Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.8 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ MINH LOAN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI

Chuyên ngành: Luật

n s v t t n

Mã s : 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, 2017

n s


Công trình được thực hiện tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Huyên

Phản biện 1: TS. Nguyễn Văn Hiển
Phản biện 2: TS. Phạm Mạnh Hùng

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
học tại: Học viện Khoa học xã hội vào lúc:


08 giờ 00 phút ngày 17 tháng 10 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố
(THQCT) và Kiểm sát hoạt động tư pháp (KSHĐTP) được đổi mới,
nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân mà hoạt
động THQCT ở các giai đoạn tố tụng, trong đó có hoạt động THQCT
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế,
thiếu sót. Thực tế ở Việt Nam cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm
về ma túy có diễn biến phức tạp trên hầu hết các tỉnh, thành phố
trong cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có
huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Công tác đấu tranh với loại tội phạm
này rất khó khăn vì tội phạm về ma túy thường đem lại lợi nhuận cao,
đối tượng phạm tội liều lĩnh, thủ đoạn phạm tội tinh vi xảo...
Xét thấy đây là vấn đề cần được tập trung nghiên cứu và việc
nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong công tác phòng,
chống tội phạm ma túy và tiếp tục nâng cao chất lượng THQCT trong
giai đoạn điều tra đối các tội phạm về ma túy của VKSND huyện
Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Từ những lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài
“T c n quyền côn t tron iai đoạn điều tra các tội p ạm về ma
túy từ t c tiễn uyện Văn C ấn, tỉn Yên Bái”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác THQCT của VKS, đặc biệt là THQCT trong trong
giai đoạn điều tra đã được nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau; các

công trình nghiên cứu đã phân tích và làm sáng tỏ được những vấn đề
liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích nghiên cứu: Luận văn phân tích, làm rõ những vấn
đề lý luận về THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm ma túy.
Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất
lượng công tác này tại VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Về nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích những vấn đề lý luận cơ
bản về quyền công tố, THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND.
1


Đặc điểm và các giai đoạn THQCT trong giai đoạn điều tra các tội
phạm ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn của việc THQCT trong giai đoạn điều tra các tội
phạm ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc THQCT trong
giai đoạn điều tra đối với các tội phạm ma túy xảy ra trên địa bàn
huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái trong 05 năm, từ ngày 01/12/ 2011
đến ngày 30/11/2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
đối với chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng những phương pháp nghiên
cứu của Triết học Mác – Lênin và các khoa học chuyên ngành khác,
trong đó đặc biệt chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp,

thống kê, so sánh kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những đóng góp mới của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm, đối
tượng, phạm vi và nội dung của THQCT trong giai đoạn điều tra các tội
phạm ma túy; Phân tích đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân của hoạt động này trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái; đề xuất
các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trong thời gian
tới.
Ý nghĩa của luận văn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm 03 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy.

2


Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy của VKSND huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng THQCT của
VKSND huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các tội phạm về ma túy

Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy
cứu TNHS đối với người phạm tội trên cơ sở phát hiện tội phạm, bảo
đảm thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội
từ đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ việc buộc
tội đó trước Tòa án.
Đối tượng của quyền công tố: là tội phạm và người phạm tội.
Nội dung của quyền công tố: là sự buộc tội đối với người đã thực
hiện hành vi tội phạm.
Phạm vi quyền công tố:
Về phạm vi không gian: chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Về phạm vi thời gian: quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được
thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Thực hành quyền công tố trong TTHS là hoạt động của VKS
để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, đưa
người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó; đảm
bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt
tội phạm và không làm oan người vô tội.
Điều tra là một giai đoạn TTHS không thể thiếu, trong đó cơ
quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để
xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho
việc giải quyết vụ án. Nhiệm vụ ở giai đoạn điều tra là thu thập
chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho
việc truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; xác định
3


thiệt hại do tội phạm gây ra;; ... Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trò
quan trọng như vậy nên việc xác định đúng phạm vi THQCT của
VKS trong giai đoạn này là rất cần thiết.

Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý
các chất ma túy của Nhà nước dưới mọi hình thức. Ngoài những đặc
điểm chung như các tội phạm khác, tội phạm về ma tuý có những đặc
điểm riêng mà các tội phạm khác không có như: Tội phạm về ma túy là
hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước
chứ không phải của một cá nhân hay tổ chức như các tội danh khác.
Các tội phạm về ma túy đều có chung đối tượng là các chất ma túy và
tiền chất ma túy được quy định trong Nghị định 82/2013/NĐ-CP.
N ư vậy, T QCT tron iai đoạn điều tra các tội p ạm về
ma túy l việc VKS sử d n tổn ợp các quyền năn p áp lý
t uộc nội dun quyền côn t để t c iện việc truy cứu TN S đ i
với n ười p ạm tội về ma túy tron iai đoạn điều tra.
Chủ thể thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: Là cơ
quan VKS,.
Đối tượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: là
việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong giai đoạn này.
Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra:
Thứ nhất, những hoạt động phát động THQCT như KTVA,
KTBC.
Thứ hai, hoạt động THQCT được thực hiện bởi VKS trong giai
đoạn điều tra, được quy định tại Điều 112 BLTTHS.
Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: bắt
đầu từ khi có QĐ KTVAHS và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều
tra vụ án hình sự.
1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các tội phạm về ma túy
- THQCT mang tính quyền lực nhà nước.
THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy là một hoạt
động áp dụng pháp luật vào thực tế nhằm truy cứu TNHS đối với người

thực hiện hành vi phạm tội về ma túy. Hoạt động này chỉ do VKS tiến
4


hành bởi VKS là cơ quan duy nhất đại diện Nhà nước thực hiện chức
năng THQCT.
- THQCT được tiến hành theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do
pháp luật TTHS quy định.
Mục đích của hoạt động THQCT là nhằm truy cứu TNHS đối với
người thực hiện hành vi phạm tội, buộc họ phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi do chế tài pháp luật hình sự đặt ra. Do vậy quá trình này phải
đảm bảo tính chặt chẽ, có căn cứ và mang tính công khai.
- Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma
túy của VKS chủ yếu được tiến hành do truy xét, thu giữ vật chứng, bắt
quả tang khi thực hiện hành vi phạm tội… bởi tính chất đặc thù của loại
tội phạm này nên việc đề ra yêu cầu điều tra cần được chú trọng hơn cả.
Đối với mỗi vụ án về ma túy cần xác định có hay không có hành
vi phạm tội; Có tính đồng phạm hay không, phạm tội có tổ chức hay
theo đường dây kết nối như thế nào; Hình thức phạm tội ra sao; Xác
định tội danh phạm phải và theo điều khoản nào của BLHS, năng lực
chịu TNHS ra sao, nhân thân người phạm tội như thế nào?
- THQCT đảm bảo quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKS và
CQĐT.
Mối quan hệ chế ước của VKS với CQĐT thể hiện qua việc: yêu
cầu CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra; yêu cầu thủ trưởng CQĐT
thay đổi; yêu cầu truy nã... Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, mối
quan hệ giữa VKS và CQĐT vừa phối hợp vừa chế ước tạo ra sự liên hệ
ràng buộc nhất định nhưng không phải mâu thuẫn, loại trừ nhau. VKS
không làm thay, cũng không hạn chế hoặc cản trở việc điều tra của
CQĐT, cơ quan này tạo điều kiện để cơ quan kia thực hiện có hiệu quả

chức năng, nhiệm vụ của mình
1.3. Những hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy
1.3.1. N ữn oạt độn p át độn côn t tron iai đoạn điều
tra các tội p ạm ma túy
Thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự: Là việc Nhà nước chính thức
công khai trước toàn xã hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các
hoạt động thực hành quyền truy cứu TNHS đối với người thực hiện tội
5


phạm đó, xác định có hay không có tội phạm để ra quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố bị can.
Thứ hai, khởi tố bị can: Là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
chính thức tuyên bố về mặt pháp lý một người nào đó thực hiện hành vi
có các dấu hiệu cấu thành tội phạm và bị truy cứu TNHS.
Thứ ba, yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định
KTVAHS, KTBC: Khi thấy có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố
không đúng với hành vi phạm tội xảy ra, hoặc không đúng với người đã
thực hiện hành vi phạm tội thì VKS có quyền yêu cầu CQĐT thay đổi
quyết định khởi tố VAHS, KTBC. Trong trường hợp phát hiện có người
đã thực hiện hành vi phạm tội mà chưa bị khởi tố thì VKS yêu cầu
CQĐT ra quyết định KTBC đối với người đó.
1.3.2. N ữn oạt độn duy tr côn t tron iai đoạn điều tra
các v án ma túy
Thứ nhất, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều
tra hoặc trực tiếp tiến hành điều tra khi cần thiết: Đó là những yêu cầu
về vấn đề cần điều tra làm rõ, tài liệu chứng cứ cần thu thập, được hiểu
là mệnh lệnh của cơ quan công tố đối với CQĐT. Ngay sau khi vụ án
được khởi tố, VKS có thể đề ra yêu cầu điều tra cho CQĐT để xác định

chứng cứ về hành vi phạm tội của bị can hay mở rộng điều tra vụ án.
Yêu cầu điều tra cũng có thể được đề ra ngay trong quá trình trực tiếp
kiểm sát khám nghiệm hiện trường, xét hỏi, lấy lời khai người làm
chứng. Khi thấy có vấn đề cần điều tra thêm, KSV phải kịp thời bổ sung
yêu cầu điều tra để đảm bảo tính chính xác, kịp thời, không bỏ lọt tội
phạm trong quá trình điều tra.
Thứ hai, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên: Khi
phát hiện ĐTV thuộc một trong các trường hợp bị thay đổi hoặc phải từ
chối tiến hành tố tụng, KSV có quyền đề nghị Thủ trưởng CQĐT xem
xét thay đổi ĐTV hoặc đề nghị Viện trưởng VKS cấp mình xem xét để
yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV.
Thứ ba, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn:
Trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình, trong giai đoạn điều
tra VKS có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn để kịp
6


thời ngăn chặn tội phạm, hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người đó sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Việc đưa
ra một bất kỳ một quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn nào đều cần
được cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo tính kịp thời, đúng đắn và đúng với
quy định của pháp luật. Đối với các biện pháp ngăn chặn trực tiếp làm
hạn chế quyền tự do của công dân như bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, gia
hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam phải được VKS phê chuẩn.
Căn cứ vào yêu cầu giải quyết vụ án, thái độ chấp hành của người
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nếu xét thấy không cần thiết phải áp
dụng nữa thì cơ quan có thẩm quyền có thể hủy bỏ, thay thế bằng biện
pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hoặc nghiêm khắc hơn. Đối với
những vụ án bị đình chỉ thì mọi biện pháp ngăn chặn đương nhiên

đương nhiên đều được hủy bỏ. Đối với những biện pháp ngăn chặn do
VKS phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn phải
do VKS quyết định.
Thứ tư, phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định
của CQĐT: VKS ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các
quyết định KTBC, lệnh bắt khẩn cấp, lệnh bắt tạm giam, quyết định gia
hạn tạm giữ của CQĐT.
Thứ năm, yêu cầu truy nã bị can: Khi có đủ căn cứ xác định bị
can đã bỏ trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu và đã tiến hành các
biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả thì CQĐT ra quyết
định truy nã.
Thứ sáu, tạm đình chỉ vụ án: khi chưa kết thúc thời hạn điều tra,
nếu có căn cứ xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo
(có chứng nhận của Hội đồng pháp y); hoặc khi đã hết thời hạn điều tra
mà chưa xác định được bị can, không biết bị can đang ở đâu thì CQĐT
ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án và phải gửi quyết định này cho
VKS.
1.3.3. N ữn oạt độn kết t úc t c n quyền côn t trong
iai đoạn điều tra các tội p ạm ma túy.
Những hoạt động kết thúc THQCT trong giai đoạn điều tra bao
gồm truy tố bị can và đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can. Trong trường hợp
truy tố bị can, hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra kết thúc, đồng
7


thời mở ra hoạt động THQCT trong giai đoạn truy tố. Nhưng sau đó Tòa
án có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Lúc này, chức năng
THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra có thể lại được phục hồi. Vì
vậy, truy tố bị can không thể coi là hoạt động kết thúc THQCT trong giai
đoạn điều tra được; mà chỉ có trường hợp đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can

hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra mới kết thúc, chấm dứt tố
tụng đối với vụ án.
Đình chỉ vụ án là quyết định chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối
với vụ án hoặc với từng bị can. Khi thấy có căn cứ để đình chỉ hoặc đã
hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được tội phạm thì CQĐT ra
quyết định đình chỉ vụ án. Nếu thấy quyết định đình chỉ không có căn cứ
thì VKS hủy bỏ quyết định đình chỉ và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra
hoặc ra quyết định truy tố.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THQCT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY CỦA
VKSND HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI

2.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra
2.1.1. Quyền k ởi t v án, k ởi t bị can; yêu cầu Cơ quan
điều tra k ởi t oặc t ay đổi, bổ sun quyết địn k ởi t v án,
k ởi t bị can (Khoản 1 Điều 112 BLTTHS)
VKS có quyền khởi tố VAHS trong hai trường hợp: Một là, sau
khi ra Quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố VAHS; Hai là,
nếu thấy yêu cầu khởi tố VAHS của Hội đồng xét xử VAHS là có
căn cứ.
Về căn cứ để KTVAHS, Điều 100 BLTTHS quy định khả năng
duy nhất cho phép KTVAHS là khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định KTVAHS, VKS phải gửi
quyết định đó đến CQĐT để tiến hành điều tra.
Theo quy định của BTTTHS, khi CQĐT ra quyết định KTBC thì
quyết định đó có hiệu lực ngay. Tuy nhiên, hiệu lực của quyết định
KTBC của CQĐT có tiếp tục hay không lại phụ thuộc vào việc VKS có
phê chuẩn quyết định KTBC hay không (khoản 4 Điều 126 BLTTHS)

8


BLTTHS đã phân định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm KTBC giữa
CQĐT và VKS. Trách nhiệm KTBC chủ yếu thuộc về CQĐT, VKS chỉ
ra quyết định KTBC sau khi nhận hồ sơ và Bản kết luận điều tra mà phát
hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị
khởi tố. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định KTBC, VKS phải
gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra (Khoản 5 Điều 126 BLTTHS).
VKS yêu cầu CQĐT thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTVA,
KTBC nếu trong quá trình điều tra hoặc khi đã kết thúc điều tra có căn
cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội; hành
vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã khởi tố hoặc còn có tội
phạm khác; có căn cứ xác định còn có người khác thực hiện hành vi
phạm tội trong vụ án. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTVAHS, KTBC theo
Điều 106 BLTTHS và Khoản 2 Điều 11, Khoản 2 Điều 13 Quy chế
công tác THQCT và KSVTTPL trong việc điều tra các vụ án hình sự,
ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSNDTC ngày
02/01/2008 của VKSND Tối cao (Quy chế).
2.1.2. Quyền đề ra yêu cầu điều tra v tr c tiếp tiến n một
s oạt độn điều tra; quyền yêu cầu t ay đổi Điều tra viên t eo
quy địn của p áp luật.
Khi có yêu cầu của CQĐT hoặc qua kiểm sát việc hỏi cung phát
hiện thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất;
bị can có khiếu nại về điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực
của lời khai bị can; trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm
trọng thì VKS có thể trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Sau khi nhận hồ sơ
vụ án, nếu có nghi ngờ về tài liệu, chứng cứ; các chứng cứ quan trọng
của vụ án có mâu thuẫn; trường hợp vụ án đặc biệt nghiêm trọng, có

nhiều tình tiết phức tạp khó thống nhất về tính chất vụ án hoặc để củng
cố tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc truy tố thì VKS có thể trực tiếp hỏi
cung bị can theo quy định tại các Điều 131 và Điều 132 BLTTHS.
KSV tiến hành đối chất trong trường hợp có yêu cầu của CQĐT
hoặc thấy việc đối chất của ĐTV chưa làm rõ được mâu thuẫn. Trong
quá trình điều tra, nếu thấy cần thực nghiệm điều tra để kiểm tra mâu
thuẫn giữa lời khai của bị can, của những người tham gia tố tụng khác
9


với thực tế khách quan thì VKS yêu cầu để CQĐT tiến hành thực
nghiệm điều tra.
2.1.3. Quyền yêu cầu T ủ trưởn CQĐT t ay đổi Điều tra
viên
ĐTV có thể bị thay đổi hoặc phải từ chối tiến hành tố tụng khi
thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 44 BLTTHS
Ngoài ra, ĐTV còn bị thay đổi nếu có căn cứ cho rằng họ có thể không
vô tư trong khi làm nhiệm vụ như có căn cứ cho rằng họ đã bị mua
chuộc, bị đe dọa hoặc có những mối quan hệ ràng buộc khác với những
người tham gia tố tụng.
2.1.4. Quyền quyết địn áp d n , t ay đổi oặc ủy bỏ biện
p áp n ăn c ặn
- Tạm giam: Theo điều 88 BLTTHS năm 2003, VKS có quyền ra
lệnh tạm giam trong 02 trường hợp: Người đó phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng; Người đó phạm tội nghiêm trọng hoặc tội ít
nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ
để cho rằng người đó sẽ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố hoặc có
thể tiếp tục phạm tội. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh
tạm giam và đề nghị xét phê chuẩn, VKS phải xem xét hồ sơ, tài liệu
liên quan đến việc tạm giam. Nếu thấy có đủ căn cứ, cần phải tạm giam

để phục vụ điều tra và đúng trình tự quy định thì VKS ra quyết định phê
chuẩn lệnh tạm giam; hoặc ngược lại.
- Tạm giữ: VKS không trực tiếp ra quyết định tạm giữ mà chỉ phê
chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của những người có thẩm quyền
(khoản 2 Điều 86 BLTTHS). Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết
định tạm giữ, quyết định này phải được gửi cho VKS cùng cấp để kiểm
sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Khi kiểm sát nhà tạm giữ, nếu
thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc người bị tạm giữ chỉ có
những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể,
chưa đến mức truy cứu TNHS thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định
hủy bỏ quyết định tạm giữ hoặc trực tiếp ra quyết định hủy bỏ quyết
định tạm giữ và yêu cầu CQĐT trả tự do cho họ.
- Cấm đi khỏi nơi cư trú: được quy định tại Điều 91 BLTTHS.
VKS không có quyền phê chuẩn hay không phê chuẩn đối với Lệnh cấm
10


cư trú do cơ quan có thẩm quyền ra lệnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp
xét thấy cần thiết phải ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với một đối
tượng nào đó mà CQĐT không ra quyết định thì VKS có quyền trực tiếp
ra lệnh cấm đi khỏi nơi cứ trú đối với họ để đảm bảo họ có mặt ở địa
phương để triệu tập lên làm việc khi cần.
- Bảo lĩnh: Khi xét thấy đối tượng không cần thiết phải áp dụng
biện pháp tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam sẽ thay đổi biện pháp
ngăn chặn sang biện pháp bảo lĩnh và quyết định này không cần phê
chuẩn sự phê chuẩn.
- Đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo: được quy định tại Điều 93
BLTTHS. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, VKS có thể trực
tiếp ra quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo họ

không bỏ trốn.
Căn cứ vào yêu cầu giải quyết vụ án, thái độ chấp hành của người
bị áp dụng mà cơ quan ra quyết định áp dụng có thể thay thế bằng một
biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hoặc nghiêm khắc hơn. Đối
với những biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn như lệnh tạm giam,
lệnh bắt bị can để tam giam thì việc hủy bỏ hay thay thế biện pháp khác
phải do VKS quyết định (khoản 2 Điều 94 BLTTHS). Hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn là việc quyết định không tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; và xảy ra
trong hai trường hợp: 1) Vụ án bị đình chỉ kéo theo các biện pháp ngăn
chặn đang được áp dụng đương nhiên được hủy bỏ; 2) Khi không còn
cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ nữa.
2.1.5. Quyền ủy bỏ các quyết địn k ôn có căn cứ v trái
p áp luật của CQĐT; Yêu cầu CQĐT truy nã bị can.
Trong nhiều trường hợp, VKS thấy các quyết định của CQĐT là
không có căn cứ như: có dấu hiệu tội phạm nhưng CQĐT lại không ra
quyết định không khởi tố vụ án; hoặc quyết định khởi tố bị can không
đúng với người thực hiện hành vi phạm tội, không đúng với tội danh;
các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn không phù hợp, không đảm
bảo cho quá trình điều tra hoặc lệnh bắt, tạm giam không được thực hiện

11


theo đúng quy định của pháp luật thì VKS có quyền ra quyết định hủy
bỏ các quyết định không có căn cứ đó.
Điều 161 BLTTHS quy định CQĐT phải tiến hành truy nã bị can:
khi bị can bỏ trốn hoặc khi không biết bị can đang ở đâu. VKS sẽ yêu
cầu CQĐT ra lệnh truy nã bị can nếu thuộc một trong hai trường này.
2.1.6. Quyền đ n c ỉ; tạm đ n c ỉ v án.

Đình chỉ vụ án là quyết định chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối
với vụ án hoặc với từng bị can. Theo Khoản 1 Điều 169 BLTTHS, VKS
ra quyết định đình chỉ vụ án khi xác định có một trong các căn cứ không
được phép KTVAHS (Điều 107 BLTTHS) hoặc khi người phạm tội tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 19 BLHS); Do chuyển biến
của tình hình mà hành vi phạm tội, người phạm tội không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa hoặc người phạm tội tự thú trước khi bị phát giác
và đã cố gắng tự mình hạn chế thấp nhất hậu quả đã xảy ra, có thái độ
thành khẩn khẩn khai báo, giúp việc điều tra, phát hiện tội phạm được
thuận lợi hoặc người phạm tội được miễn TNHS khi có quyết định đại
xá (Điều 25 BLHS);
Nếu có vướng mắc trong quá trình điều tra, VKS có thể ra quyết
định tạm đình chỉ đối với vụ án hoặc với từng bị can nếu thuộc một
trong các trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 169 BLTTHS.
Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của VKS phải gửi lên VKS
cấp trên; nếu những quyết định đó là không có căn cứ và trái pháp luật
thì Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp ra quyết định hủy bỏ các quyết
định này và yêu cầu VKS cấp dưới tiếp tục giải quyết theo quy định của
pháp luật.
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn,
tỉnh Yên Bái
2.2.1. T n
n tội p ạm ma túy trên địa b n uyện Văn
C ấn, tỉn Yên Bái
Huyện Văn Chấn là một huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh
Yên Bái, chiếm 17% diện tích toàn tỉnh, tập chung 23 dân tộc anh
em. Huyện Văn Chấn gồm 31 đơn vị hành chính, bao gồm 28 xã và
03 thị trấn. Với địa hình vùng núi phức tạp và có đường quốc lộ 32
12



chạy dọc theo chiều dài của huyện, là cửa ngõ đi vào thị xã Nghĩa Lộ,
huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải, huyện Phù Yên, Bắc Yên tỉnh Sơn
La và tỉnh Lai Châu; cộng thêm đường quốc lộ 37 chạy qua 4 xã tạo
điều kiện thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế giữa các huyện
trong tỉnh và với các tỉnh Sơn La, Phú Thọ, Lai Châu. Ngoài ra tuyến
đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai đi qua địa bàn tỉnh giúp rút ngắn
khoảng cách giữa các tỉnh miền núi phía Bắc cũng như với Thành
phố Hà Nội. Do đó huyện Văn Chấn chịu ảnh hưởng ít nhiều từ các
khu vực xung quanh, trong đó có vấn đề tội phạm nhất là đối với tội
phạm về mà túy, khi mà địa bàn huyện tiếp giáp với huyện Trạm
Tấu, Mù Cang Chải và gần các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Sơn La. Điện
Biên đều là những nơi có địa bàn nóng về tội phạm ma túy.
Quy mô tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện tuy không lớn
nhưng xảy ra phổ biến và thường xuyên, có diễn biến ngày càng có
phần phức tạp và tinh vi, nguy hiểm. Có thể rút ra một số đặc điểm
hình sự của tội phạm này trên địa bàn như sau.
Thứ nhất, đặc điểm về nhân thân đối tượng phạm tội: Đối
tượng phạm tội ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn diễn ra ở đủ mọi
lứa tuổi, thành phần xã hội khác nhau, theo số liệu thống kê thì chủ
yếu là trong độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm tỷ lệ 48,6% (105/216), trong
độ tuổi từ trên 30 đến 70 tuổi chiếm tỷ lệ 50% (108/216); đối tượng
nghiện chất ma túy, lang thang không có nghề nghiệp ổn định chiếm
tỷ lệ 63% (136/216); đối tượng có tiền án, tiền sự chiếm tỷ lệ 45,4%
(98/216); đối tượng là nữ giới chiếm tỷ lệ 11,1% (24/216); đối tượng
phạm tội là đảng viên chiếm tỷ lệ 3,7% (08/216); đối tượng là người
già cũng xảy ra một vài trường hợp.
Thứ hai, nguyên nhân phạm tội: thường do lười lao động, thích
tụ tập ăn chơi đua đòi nên dẫn đến xa ngã vào con đường nghiện

ngập. Vì vậy các đối tượng này thường tìm mua ma túy để bán lẻ
kiếm lời nhằm phục vụ nhu cầu nghiện chất ma túy của bản thân
Thứ ba, cách thức phạm tội chủ yếu: Đối với các vụ án vận
chuyển, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra trên địa bàn
các đối tượng phạm tội thường vận chuyển bằng phương tiện xe mô
tô, xe ô tô khi bị phát hiện thì vứt xe bỏ chạy hoặc vận chuyển bằng
13


xe ôtô chở khách thì các đối tượng thường để ma túy ở một nơi,
người ngồi một nơi nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng,
gây khó khăn trong việc xác định tội phạm.
Thứ tư, đặc điểm về địa bàn hoạt động: Tuyến hoạt động chủ
yếu của loại tội phạm này là tuyến đường đi từ huyện Than Uyên,
tỉnh Lai Châu dọc theo Quốc lộ 32 đi qua huyện Mù Cang Chải, Yên
Bái đến huyện Văn Chấn và điểm dừng cuối cùng là thành phố Hà
Nội, ngoài ra Quốc lộ 279 nối liền Lao Cai với Điện Biên Phủ có
điểm giao với tuyến đường quốc lộ 32 trên, cộng thêm địa hình
đường núi hiểm trở, nhiều đồi núi vắng vẻ càng khiến cho việc ngăn
chặn và bắt phá loại tội phạm này gặp nhiều khó khăn.
2.2.2. N ữn kết quả, ạn c ế v n uyên n ân của côn tác
T QCT tron iai đoạn điều tra các tội p ạm ma túy của VKSND
uyện Văn C ấn, tỉn Yên Bái
2.2.2.1. Những kết quả đạt được.
- VKSND huyện Văn Chấn đặt công tác giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm ở vị trí quan trọng; phân công KSV có kinh nghiệm
chuyên trách theo dõi, tổng hợp các nguồn tin để chủ động có các
biện pháp tác động với CQĐT, thường xuyên phối hợp, trao đổi, đôn
đốc công việc với CQĐT.
- Tội phạm về ma túy thường liên quan đến vật chứng là các

chất ma túy, nhất là đối với những trường hợp phạm tội Mua bán trái
phép chất ma túy thì việc đề nghị phê chuẩn lệnh khám xét của
CQĐT là việc làm cần thiết. Vì vậy VKS đảm bảo khẩn trương
nghiên cứu, xem xét thận trọng yêu cầu của CQĐT để quyết định
việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Đối với các trường hợp có thu
giữ, tạm giữ tài sản và vật chứng có liên quan đến vụ án, VKS thực
hiện việc nghiên cứu các lệnh, các biên bản khám xét của CQĐT để
kịp thời phát hiện và yêu cầu sửa chữa các vi phạm pháp luật.
- Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Trước khi tiến hành ra
lệnh bắt, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn VKS luôn chủ động trong
công tác, phối hợp chặt chẽ với CQĐT để nghiên cứu kỹ hồ sơ, trong
trường hợp thật cần thiết trực tiếp gặp hỏi đối tượng để tự xác minh,
củng cố chứng cứ.
14


- Không có trường hợp nào VKS phải yêu cầu thay đổi ĐTV.
Hạn chế thấp nhất việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ,
đình chỉ không có lý do chính đáng.
Để đạt được những kết quả trên phải kể đến:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác tư
pháp, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết 08- NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị. Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước ban
hành nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật giúp cho việc áp dụng pháp
luật dễ dàng được thực hiện hơn, đặc biệt là BLTTHS năm 2015 đã
được dự thảo và sắp tới sẽ có hiệu lực tiếp tục khẳng định vị trí vai
trò của VKSND trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Mặt khác
VKSND Tối cao đã ban hành các Thông tư liên ngành hướng dẫn thi
hành BLHS và BLTTHS (như Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLTVKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT

và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003,
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTCBTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương
XVIII “các tội phạm về ma túy” của BLHS và Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC
ngày
02/8/2013 hướng dẫn thi hành quy định quy định của BLTTHS về
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố). Thường xuyên tổ chức ban hành nhiều quyết định, chỉ thị và các
thông báo rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực công
tác THQCT và KSĐT trong toàn ngành.
Thứ hai, là cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc và
chế độ chính sách đối với cán bộ ngành Kiểm sát đã từng bước được
quan tâm đầu tư hoàn thiện.
Nguyên nhân chủ quan:
Một là, VKSND huyện Văn Chấn đã có nhận thức đúng về chức
năng, nhiệm vụ của ngành, cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của
công tác THQCT và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra các tội
phạm ma tuý
Hai là, VKSND huyện Văn Chấn đã chủ động tăng cường phối
15


hợp chặt chẽ với CQĐT và TAND trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử các vụ án về ma tuý.
Ba là, Đội ngũ cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên VKSND
huyện Văn Chấn được tạo tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng
cao trình độ chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
2.2.2.2. N ữn ạn c ế, vướn mắc v n uyên n ân
N ữn ạn c ế tồn tại:
Việc kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKS

còn chưa kịp thời, thiếu chủ động, tích cực, chưa tuân thủ đúng quy
định tại Điều 103 BLTTHS và Thông tư liên tịch số 06.
Chưa thực hiện tốt hoạt động THQCT ngay từ đầu, không chủ
động bám án, nắm vững tiến độ điều tra vụ án nên chưa thực hiện tốt
công tác giám sát hoạt động điều tra, chỉ đạo điều tra, định hướng
điều tra. Khi THQCT trong nhiều vụ án, KSV còn thụ động.
Khi phát hiện vi phạm, thiếu sót của CQĐT thì việc kiến nghị,
kháng nghị, yêu cầu của VKS đối với CQĐT về khắc phục những
thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra còn hạn chế, nể
nang.
Việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn còn
bộc lộ những thiếu sót ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, tiến độ
giải quyết vụ án như để bị can tiếp tục phạm tội mới trong thời gian
được tại ngoại.
N ữn k ó k ăn vướn mắc:
Thứ nhất, về việc định tội danh: Tại mục 3.2 phần I của Thông
tư liên tich số 17 quy định “Trường hợp một người thực hiện nhiều
hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau, từ điều 192
đến 194 BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau
(hành vi này là điều kiện thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi
kia) nếu các tội phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu
TNHSvề hành vi tội phạm được thực hiện đầu tiên”. Việc quy định
nêu trên là không phù hợp, lẽ ra phải xử lý về hành vi cuối hoặc hành
vi đang thực hiện mới chính xác.
Quy định hành vi Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi
mua, xin, tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác tại
16


Mục 3.3 phần II Thông tư liên tịch số 17 gây nhiều khó khăn. Có rất

nhiều trường hợp khi bắt quả tang các đối tượng khai là tàng trữ
nhằm mục đích mua bán nhưng sau đó thường thay đổi lời khai là
tàng trữ nhằm mục đích sử dụng (vì thực tế tội Mua bán trái phép
chất ma túy nguy hiểm hơn tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên sẽ
bị áp dụng khung hình phạt nặng hơn. Khi các đối tượng này bị, tạm
giữ, tạm giam cùng các đối tượng có tiền án, tiền sự về ma túy sẽ bị
xúi giục thay đổi lời khai) dẫn đến việc phải thay đổi tội danh đã khởi
tố, truy tố. Đặc biệt Thông tư liên tịch số 17 chỉ quy định chi tiết về
định lượng tối thiểu xác định cấu thành tội phạm đối với các hành vi
vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy, không quy định định
lượng tối thiểu đối với hành vi mua bán. Do vậy khi bắt quả tang đối
tượng tàng trữ trái phép chất ma túy có trọng lượng dưới định lượng
cấu thành tội tàng trữ nhưng nhằm mục đích mua bán, các CQTHTT
phải thực sự thận trọng, mất rất nhiều công sức và thời gian để chứng
minh chặt chẽ mục đính nhằm bán trái phép của đối tượng, để quyết
định việc khởi tố, truy tố, xét xử do tội phạm có cấu thành hay không
cấu thành chỉ dựa vào lời khai của đối tượng.

Việc định tội danh và xử lý về tội Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy (theo điều 197 BLHS) gặp khó khăn do
Thông tư liên tịch số 17 quy định người nghiện ma túy có chất
ma túy cho người nghiện ma túy khác chất ma túy để cùng sử
dụng thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thực tế tại địa
phương hiện nay phổ biến xảy ra tình trạng một nhóm thanh
niên tụ tập nhau sử dụng ma tuý sau đó bị bắt quả tang. Vấn đề
có xử lý được về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay
không căn cứ vào việc xác định các đối tượng trên có phải là
các đối tượng nghiện hay không. Việc xác định có phải là đối
tượng nghiện hay không thì chưa có quy định cụ thể ngoài
Thông tư liên tịch số 03 ngày 10/2/2012 của Bộ Lao động

TBXH – Bộ Y tế - Bộ Công an.
Thứ hai, về thời hạn trả kết quả giám định: Có nhiều
trường hợp không thể trả kết quả giám định đúng thời hạn do
17


nguyên nhân khách quan: số lượng mẫu giám định lớn, số vụ
việc cần giám định nhiều,… Do vậy thời hạn trả kết quả giám
định thường quá thời hạn 09 ngày tạm giữ, gia hạn tạm giữ.
Thứ ba, về việc ngành Tòa án nhân dân triển khai thực hiện
Công văn số 234/TANDTC-HS: “Bắt buộc phải giám định hàm
lượng của các chất thu giữ được nghi là ma túy để lấy đó làm căn cứ
kết tội các bị cáo”.
Thực tiễn giải quyết án ma túy cho thấy trọng lượng ma túy thu
giữ được trong nhiều vụ án là rất ít và đã được giám định loại, trọng
lượng trước đây nay không còn đủ lượng để giám định hàm lượng.
Chưa kể có những vụ Cơ quan giám định không hoàn trả lại mẫu
giám định do đã sử dụng hết mẫu.
Nguyên nhân khách quan:
Một là, hệ thống pháp luật có liên quan đến việc xử lý tội phạm
về ma tuý chưa thống nhất, chồng chéo, thiếu đầy đủ và chưa cụ thể
đã dẫn đến nhiều cách hiểu, đánh giá và áp dụng khác nhau.
Hai là, số lượng KSV tại VKSND huyện Văn Chấn còn thấp
(55%) trong khi 45% số lượng biên chế còn lại của đơn vị đều là cán
bộ trẻ mới vào ngành, chưa đủ thời gian công tác để thi tuyển KSV.
Ba là, trang bị, phương tiện, chế độ tiền lương phục vụ cho
hoạt động THQCT còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Chính sách đối với cán bộ, nhất là chính sách tiền lương, phụ cấp còn
nhiều bất hợp lý và nhiều khó khăn, chưa tạo động lực phát huy sở trường
của cán bộ.

N uyên n ân c ủ quan:
Một là, năng lực, trình độ của một số cán bộ, KSV trong giai
đoạn hiện nay vẫn còn hạn chế. Một số cán bộ, KSV được phân công
nhiệm vụ THQCT chưa thực sự thực hiện đầy đủ chức năng THQCT đối
với các vụ án hình sự nói chung, án ma tuý nói. Chưa nhận thức đúng vị
trí, vai trò của VKSND trong TTHS. Năng lực thực tế của một số cán
bộ, KSV chưa đồng đều, làm việc theo khuân mẫu, máy móc.
Hai là, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, đặc
biệt giữa các cơ quan VKS với CQĐT và Toà án trong việc giải
quyết án hình sự có lúc còn chưa chặt chẽ, chất lượng chưa cao, hoặc
18


coi trọng việc phối hợp mà quên nhiệm vụ và trách nhiệm của mình
dẫn đến nể nang, né tránh, ngại va chạm giữa các CQTHTT.
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THQCT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ
MA TÚY TẠI VKSND HUYỆN VĂN CHẤN, TỈNH YÊN BÁI
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
Một là, VKS THQCT phải bảo đảm cho pháp luật được thi
hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm không để lọt người, lọt
tội và không làm oan người vô tội.
Hai là, tăng cường công tác phối hợp với CQĐT, các cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân, thực hiện tốt công tác nắm,
kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm nói chung,
tội phạm ma tuý nói riêng.
Ba là, thực hiện tốt công tác THQCT từ đầu đối với các vụ án

ma tuý có tính chất phức tạp, phải đảm bảo cho công tác điều tra các
tội phạm ma tuý có hiệu quả, đúng pháp luật.
Bốn là, quá trình THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án ma
tuý cần khẩn trương thẩm định các tài liệu chứng cứ do CQĐT đã thu
thập để kịp thời đề ra những yêu cầu điều tra, định hướng điều tra,
chú trọng thẩm định kết quả giám định cơ quan chuyên môn nếu phát
hiện có mâu thuẫn hoặc chưa đầy đủ thì phải yêu cầu làm rõ.

Năm là, THQCT đối với án ma tuý phải dựa trên những
chủ trương, chính sách của Đảng và quy định của pháp luật.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về
ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
3.2.1. Giải p áp o n t iện p áp luật tạo điều kiện c o côn
tác T QCT của VKS trên địa b n uyện Văn C ấn, tỉn Yên Bái.
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật hình sự: Đến nay ngoài Thông
tư liên tịch số 17 ngày 24/12/20107 còn nhiều bất cập thì vẫn chưa có
hướng dẫn một cách toàn diện, cụ thể để thống nhất áp dụng đối với
19


loại tội phạm về ma túy. Thực tiễn áp dụng cho thấy quy định trong
BLHS năm 1999 (sửa đổi) phức tạp rất khó vận dụng trên thực tiễn.
Một số tình tiết tuy đã có hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ hoặc không
còn phù hợp cần phải được giải thích một cách cụ thể, đầy đủ như:
Khái niệm về chất ma túy và định lượng chất ma túy mà hai
khái niệm này chỉ được nghi nhận tại Thông tư liên tịch số 17 gây
khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc nghiên cứu, xử lý các
tội phạm về ma túy.
BLHS mới được đưa vào thực tiễn áp dụng sẽ còn gặp phải

vướng mắc trong nhận thức và áp dụng nên trong thời gian sớm nhất
cần có văn bản hướng dẫn thực hiện.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự:
Về căn cứ bắt, tạm giam bị can, bị cáo: Đối với những trường
hợp bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì
không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường
hợp quy định tại các điểm a, b, c điều 88 BLTTHS. Trong thực tế,
mặc dù CQTHTT đã giao bị can, bị cáo cho chính quyền địa phương
theo dõi nhưng do điều kiện vùng sâu, vùng xa quản lý khó khăn nên
bị can, bị cáo trốn, cuối cùng CQTHTT phải tạm đình chỉ vụ án hoặc
bị can bị cáo là phụ nữ cố tình có thai để trốn tránh việc truy cứu
TNHS, hoặc có các thủ đoạn khác làm cản trở đến quá trình giải
quyết vụ án. Do vậy cần phải quy định rõ ràng những trường hợp nêu
trên cần phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo nếu
có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể gây khó khăn, cản trở cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Đối với biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm, cần quy định thêm điều kiện và trách nhiệm pháp lý của
người nhận bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Điều 92
BLTTHS chỉ quy định, cá nhân hoặc tổ chức đứng ra bảo lĩnh cho bị
can chỉ phải làm giấy cam đoan và nếu bị can trốn hoặc gây cản trở
cho quá trình giải quyết vụ án thì phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ
đã cam đoan và bị can sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác - quy
định như vậy là không cụ thể và không có tính ràng buộc cao.
20


Thứ ba, sửa đổi Thông tư liên tịch số 17: Bỏ quy định tại điểm
1.4 điều 1 phần I Thông tư liên tịch số 17, trong mọi trường hợp, khi

thu giữ được các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc
sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định hàm
lượng chất ma túy, tiền chất. Quy định này không đúng với quy định
của BLHS, mâu thuẫn với các nội dung khác được quy định trong
Thông tư liên tịch số 17. Cụ thể:

- Tại mục I Thông tư liên tịch số 17 quy định:
1.1. “Chất ma túy” là các chất gây nghiện, chất hướng
thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính
phủ ban hành. Trong đó, cần phân biệt các trường hợp sau:
a) Đối với các chất ma túy ở thể rắn …
b) Đối với xái thuốc phiện …
- Cũng tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần I Thông tư liên tịch số 17
quy định ngay cả trong trường hợp giám định chất ma túy đã thu giữ
không phải là ma túy mà người thực hiện ý thức đó là chất ma túy
vẫn bị truy cứu TNHS về tội phạm ma túy.
Do đó, đối với các “Chất ma túy” là các chất gây nghiện, chất
hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính
phủ ban hành thì chỉ giám định xác định trọng lượng chất ma túy để
truy tố, xét xử. Đối với tiết a, b nêu trong tiểu mục 1.1, mục 1, phần I
và trong trường hợp cần phân biệt chất gây nghiện, chất hướng thần
với thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần theo tiểu mục 3.5, mục 3,
phần II Thông tư liên tịch số 17 thì mới bắt buộc giám định xác định
hàm lượng để tính trọng lượng chất ma túy.
Bỏ từ “nhằm” trong quy định “Mua bán trái phép chất ma túy
là một trong các hành vi: Mua chất ma túy nhằm bán trái phép… cho
người khác tại tiểu mục 3.3, mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17
để loại trừ trường hợp định tội danh theo ý thức, lời khai của đối
tượng.
Cần sửa đổi điểm a mục 6.2 phần II Thông tư 17 với nội dung

“Người nghiện ma túy có chất ma túy… về tội Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy” theo hướng giữ nguyên quan điểm hướng dẫn
21


đường lối xử lý tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo công
văn số 03/VKS ngày 03/01/2000 của VKSND Tối cao .
Thứ tư, kiến nghị dừng triển khai thực hiện Công văn số 234
của TANDTC: Việc VKSND Tối cao có văn bản đề nghị TAND Tối
cao xem xét dừng việc thực hiện Công văn số 234 là thỏa đảng. Tuy
nhiên cho đến nay thì TAND Tối cao vẫn chưa có ý kiến phản hồi.
Thứ năm, tăng cường giải thích hướng dẫn áp dụng pháp luật.
- Ban hành văn bản giải thích pháp luật ngay sau khi một Bộ
luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết được ban hành, để tạo điều kiện
cho việc hiểu và thực hiện đúng.
- Để đảm bảo việc hướng dẫn áp dụng pháp luật được thống
nhất, cần mở rộng ban hành các Thông tư liên tịch và thu hẹp dạng
văn bản hướng dẫn đơn ngành.
- Hướng dẫn tập huấn cho cán bộ áp dụng thống nhất pháp luật,
nhất là hai bộ luật mới BLHS và BLTTHS năm 2015. Đồng thời tích
cực tổng kết thực tiễn, kịp thời hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm
đối với các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thi hành pháp luật.
3.2.2. Giải p áp nân cao c ất lượn T QCT tron iai
đoạn điều tra các tội p ạm về ma túy trên địa b n uyện Văn
C ấn, tỉn Yên Bái.
3.2.2.1. Tiếp tục đổi mới về nội dung và phương pháp công tác
THQCT các vụ án ma túy.
Phải nắm chắc tình hình thực trạng, diễn biến, cơ cấu và tính
chất của tình hình tội phạm ma túy diễn ra tại địa phương trong từng
thời điểm (tuần, tháng, quý và năm).

Cần thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động điều tra tại hiện
trường đối với loại tội phạm này.
Sau khi vụ án được khởi tố, VKS phải kiểm sát tính có căn cứ
và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án đó.
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong quá trình tiến hành tố
tụng phải nắm vững các quy định của BLTTHS, đặc biệt là đối với
biện pháp ngăn chặn là tạm giữ, tạm giam hoặc bắt giữ người trong
trường hợp khẩn cấp đối với vụ án ma túy.
Bên cạnh đó thì việc kiểm sát hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp
22


ngăn chặn cũng rất quan trọng và cần thiết. Đặc biệt là đối với những
vụ án về tội phạm ma túy phạm tội có tổ chức hoặc có nhiều bị can,
khi bắt phải giam cách ly để tránh tạo cơ hội cho họ bàn bạc dẫn đến
phải thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cho tội phạm được
thoát tội và có cơ hội bỏ trốn.
Quá trình THQCT, KSV cần khắc phục ngay tình trạng thụ
động ngồi chờ án, mà phải kịp thời nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ
trong hồ sơ vụ án để tác động với CQĐT định hướng điều tra và giải
quyết; trực tiếp tham gia một số hoạt động tố tụng điều tra chủ.
3.2.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ, KSV.
Một, kiện toàn tổ chức, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức của
đôị ngũ cán bộ, Kiểm sát viên.
Hai, tăng cường tập huấn, đào tạo và đào tạo lại chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, KSV.
3.2.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKSND với các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
Do tính chất phức tạp của mối quan hệ giữa CQĐT và VKS,

kết hợp với việc ban hành các văn bản hướng dẫn của liên ngành
pháp luật chưa đầy đủ nên trong hoạt động thực tiễn mối quan hệ
giữa CQĐT và VKS nhiều khi còn tùy tiện, nể nang và chưa thống
nhất.
Trong mỗi giai đoạn TTHS, tính chất mức độ quan hệ giữa
CQĐT và VKS đều có những biểu hiện khác nhau, cho nên phần nội
dung của quy chế phải quy định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và trách
nhiệm thực hiện của mỗi cơ quan trong từng chế định TTHS. Cần
quy định rõ thời hạn cụ thể thực hiện trách nhiệm trong mối quan hệ
giữa hai cơ quan này.
Bên cạnh hoạt động phối hợp giữa các cơ quan trực tiếp làm
công tác bảo vệ pháp luật thì cũng cần thiết phối hợp với các cơ
quan ban ngành khác ở địa phương.
3.2.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho
VKSND và hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, KSV.

23


×