Về công tác tổ chức cán bộ: từ tháng 7/1993, các Toà án địa phương chính thức
bàn giao công tác thi hành án sang các cơ quan thuộc Chính phủ với số lượng 1.126
người, trong đó có 700 Chấp hành viên. Phần lớn số cán bộ ở thời điểm bàn giao chưa
bảo đảm đủ tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định. Đến hết năm
2002, các cơ quan THADS trong toàn quốc có 4.357 công chức trên tổng số 5.183 biên
chế được phân bổ (trong đó có: 1.920 Chấp hành viên với 306 Chấp hành viên cấp tỉnh,
1.614 Chấp viên cấp huyện và 2.437 công chức làm nghiệp vụ). Trong số 4.357 công
18


chức thì có 2.929 người có trình độ đại học; 582 người có trình độ cao đẳng; 102 người
có trình độ cử nhân chính trị; 410 người có trình độ trung cấp chính trị...
Từ 2004 - 2008 là giai đoạn vừa nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chấp
hành viên vừa tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngạch công chức các cơ quan THADS.
Nhờ thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nên đến năm 2008, cả nước có 8.308 biên
chế, trong đó có 2.801 Chấp hành viên (gồm 387 Chấp hành viên cấp tỉnh và 2.414
Chấp hành viên cấp huyện); 64 cơ quan THADS cấp tỉnh và 676 cơ quan THADS
cấp huyện.
1.2.2. Hoạt động thi hành án dân sự trước khi có Luật thi hành án dân sự
Trong giai đoạn trước năm 1993, hoạt động THADS sự vẫn còn là một quy
trình khép kín trong Tòa án và phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân
dân địa phương. Trong nhiều năm, do trọng tâm của Tòa án là xét xử nên trong một
thời gian dài hoạt động thi hành án chưa được quan tâm đầy đủ. Từ năm 1993, công
tác THADS được chuyển giao hoàn toàn từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ
quan thuộc Chính phủ thông qua việc Quốc hội Khóa IX ban hành Nghị quyết về việc

bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan
thuộc Chính phủ; Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự
năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành để tổ chức thực hiện. Những cơ sở pháp
lý quan trọng này, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cải cách về công tác thi
hành án dân sự từ đó đến nay. Cơ quan THADS trong thời gian này được bổ sung
nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định về kinh tế, lao động, quyết định
tuyên bố phá sản doanh nghiệp; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành
chính; bản án, quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành; giá trị tiền, tài sản phải
thi hành ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp. Pháp lệnh THADS năm 1993
sau một thời gian thực hiện, đã bộc lộ những bất cập, ngày 14/01/2004, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 với nhiều
đổi mới quan trọng về công tác thi hành án dân sự, trong đó có cả đổi mới về tổ
chức, cán bộ và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
19


×