Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.1 KB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG CHIẾN

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN
CỦA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG CHIẾN

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN
CỦA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số

: 60.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM VĂN TỈNH

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ
ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN .............................8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cướp giật tài sản .............................................................................................8
1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản ........11
1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật
tài sản.........................................................................................................................23
1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài
sản với tình hình tội cướp giật tài sản, với nhân thân người phạm tội cướp giật tài
sản và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản .....................................................24
Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH
HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..............................................................................30
2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật
tài sản trên địa bàn quận Tân Bình giai đoạn 2012-2016..........................................30
2.2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội cướp giật
tài sản trên địa bàn quận Tân Bình giai đoạn 2012 - 2016........................................44
2.3. Thực trạng làm sáng tỏ các nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình thông qua các chủ thể phòng, chống
tội phạm .....................................................................................................................58
Chương 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP

GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN BÌNH GIAI ĐOẠN 2012-2016
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA HIỆN TƯỢNG
TIÊU CỰC NÀY .....................................................................................................62
3.1. Tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình trong phòng ngừa tình hình tội phạm này ..62


3.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
quận Tân Bình và vấn đề dự báo tình hình tội phạm này .........................................63
3.3. Giải quyết nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản và
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ................................................................66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Mức độ tổng quan của tình hình tội phạm và tình hình tội cướp giật tài
sản
Bảng 2.2. Cơ số tội phạm và cơ số tội cướp giật tài sản
Bảng 2.3. Diễn biến tình hình tội cướp giật tài sản
Bảng 2.4. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội cướp giật tài sản phân theo số dân
của 15 đơn vị hành chính cấp phường
Bảng 2.5. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội cướp giật tài sản phân theo diện tích
15 đơn vị hành chính cấp phường
Bảng 2.6. Cấp độ nguy hiểm của tình hình các tội cướp giật tài sản xét theo dân số
và diện tích của 15 đơn vị hành chính cấp phường
Bảng 2.7. Cơ cấu xét theo các bước thực hiện hành vi phạm tội
Bảng 2.8. Cơ cấu xét theo phương tiện gây án
Bảng 2.9. Cơ cấu xét theo thời gian gây án

Bảng 2.10. Cơ cấu xét theo địa điểm thực hiện hành vi phạm tội
Bảng 2.11. Cơ cấu xét theo chế tài đã áp dụng
Bảng 2.12. Cơ cấu xét theo độ tuổi của bị cáo
Bảng 2.13. Cơ cấu xét theo giới tính của bị cáo
Bảng 2.14. Cơ cấu xét theo dân tộc của bị cáo
Bảng 2.15. Cơ cấu xét theo nơi ở của bị cáo
Bảng 2.16. Cơ cấu theo trình độ học vấn của bị cáo
Bảng 2.17. Cơ cấu xét theo nghề nghiệp của bị cáo
Bảng 2.18. Cơ cấu xét theo tôn giáo của bị cáo
Bảng 2.19. Cơ cấu xét theo hoàn cảnh gia đình của bị cáo
Bảng 2.20. Cơ cấu xét theo tình trạng hôn nhân của bị cáo
Bảng 2.21. Cơ cấu xét theo đặc điểm tiền sự, tiền án của bị cáo
Bảng 2.22. Cơ cấu xét theo đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm của bị cáo
Bảng 2.23. Cơ cấu xét theo giới tính người bị hại và tài sản bị cướp giật


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, được thành lập theo Nghị định số
130/2003/NĐ-CP ngày 05/11/2003 của Chính phủ trên cơ sở chia tách quận Tân
Bình (cũ) thành quận Tân Bình và quận Tân Phú. Theo đó, quận Tân Bình ở vị trí
có thể được khắc họa như sau: Phía Bắc giáp quận 12 và quận Gò Vấp; Phía Nam
giáp quận 11; Phía Đông giáp quận Phú Nhuận, quận 3 và quận 10; Phía Tây giáp
quận Tân Phú.
Toàn quận có 15 phường, diện tích 22,39 km2 với dân số 472.988 người (mật
độ 21.125 người/km2), bao gồm nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, trong đó dân
tộc kinh chiếm 93,33%, dân tộc Hoa chiếm 6,38% ngoài ra còn có các dân tộc khác
là Tày, Thái, Nùng, Mường, Chăm…Về tôn giáo cũng hết sức đa dạng như Công
giáo chiếm 22,9%, Phật giáo 19,62%, ngoài ra còn có đạo Tin lành, Cao đài, Hòa
Hảo; người không có đạo chiếm 56,68%.

Quận Tân Bình có 2 cửa ngõ giao thông quan trọng của cả nước. Đó là Cụm
cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và quốc lộ 22 về hướng tỉnh Tây Ninh và
Vương quốc Campuchia. Trên địa bàn quận hiện có 15.854 doanh nghiệp, 1.337 chi
nhánh, văn phòng đại diện và gần 30.000 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động.
Nhờ vị trí thuận lợi, lại là một trong những quận trọng điểm của thành phố
Hồ Chí Minh, trong những năm qua, quận Tân Bình không ngừng phát triển về mọi
mặt, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao rõ rệt; công tác
phòng, chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng trên địa bàn quận
luôn được Quận ủy và Ủy ban nhân dân quận quan tâm chỉ đạo; các cấp, các ngành,
các cơ quan chức năng thường xuyên triển khai các biện pháp nhằm giữ vững ổn
định chính trị, an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn quận.
Tuy vậy, bên cạnh những yếu tố tích cực và những thành tựu đã đạt được,
quận Tân Bình cũng có những yếu tố tiêu cực, trong đó phải nói đến tình hình tội
phạm. Theo báo cáo thống kê của Tòa án nhân dân quận Tân Bình từ năm 2012 đến
năm 2016 cho thấy có 2.179 vụ án, với 2.978 bị cáo đã được xét xử hình sự sơ

1


thẩm, trong đó tội cướp giật tài sản là 485 vụ án, với 670 bị cáo, tức là tỷ lệ tội cướp
giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình 5 năm qua chiếm tỷ lệ 22,26% về số vụ và
22,50% về số bị cáo. Tỷ lệ này so với phạm vi toàn quốc là quá cao, lại đang diễn ra
theo xu hướng gia tăng.
Như vậy, đấu tranh với tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân
Bình là một yêu cầu bức thiết từ thực tiễn xã hội. Yêu cầu này đã được Quận ủy và
Ủy ban nhân dân quận Tân Bình luôn quan tâm và thực hiện bằng chỉ thị, kế hoạch
cụ thể. Quận ủy Tân Bình đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/QU ngày 10/01/2011 và
Ủy ban nhân dân quận Tân Bình cũng đã ban hành kế hoạch số 12/KH-UBND ngày
20/01/2011 để thực hiện chương trình hành động số 04CTr/TU ngày 31/12/2010
của Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh theo chỉ đạo của Trung

ương, căn cứ Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới, đồng thời tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày
14 tháng 4 năm 2016 của Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng,
chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030, mà mục tiêu
đã được xác định cụ thể là: “Đẩy lùi tội phạm và tệ nạn xã hội, phấn đấu đến năm
2020 giảm từ 3 - 5% tổng số vụ phạm tội hình sự so với năm 2016”.
Để thực hiện tốt Chỉ thị, cũng như Kế hoạch của Quận ủy và Ủy ban nhân
dân quận đã đề ra, tức là đấu tranh có hiệu quả hơn với tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn quận Tân Bình, thì hiện tượng tiêu cực này phải được nghiên cứu
cơ bản và chuyên sâu theo một chuyên ngành khoa học. Hiện nay, trong số các khoa
học pháp lý hình sự, Tội phạm học được xem là một khoa học về phòng ngừa tội
phạm trên cơ sở làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.
Với cách nhìn nhận như vậy, đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh” đã được
tác giả lựa chọn nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2


Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài, các công trình khoa học sau
đây đã được nghiên cứu:
a/ Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận cơ bản về nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội cướp giật tài sản
-GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình tội phạm học, NXB. Công an
nhân dân, 2009;
-GS.TS Nguyễn Văn Cảnh và PGS.TS Phạm Văn Tỉnh (chủ biên), Một số
vấn đề tội phạm học Việt Nam, Tài liệu Học viện Cảnh sát nhân dân, 2013;
-TS. Phạm Hồng Hải, Tội phạm học Việt Nam, Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, NXB. Công an nhân dân, 2000;
-GS.TS. Đào Trí Úc (chủ biên), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, 1994;
-PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa
tội phạm, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật (3/2014), tr. 74-84;
-Trịnh Tiến Việt, Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm học,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế-Luật 24 (2008), 185-199.
-PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, Phòng ngừa tội phạm và vấn đề bảo vệ quyền con
người – một nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học, Thông
tin tội phạm học/Số 7 (29)-2011, tr. 7-14.
-PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, Cơ chế hành vi phạm tội - cơ sở để xác định
nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm, Tạp chí kiểm sát Số 1 và số
3/1996.
-Th.S Lê Nguyên Thanh, Vấn đề đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm,
Tạp chí khoa học pháp lý số 1(38)/2007, tr. 1-5.
-Trần Minh Tơn, Quan điểm và giải pháp chiến lược phòng, chống tội phạm
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Cộng sản 2014.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã tập chung làm rõ những vấn đề lý luận
cơ bản về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản bao gồm khái
niệm, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, phân biệt khái niệm nguyên nhân và

3


điều kiện của tội phạm với một số khái niệm khác có liên quan, các đặc điểm
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, sự tác động qua lại của các yếu tố tiêu cực
trong cơ chế hành vi phạm tội. Đây là những cơ sở lý luận rất quan trọng mà luận
văn sẽ kế thừa làm nền tảng lý luận.
b/ Nhóm các công trình nghiên cứu về các khía cạnh nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội cướp giật tài sản

-Đào Quốc Thịnh (2014), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú,
Thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,
Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện khoa học xã hội.
-Trần Xuân Huấn (2014), Tội cướp giật tài sản do người chưa thành niên
thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và
giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện Khoa học xã
hội.
-Lê Thuần Phong (năm 2015), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,
Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện Khoa học xã hội.
-Trần Thanh Hải (2016), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương:
tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học
– Học viện Khoa học xã hội.
-Đặng Ngọc Thắng (2016), Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên
địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học
– Học viện Khoa học xã hội.
Các đề tài công trình nghiên cứu nêu trên với góc độ tiếp cận và mục tiêu
khác nhau đều đã có những đóng góp làm hoàn thiện lý luận và đề ra các giải pháp
thực tiễn. Tuy nhiên, đến nay, các công trình khoa học đã công bố đều được tiến
hành theo hướng tổng quát tất cả hệ thống các vấn đề cơ bản của tội phạm học. Việc
nghiên cứu bị giới hạn trong khuôn khổ đã được quy định của hình thức công trình
nghiên cứu, do đó chưa thể đi sâu và khai thác triệt để những khả năng lý luận và
thực tiễn vốn chứa đựng trong từng vấn đề cơ bản đó. Vì vậy, việc nghiên cứu tập

4


trung vào một vấn đề “nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản”
trên một địa bàn nhất định (quận Tân Bình) thể hiện một hướng nghiên cứu chuyên
sâu hơn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ các
yếu tố tác động làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận như
một chỉnh thể, một hiện tượng xã hội tiêu cực. Từ đó, đề tài đưa ra các giải pháp
khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của hiện tượng tiêu cực này, nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trong thời gian
tới trên địa bàn quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội cướp giật tài sản.
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích làm rõ các yếu tố giữ vai trò là nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình.
Thứ ba: Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản và hoàn thiện hệ thống giải
pháp phòng ngừa tội cướp giật tài sản từ khía cạnh nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xét trong hệ thống tội phạm học, tên đề tài luận văn đã đề cập đến đối tượng
nghiên cứu của đề tài, tức là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật
tài sản trên địa bàn quận Tân Bình. Đó là sự tương tác giữa những hiện tượng,
những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống ở quận Tân Bình và những đặc điểm
tiêu cực về nhân thân người phạm tội mà trong những hoàn cảnh, tình huống nhất
định đã thực hiện những hành vi tạo thành tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn quận Tân Bình

5



4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Về nội dung: được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành

tội phạm học và phòng ngừa tội phạm;
-

Về tội danh: tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 136 chương XIV

của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009);
-

Về không gian: tại địa bàn quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh;

-

Về thời gian: giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Phương pháp biện chứng, phương pháp logic, phương pháp nghiên
cứu hồ sơ, phương pháp tổng kết thực tiển, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, kế thừa, hệ thống, diễn giải, quy nạp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận
tội phạm học về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung và của
tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình nói riêng.

Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng vào việc
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân về nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản, đồng thời có thể vận dụng
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, là tài liệu tham khảo cho việc hoạch định
chính sách nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình.
7. Cơ cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn gồm có 3 chương. Cụ thể là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cướp giật tài sản

6


Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật
tài sản trên địa bàn quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên
địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra đối với
phòng ngừa hiện tượng tiêu cực này.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ
ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài

sản
Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội pháp lý tiêu cực, được thay đổi
về mặt lịch sử, bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong
một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định.
Với tính cách là hiện tượng xã hội, tình hình tội phạm có nguyên nhân và
điều kiện xã hội.
GS.TS Võ Khánh Vinh khẳng định: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh
tế – xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả
của mình” và “các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một
hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó” [33, tr.86].
Triết học Mác-xít khẳng định rằng, nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động
qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng hoặc giữa các sự vật, các hiện
tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định, gọi là kết quả. Không có sự tác động
qua lại thì không có nguyên nhân và để nguyên nhân sinh ra kết quả nhất định nào
đó như tình hình tội phạm chẳng hạn, thì quá trình tương tác phải diễn ra trong điều
kiện nhất định. Công thức của sự tác động này phải là kích thích khách thể (S) –
kích thích phương tiện (X) – trả lời các kích thích (R).
Kích thích khách thể (ký hiệu là S) là thuật ngữ dùng để gọi các yếu tố tác
động của môi trường như các yếu tố về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa – giáo
dục, các yếu tố tâm lý – xã hội thuộc các môi trường vĩ mô và vi mô.

8


Kích thích phương tiện (ký hiệu là X) là thuật ngữ dùng để gọi chung đối với
các yếu tố tâm – sinh lý (lý trí và ý chí) của chủ thể hành vi, giữ vai trò điều chỉnh
bên trong của lối xử sự của chủ thể.
Hành động trả lời các kích thích (ký hiệu là R) là thuật ngữ dùng để gọi
chung cho các quá trình cơ bản của bản thân hành vi phạm tội. GS. TS. Võ Khánh

Vinh gọi là ba khâu cơ bản “Quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm, việc
kế hoạch hóa các hoạt động phạm tội và việc trực tiếp thực hiện tội phạm” [33,
tr.114].
Về mặt lý thuyết, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai
phạm trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả là tình hình tội
phạm.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực xã hội nói chung và tội phạm học học nói riêng, sự
phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện chỉ mang tính chất tương đối, thực tế đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm luôn đòi hỏi phải loại trừ cả hai, tức là phải loại trừ
cả nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm.
Như vậy, có thể hiểu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài
sản hay của hành vi phạm tội cướp giật tài sản chỉ là một và là chính bản thân sự tác
động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài với các yếu tố
tâm – sinh lý tiêu cực bên trong con người mà trong những tình huống, hoàn cảnh
nhất định đã dẫn đến việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình
sự qui định là tội cướp giật tài sản.
Trên cơ sở này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cướp giật tài sản
Tội phạm học với tư cách là một ngành khoa học chuyên nghiên cứu về tội
phạm và người phạm tội cùng với những nguyên nhân và điều kiện của nó để đề ra
biện pháp đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Do đó, việc nghiên cứu một cách sâu

9


sắc, toàn diện nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản sẽ mang
lại nhiều ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tế.
1.1.2.1. Ý nghĩa lý luận của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội cướp giật tài sản
Một là, việc nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
cướp giật tài sản góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm. Việc nghiên cứu tổng quát về nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội cướp giật tài sản nói chung và nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình nói riêng sẽ góp phần làm rõ
thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội cướp giật tài sản và xu hướng của tình
hình tội phạm trong thời gian tới.
Hai là, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài
sản góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho các ngành khoa học pháp lý
khác sử dụng làm tài liệu để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, xem xét đối tượng của
mình, đồng thời là cơ sở áp dụng các biện pháp hữu hiệu trong thực tế đấu tranh
phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản.
Ba là, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp
giật tài sản còn nhằm làm rõ, phát hiện các sơ hở, thiếu sót trên các lĩnh vực với nhà
nước là chủ thể quản lý để kịp thời khắc phục, bổ sung, chỉnh lý nhằm ngăn chặn và
đưa ra các giải pháp phòng ngừa tối ưu với tình hình tội cướp giật tài sản.
1.1.2.2. Ý nghĩa thực tế của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội cướp giật tài sản
Một là, trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội
cướp giật tài sản để các chủ thể phòng chống tội phạm tiến hành soạn thảo, đề xuất
các giải pháp nhằm tác động để làm mất đi nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội
cướp giật tài sản, như các giải pháp về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Hai là, trong hoạt động phòng chống tội cướp giật tài sản, thì những kết quả
nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản giúp
chúng ta có cơ sở áp dụng biện pháp phòng ngừa thích hợp đối với từng lĩnh vực,

10



từng địa bàn, đối với từng loại người nhất định được tiến hành trên cơ sở nghiên
cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản nói chung.
Ba là, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản sẽ
góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho khoa học quản lý, giáo dục người
phạm tội trở thành người hữu ích cho xã hội.
1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài
sản
Tội cướp giật tài sản phát sinh không phải do một nguyên nhân và điều kiện
gây ra mà là kết quả tác động của hàng loạt các nguyên nhân và điều kiện khác
nhau. Trong tội phạm học, các nhà khoa học có các cách phân loại như sau:
1.2.1. Căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động, có thể chia thành
- Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung (Nguyên nhân
và điều kiện của toàn bộ tình hình tội phạm trên địa bàn quận Tân Bình).
Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung thể
hiện mức độ khái quát cao nhất.
Tội cướp giật tài sản là một tội phạm cụ thể trong tổng số các tội phạm xảy ra
trên địa bàn quận Tân Bình nên nó cũng xuất phát từ một số nguyên nhân chung
làm phát sinh tình hình tội phạm trên địa bàn quận Tân Bình.
Những nguyên nhân như: Ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường sống, những tồn
tại, hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý nhà nước, do hiểu biết pháp luật và ý
thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế, hoạt động đấu tranh phòng
chống tội phạm có lúc, có nơi chưa phát huy hiệu quả... là những nguyên nhân và
điều kiện mà hầu hết các loại tội phạm phát sinh trong xã hội đều phát sinh từ đó.
- Nguyên nhân và điều kiện của loại tội phạm (Nguyên nhân và điều kiện của
nhóm tội, loại tội)
Theo Bộ luật hình sự năm 1999, tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân
Bình thuộc nhóm tội xâm phạm sở hửu. Do đó, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cướp giật tài sản cũng xuất phát từ nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội
xâm phạm sở hữu. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp các nguyên nhân và


11


điều kiện của từng hành vi phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình sẽ
rút ra được các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn quận Tân Bình.
- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể
Đây là mức độ nghiên cứu có phạm vi hẹp nhất, nghiên cứu từng hành vi
phạm tội cụ thể. Theo triết học biện chứng, muốn nhận thức được cái chung
(nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân
Bình) cần phải dựa trên cơ sở cái riêng, cái đơn nhất (từng hành vi phạm tội cướp
giật tài sản trên địa bàn quận Tân Bình).
1.2.2. Căn cứ vào nội dung của sự tác động, có thể chia thành
- Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội: Những mâu thuẫn
bất hợp lý trong đời sống xã hội; những bất cập, hạn chế, tiêu cực trong nền kinh tế,
những bất cập, hạn chế, tiêu cực trong nền văn hoá; những bất cập, hạn chế, tiêu cực
trong quản lý xã hội.
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ môi trường giáo dục: Môi trường
giáo dục có những bất cập, hạn chế trong các khâu về nội dung, phương pháp giảng
dạy và còn tồn tại nhiều nhân tố không lành mạnh.
- Nguyện nhân và điều kiện xuất phát từ môi trường gia đình: Do sự thiếu
quan tâm, giáo dục của gia đình, ảnh hưởng của thói hư tật xấu của các thành viên
trong gia đình.
- Nguyên nhân và điều kiện thuộc về tâm - sinh lý của cá nhân: Là tổng hợp
những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh
hưởng đến việc làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân
Bình. Những nhân tố tiêu cực này có thể là dấu hiệu thuộc về sinh học, tâm lý, xã
hội - nghề nghiệp của người phạm tội. Cá nhân có những đặc điểm nhân thân xấu
thì khi trong môi trường sống có hiện tượng tiêu cực và gặp tình huống tiêu cực
thuận lợi sẽ thúc đẩy cá nhân đó thực hiện hành vi phạm tội.

1.2.3. Theo bản chất, các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm có thể chia thành

12


- Nguyên nhân và điều kiện chủ quan: là những nguyên nhân và điều kiện
xuất phát từ những hạn chế, yếu kém trong hoạt động phòng, chống tội phạm (hạn
chế trong quy định của pháp luật, hạn chế trong hoạt động của các chủ thể phòng,
chống tội phạm).
- Nguyên nhân và điều kiện khách quan: là những nguyên nhân và điều kiện
tồn tại trong xã hội không phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước và cũng không phải do
Nhà nước gây ra (ảnh hưởng của khí hậu, thiên tai, ảnh hưởng của địa lý, dân cư,
ảnh hưởng của di hại chế độ cũ).
1.2.4. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài
sản trên cơ sở của cơ chế tác động
Như đã trình bày ở trên, có nhiều cách để phân loại nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội cướp giật tài sản nhưng mô hình phân loại trên cơ sở của cơ
chế tác động sở dĩ sẽ được trình bày chi tiết sau đây là vì nó được chọn làm cơ sở lý
luận cho việc nghiên cứu thực tế ở chương sau.
Nghiên cứu các công trình đã công bố về cơ chế hành vi phạm tội [15, 21,
33] cho phép chúng ta rút ra những kết luận sau:
- Một là, cơ chế hành vi có hai quá trình: Quá trình một là quá trình tương tác
nhập tâm. Quá trình hai là quá trình tương tác xuất tâm. Hai quá trình này phụ thuộc
lẫn nhau, phản ánh lẫn nhau;
- Hai là, quá trình tương tác nhập tâm là quá trình con người chuyển từ phía
môi trường sống vào bản thân mình những quy luật bản chất của thế giới để tạo
thành tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh thế giới. Quá
trình tương tác nhập tâm diễn ra trong đẩu óc con người, kéo dài từ khi sinh ra cho
đến khí có động cơ tư tưởng (động cơ hóa hành vi) và được bộc lộ ra bên ngoài

thông qua quá trình tương tác xuất tâm.
- Ba là, quá trình tương tác xuất tâm là quá trình bộc lộ tâm lý, ý thức, đặc
biệt là ý thức pháp luật ra bên ngoài thông qua hoạt động kế hoạch hóa và hiện thực
hóa hành vi. Nói cách khác, quá trình tương tác xuất tâm không chỉ có biểu hiện là
hành vi cụ thể nào đó, mà còn phản ánh quá trình tương tác nhập tâm.

13


Trên cơ sở lý luận về hai quá trình như vậy, việc phân loại nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản đã được thực hiện.
1.2.4.1. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác nhập tâm
Quá trình này kéo dài từ khi sinh ra cho tới khi chủ thể hành vi có được động
lực thực hiện hành vi phạm tội, tức là đến bước “động cơ hóa hành vi” trong mô
hình cơ chế hành vi phạm tội. Quá trình này chỉ diễn ra trong đầu óc con người,
được gọi là “Quá trình tương tác nhập tâm”. Chính những yếu tố tiêu cực thuộc quá
trình này đã tạo cho chủ thể hành vi một nhân thân xấu dần và “đột phá” khi xác
định cho mình động lực để phạm tội - động cơ tư tưởng.
a) Những nguyên nhân và điều kiện khách quan
Khác với những nguyên nhân, điều kiện khác, nguyên nhân và điều kiện
khách quan tồn tại trước khi đối tượng có động cơ tư tưởng phạm tội. Những
nguyên nhân, điều kiện này tác động lên đối tượng trong một khoảng thời gian dài
khi người đó tham gia vào một môi trường hoạt động và giao tiếp không thuận lợi
dẫn đến việc hình thành những nhu cầu lợi ích không phù hợp với các chuẩn mực
xã hội. Để thỏa mãn nhu cầu, lợi ích thì đối tượng thường phạm pháp mà người đó
dự định sẽ làm khi có điều kiện thích hợp. Tuy nhiên, các yếu tố tác động từ bên
ngoài không được xem là nguyên nhân của tội cướp giật tài sản mà chỉ là điều kiện
bởi vì không phải ai rơi vào môi trường không thuận lợi cũng đều phạm tội.
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình
Gia đình có vai trò quyết định nhân cách gốc của con người cho nên con

người trở thành người tốt hay trở thành tội phạm có nguyên nhân từ gia đình. Con
người sinh ra không bẩm sinh là người có xu hướng phạm tội mà yếu tố dẫn đến
việc phạm tội của con người khởi nguồn là sự thiếu sót trong quá trình phát triển
nhân cách, mà sự thiếu sót này chủ yếu do gia đình gây ra. Như vậy để phòng ngừa
cũng như đấu tranh chống tội phạm cướp giật tài sản, gia đình có vai trò rất quan
trọng.
Thứ nhất, do thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia đình. Nhiều bậc cha mẹ và
những người thân trong gia đình thiếu sự quan tâm cho nhau chỉ biết kiếm tiền lo

14


cho gia đình mà quên mất việc dành thời gian để giáo dục, quan tâm và tìm hiểu
tâm tư nguyện vọng của con em mình. Từ đó đã không kịp thời uốn nắn được hành
vi sai trái của con em, vô tình làm cho con em mình cảm thấy buồn chán, chây lười
học tập, chỉ thích tụ tập bạn bè chơi bời, quậy phá, mất định hướng trong cuộc sống,
sớm nhiễm những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và bước vào con đường phạm tội.
Thứ hai, do ảnh hưởng bởi các thói hư tật xấu của những người trong gia
đình. Người phạm tội cướp giật tài sản chịu ảnh hưởng nhiều của những hành vi
xấu, đặc biệt là những hành vi sử dụng bạo lực, xem trọng giá trị vật chất, không
gương mẫu về đạo đức, vi phạm pháp luật. Các hành vi tiêu cực này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình hình thành nhân cách của con người.
Thứ ba, do không định hướng đúng đắn về việc làm hoặc không tạo điều
kiện tốt để con em có việc làm ổn định. Nếu như con em trong gia đình bỏ học hoặc
gia đình không có điều kiện cho học tiếp thì gia đình nên cho đi học nghề hoặc tạo
việc làm ổn định thì sẽ ít có cơ hội để tụ tập bạn bè và tham gia vào các cuộc nhậu
nhẹt, ăn chơi...từ đó sẽ dẫn tới hành vi phạm tội, trong đó có tội cướp giật tài sản.
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường
Nhà trường không chỉ là nơi đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao
kiến thức tự nhiên và xã hội mà còn trau dồi hệ thống các quan điểm, nhân sinh

quan, phương pháp nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng. Nếu trong môi trường
trường học tồn tại nhiều nhân tố không lành mạnh thì những nhân tố này cũng có
thể ành hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách lệch lạc của cá
nhân. Những nhân tố không lành mạnh đó bao gồm:
Thứ nhất, kỷ luật nhà trường lỏng lẻo, không nghiêm, việc xử lý những biểu
hiện sai trái trong học sinh, sinh viên còn chưa triệt để dẫn đến những hiện tượng
tiêu cực trong nhà trường có nguy cơ lan rộng. Điều này có thể ảnh hưởng, dẫn đến
việc suy giảm, thậm chí mất niềm tin vào sự công bằng trong nhà trường của các em
làm cho một số em chán nản, sa sút học hành, dễ bị lôi kéo tham gia vào các hoạt
động tiêu cực, không lành mạnh.

15


Thứ hai, một số ít cán bộ, giáo viên trong nhà trường không gương mẫu
trong lối sống, thiếu đạo đức trong hành xử với học sinh, sinh viên, không là tấm
gương cho học sinh hoặc có nhược điểm trong công tác giảng dạy, không tạo cho
các em hứng thú học tập để thu nhận kiến thức.
Thứ ba, nhà trường là môi trường giáo dục về tri thức và rèn luyện đạo đức
cho con người. Tuy nhiên, hiện nay đa phần các trường mới chỉ làm được chức
năng là nơi cung cấp tri thức cho học sinh. Chính sự quá tải trong học tập đó đã
khiến cho nhiều học sinh học yếu hay trung bình dễ bi quan, chán nản, chây lười
học tập, kết quả học tập sút kém dẫn đến bỏ bê học tập hoặc bỏ học. Việc bỏ học
dẫn đến tình trạng học sinh có trình độ học vấn thấp, từ đó tạo xuất phát điểm cho
những hành vi phạm pháp trong đó có việc phạm tội cướp giật tài sản.
+ Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường xã hội vĩ mô với nhà nước là chủ
thể quản lý
Xã hội ta vận hành theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và Nhà nước cũng là
một chủ thể trong mối quan hệ pháp luật hình sự. Vì thế, Nhà nước phải chịu trách

nhiệm đối với vấn đề tội phạm trong xã hội. Nhưng điều đó không có nghĩa là, sự
xuất hiện tội phạm trong xã hội nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, đều là
do Nhà nước. Vì thế phải đánh giá cho công bằng, tức là phải có cái khách quan và
cái chủ quan. Và để bảo đảm tính toàn diện, tránh bỏ sót trong việc xác định hệ
thống những yếu tố làm phát sinh tội cướp giật tài sản, hệ thống những yếu tố này
cần được phân thành những yếu tố khách quan và những yếu tố chủ quan trên cơ sở
lấy Nhà nước làm trung tâm để phân biệt.
- Do tồn tại xã hội
Những yếu tố khách quan làm phát sinh tình hình tội phạm là yếu tố đang tồn
tại trong xã hội, không phụ thuộc vào ý chí nhà nước và cũng không phải do nhà
nước gây ra, còn những yếu tố chủ quan là yếu tố do bản thân nhà nước tạo ra trong
quá trình thực hiện chức năng quản lý làm tội phạm xuất hiện trong xã hội mặc dù
nhà nước không mong muốn. Nhà nước ở đây, trước hết, là những cơ quan, ban

16


ngành cụ thể mà trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đã tạo điều
kiện cho tội phạm phát sinh.
- Do hạn chế của Nhà nước trong các khâu quản lý trên các lĩnh vực
Những yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm là yếu tố do bản thân Nhà
nước trong quá trình thực hiện chức năng quản lý xã hội đã làm cho tội phạm xuất
hiện. Đó là những yếu kém, khiếm khuyết, thiếu trách nhiệm trong quá trình quản lý
xã hội của Nhà nước. Quản lý được hiểu là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
mang tính quyền lực nhà nước đối với mọi mặt kinh tế - xã hội, văn hóa, pháp luật,
quản lý xã hội... có thể nêu một số khâu cơ bản sau:
Thứ nhất, về kinh tế
Trong những năm gần đây, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, kinh tế
đất nước phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có những

tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, làm nảy sinh lối sống thực
dụng. Một số người có tâm lý muốn kiếm tiền bằng bất cứ giá nào đã bất chấp mọi
giá trị chuẩn mực đạo đức, pháp luật đã lao vào các hoạt động phạm tội. Một bộ
phận thanh thiếu niên lười lao động, thiếu tu dưỡng nhân cách đạo đức đã sa vào
nghiện ngập, để thỏa mãn cơn nghiện họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả phạm
những tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, về văn hóa
Đó là lối sống chỉ biết lợi ích cá nhân mình, xem nhẹ lợi ích của người khác.
Đối với những người có tâm lý chuẩn mực, xem trọng các giá trị đạo đức khi nhu
cầu vượt qua khả năng của họ, họ sẽ chọn cách thức giải quyết một cách hợp pháp
như cố gắng lao động để tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mình hay
chấp nhận hiện thực miễn sao không xâm phạm lợi ích của người khác. Ngược lại,
đối với những người có tâm lý tiêu cực, họ sẽ chọn cách thức giải quyết một cách
tiêu cực bằng phương thức phạm tội trong đó có tội cướp giật tài sản.
Thứ ba, về mặt quản lý xã hội

17


Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến về các hình thức, thủ đoạn của đối
tượng phạm tội cướp giật tài sản, về công tác phòng chống tội phạm trong các cấp,
các ngành và trong quần chúng còn chưa có chiều sâu nên vẫn còn một bộ phận
người dân chưa nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc phát hiện, tố giác
hành vi phạm tội của các đối tượng phạm tội nói chung và tội cướp giật tài sản nói
riêng.
Công tác quản lý cư trú còn nhiều hạn chế. Việc khai báo, đăng ký lưu trú
không được người dân tự giác thực hiện đang diễn ra rất phổ biến. Người quản lý cơ
sở lưu trú vì muốn có nhiều khách nên còn vi phạm trong việc đăng ký lưu trú cho
khách. Hiện tượng này các cơ quan chức năng biết nhưng thiếu trách nhiệm, tạo sơ
hở cho hành vi phạm tội.

Thứ tư, về dân sự
Trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp giật
tài sản nói riêng thì các cơ quan bảo vệ pháp luật giữ vai trò trọng yếu. Trong những
năm qua, hoạt động của các cơ quan này dù cố gắng nhiều, nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của thực tiễn, những mặt thiếu sót cần khắc phục vẫn
còn.
Tội cướp giật tài sản chưa được pháp luật xử lý kiên quyết, vì vậy tác dụng
giáo dục, răn đe phòng ngừa còn hạn chế. Việc thi hành các quy định của pháp luật
đã được ban hành nhất là việc áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự
còn nhiều bất cập, kém hiệu quả. Năng lực của cán bộ thực thi pháp luật chưa đủ
tầm trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm với những biến hóa
nhanh chóng về thủ đoạn phạm tội.
Trong điều tra và xử lý các tội phạm chưa đáp ứng được yêu cầu và chưa phù
hợp với tình hình thực tế, còn có một số vấn đề cần khắc phục như: chất lượng điều
tra chưa cao; nhiều vụ án kéo dài không xử lý kịp thời; việc điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án chưa nghiêm, thiếu nhất quán.
b) Những nguyên nhân và điều kiện chủ quan

18


Nguyên nhân, điều kiện chủ quan từ phía người phạm tội được hiểu là tất cả
những yếu tố thuộc về người phạm tội bao gồm những tiêu cực thuộc ý thức cá
nhân và những biểu hiện tiêu cực trong lối sống cá nhân.
Quá trình động cơ hoá hành vi phạm tội diễn ra trong suy nghĩ người phạm
tội, còn những động lực của hành vi như nhu cầu, sở thích, lợi ích, thói quen...lại là
những yếu tố không phải lúc nào cũng tồn tại trong con người, mà chúng thường do
môi trường bên ngoài quy định. Điều đó có nghĩa là, động cơ hoá hành vi là quá
trình tâm- sinh lý- xã hội. Quá trình này có cơ sở khách quan do điều kiện xã hội,
do hoàn cảnh sống cụ thể của mỗi con người mang lại [15].

Về nhu cầu của người phạm tội, các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản có
nhu cầu về vật chất để thỏa mãn mục đích vật chất mà cá nhân tự đặt ra thì rõ ràng
đây là nhu cầu thiết yếu và chính đáng của con người, nhu cầu này đã được quy
định trong Hiến pháp, Luật dân sự. Tuy nhiên, người phạm tội đã không làm chủ
được hành vi và tìm cách thỏa mãn nhu cầu bằng cách thức không chính đáng trong
đó bao gồm cả sai lệch về đối tượng để thỏa mãn nhu cầu. Người phạm tội thường
có nhận thức không đúng hoặc không đầy đủ về các giá trị đạo đức xã hội, giá trị
sức lao động của người khác. Họ đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, không muốn lao
động vất vả bằng sức lao động của mình mà chỉ muốn được hưởng thụ sung
sướng...Từ nhận thức, đặc điểm tâm lý và tư tưởng không đúng đắn này, kết hợp với
nhu cầu không chính đáng nên đã hình thành động cơ của hành vi phạm tội cướp
giật tài sản.
Thứ nhất, động cơ hóa hành vi phạm tội cướp giật tài sản chính là đoạn kết
của quá trình tương tác nhập tâm, cái chuẩn bị cho quá trình tương tác xuất tâm;
Thứ hai, động cơ hóa hành vi phạm tội cướp giật tài sản luôn hiện hữu trong
mọi trường họp, mọi vụ án cướp giật tài sản đã xảy ra. Bởi vì bản thân tên của tội
cướp giật tài sản đã khẳng định động lực thúc đẩy thực hiện hành vi là nhu cầu tài
sản, mục đích vụ lợi và vì lợi ích kinh tế;
Thứ ba, không phải cứ có nhu cầu về tài sản là đương nhiên thực hiện hành
vicướp giật tài sản. Bởi vì nhu cầu về tài sản, bản thân nó là nhu cầu chính đáng,

19


hơn nữa, nhu cầu cần thiết, chính đáng và phổ biến của con người, được xã hội thừa
nhận và pháp luật ghi nhận, lại chính là quyền con người [18], nên sai lệch có khả
năng dẫn đến các hành vi phạm tội cướp giật tài sản không thể nằm ở chính bản
thân nhu cầu này, mà là ở sự không phù hợp của nhu cầu với hoàn cảnh của chủ thể
hành vi. Vì thế, ở đây cần phải phân tích cụ thể động lực này của nguyên nhân và
điều kiện chủ quan, để tìm ra những sai lệch sau:

Một là, sai lệch về nhu cầu tài sản. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường
sống, những phẩm chất đạo đức, đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu
xã hội khác nhau. Một bộ phận dân cư có nhu cầu không phù hợp với hoàn cảnh
kinh tế, khả năng lao động, nhu cầu của bản thân vượt lên trước khả năng thu nhập
của bản thân, so sánh sự giàu nghèo giữa bản thân mình với người khác. Do có sự
đòi hỏi vật chất quá đáng đối với mình hoặc đối với gia đình mình, tức là nảy sinh
nhu cầu không phù hợp với hoàn cảnh dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội
cướp giật tài sản.
Hai là, sai lệch ở phương pháp thỏa mãn nhu cầu. Sự không phù hợp của nhu
cầu về tài sản với hoàn cảnh của chủ thể hành vi chỉ là tạm thời, vì hoàn cảnh cũng
luôn luôn thay đổi. Vì thế, sự không phù hợp này cũng không bắt buộc phải phạm
tội cướp giật tài sản. Vấn đề ở đây là chọn phương pháp thỏa mãn loại nhu cầu đã
được xem là không phù hợp đó. Khi nhu cầu đó được bộc lộ ra ngoài với người
khác, tức là xuất tâm, thì lại tùy thuộc hoàn cảnh, tình huống mà nhu cầu đó có
những thể hiện khác nhau.
1.2.4.2. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác xuất tâm
Quá trình kế tiếp là quá trình tương tác xuất tâm, gồm khâu kế hoạch hóa và
hiện thực hóa hành vi phạm tội.
Theo lý luận đã được các nhà khoa học khái quát, kế hoạch hóa hành vi là
bước chuẩn bị cho việc thực hiện hành vi. Chủ thể xác định mục đích trực tiếp, đối
tượng tác động, phương tiện, địa điểm, thời gian thực hiện và xác định cả phương
thức giải quyết hậu quả mà mình gây ra. Ở bước này, chủ thể chuẩn bị cả điều kiện
vật chất và điều kiện tinh thần cho việc thực hiện hành vi. Còn hiện thực hóa hành

20


×