Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG SƠN

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN LÊ CHÂN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG SƠN

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN LÊ CHÂN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.

TÊN TÁC GIẢ

Nguyễn Hồng Sơn


MỤC LỤC
Mở đầu .......................................................................................................................1
Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án về
ma túy .........................................................................................................................6
1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy ..........................6
1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy ...................................................................... 31
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên
địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ..................................................... 35
2.1. Khái quát tình hình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma túy trên địa bàn
quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong 5 năm từ năm 2012 đến năm 2016 ...... 35
2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy của
Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ................................ 44

2.3. Đánh giá kết quả đạt được trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma
túy của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng .................... 49
2.4. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng 50
Chương 3: Giải pháp tăng cường kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực
tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ........................................................... 59
3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy
từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng .................................................... 59
3.2. Một số giải pháp góp phần tăng cường kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ
thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ........................................................ 62
Kết luận ................................................................................................................... 74
Tài liệu tham khảo ................................................................................................. 75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLHS ........................... Bộ luật hình sự
2. BLTTHS ...................... Bộ luật tố tụng hình sự
3. CQĐT .......................... Cơ quan điều tra
4. KSĐT .......................... Kiểm sát điều tra
5. THQCT ........................ Thực hành quyền công tố
6. VKSND ....................... Viện kiểm sát nhân dân
7. VKS............................ Viện kiểm sát
8. ĐTV........................... .Điều tra viên
9. KSV............................ Kiểm sát viên
10. TNHS ...................... Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê kết quả tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm về

ma túy trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong 5 năm (2012 – 2016) 37
Bảng 2.2. Thống kê số vụ án, số bị can phạm tội về ma túy bị khởi tố điều
tra trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong 5 năm (2012 – 2016) ....... 38
Bảng 2.3. Thống kê các loại tội phạm về ma túy bị khởi tố điều tra trên địa
bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 1016) ............................................................. 39
Bảng 2.4. Số vụ và số bị can phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016) .................... 39
Bảng 2.5. Đặc điểm nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn quận
Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016)…………… ......................................................... 40
Bảng 2.6. Tổng số vụ án, số bị can phạm tội về ma túy bị khởi tố điều tra
trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong 5 năm (2012 – 2016) ..................................... 42
Bảng 2.7. Tình hình khởi tố, điều tra tội phạm trên địa bàn quận Lê Chân
trong 5 năm (2012 – 2016) ............................................................................................ 42
Bảng 2.8. Số liệu truy tố, xét xử các vụ án ma túy trên địa bàn quận Lê
Chân ............................................................................................................................. 43
Bảng 2.9. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị
can phạm tội về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016) .......... 45
Bảng 2.10. Thống kê số vụ án, số bị can phạm tội về ma túy tạm đình chỉ,
đình chỉ điều tra trên địa bàn quận Lê Chân trong 5 năm (2012 – 2016) ..................... 47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc chiến phòng, chống tội phạm ma túy được xác định ngày càng quyết liệt,
phức tạp, đòi hỏi sự vào cuộc của cả cộng đồng, xã hội không chỉ đối với nước ta
mà còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã và đang trên đường
hội nhập và phát triển bền vững, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mặt trái của quá trình phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế kéo theo những hoạt động phức tạp của các loại tội phạm nói chung và tội
phạm về ma túy nói riêng. Tội phạm về ma túy ở Việt Nam thời gian qua tiếp tục

diễn biến phức tạp với tính chất và mức độ ngày càng nguy hiểm, chủ yếu vẫn là
các tội mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy như heroine, ma túy
tổng hợp ATS, ketamine, methamphetamine; bên cạnh đó cũng xuất hiện một số
loại ma túy mới như “cỏ Mỹ”, “trà sữa”, “kẹo”, “nước vui”… đây thực chất là các
loại ma túy tổng hợp có nguồn gốc từ Trung Quốc gây tác hại và ảnh hưởng rất lớn
đối với người dùng, gây ra hậu quả ngày càng nguy hiểm cho xã hội, đặt ra nhiều
thách thức đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Lợi nhuận do ma túy đem lại là rất
cao, nên tội phạm ma túy diễn biến trên địa bàn rộng lớn, có nhiều trường hợp là
xuyên quốc gia. “Phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm ma túy rất tinh vi,
đường dây mua bán thường không bộc lộ danh tính mà hoạt động chủ yếu thông
qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như điện thoại di động, bộ đàm,
internet… để chỉ đạo từ xa, tìm nguồn hàng và thuê các đối tượng khác vận chuyển
bằng các phương tiện như taxi, thuê xe tự lái, xe khách…” [35, tr. 15]. Vì vậy, nhu
cầu nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy là rất
cần thiết.
Trong bối cảnh tình hình tội phạm ma túy diễn biến ngày càng phức tạp,
Thành ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) quận Lê Chân
đã phối hợp đồng bộ với các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác phòng, chống ma
túy và phát động toàn dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma

1


túy. Chính vì vậy có thể nói, hoạt động phòng, chống tội phạm nói chung và tội
phạm ma túy nói riêng trên địa bàn quận đã đạt được những thành tích đáng khích
lệ. Tuy nhiên, trước diễn biến ngày càng phức tạp và khó kiểm soát của tình hình tội
phạm và trước nhu cầu đổi mới hoạt động tư pháp hình sự, công tác thực hành
quyền công tố (THQCT) và KSĐT các vụ án hình sự nói chung và điều tra các vụ
án về ma túy nói riêng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Thực tiễn cho
thấy trong một số hoạt động đấu tranh phòng ngừa đôi lúc còn mang tính bột phát,

phong trào nên hiệu quả không lâu dài, chưa góp phần làm giảm đáng kể về tội
phạm, nhất là tội phạm về ma túy. Những tồn tại, hạn chế đó có nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Trong đó có nguyên nhân là sự nhận thức và quán triệt về
vai trò, vị trí công tác THQCT và KSĐT chưa được toàn diện, đầy đủ; hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) khi thực hiện chức năng nhiệm vụ
được giao vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu của đấu
tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp.
Vì những lý do như trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra các vụ án
về ma túy từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” làm luận văn Thạc
sĩ Luật học của mình, trên cơ sở vận dụng các kiến thức lý luận và pháp luật thực
định để giải quyết những vấn đề thực tiễn nhằm đánh giá những hạn chế, vướng
mắc để đưa ra các kiến nghị trong kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy ở
nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây một số trường đại học trong nước cũng đã có một vài công trình
nghiên cứu ở bậc thạc sĩ về các đề tài liên quan đến tổ chức, hoạt động của VKSND
trong TTHS như đề tài về: Thực hành quyền công tố của VKSND; Chức năng pháp
lý của VKSND trong TTHS; Mỗi quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong TTHS;
Chức năng của VKSND trong giai đoạn xét xử… Đồng thời cũng có nhiều bài viết
về chức năng KSĐT của VKSND trong các vụ án hình sự nói chung và trong các vụ
án ma túy nói riêng được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí kiểm sát;
Tạp chí pháp luật; Tạp chí tòa án của một số tác giả. Cụ thể như: Sổ tay Kiểm sát

2


viên hình sự của Viện khoa học Hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kỹ năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự,
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
của TS. Lê Hữu Thể, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quan

hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự của TS. Phạm
Mạnh Hùng, Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần làm tốt việc tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điểu tra của TS.
Trần Công Phàn,…
Tại Học viện Khoa học xã hội cũng có một vài Luận văn cao học nghiên cứu
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy như Luận văn cao học “Phòng,
chống tội phạm ma túy trên địa bàn thị xã Lai Châu, tỉnh Lai Châu” của Thạc sĩ Vũ
Hoài Thanh năm 2013; Luận văn cao học “Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma
túy trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của Thạc sĩ Nguyễn Minh
Tuân năm 2013; Luận văn cao học “Đấu tranh phòng, chống tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Hương năm 2013. Tuy nhiên đều dừng lại
ở mức độ khái quát chung và chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào công tác phòng,
chống đối với tội phạm ma túy mà chưa có sự đánh giá nghiên cứu về hoạt động
KSĐT đối với loại tội phạm này. Mặt khác các đề tài nghiên cứu tình hình tội phạm
ma túy tại các địa phương khác chứ không phải tại quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng với những đặc thù riêng biệt. Đề tài: “Kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy
từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” là một nghiên cứu chuyên sâu
ở bậc cao học về một công tác kiểm sát cụ thể trong điều kiện địa lý, điều kiện kinh
tế xã hội của quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vẫn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều tra các
vụ án về ma túy, thực tiễn kiểm sát điều tra các tội phạm đó trên địa bàn quận Lê

3


Chân, thành phố Hải Phòng, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm
sát điều tra các vụ án về ma túy.

- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động KSĐT của VKSND
trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy nói riêng.
- Khái quát, phân tích thực trạng, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về
những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động KSĐT của
VKSND quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng trong điều tra các vụ án về ma túy ở
giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
- Dự báo tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong thời gian
tới và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát của
VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vào những vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận về thi hành pháp luật và thì hành pháp luật trong hoạt
động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy.
+ Thực tiễn thi hành pháp luật trong kiểm sát điều tra đối với hoạt động của cơ
quan điều tra.
+ Nguyễn nhân phát sinh những tồn tại, hạn chế trong thi hành pháp luật của
quá trình kiểm sát điều tra của của cơ quan điều tra.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma
túy theo quy định tại BLHS, xảy ra trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên cơ sở lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của

4



Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và kiểm sát
hoạt động điều tra tội phạm nói riêng.
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh hệ
thống hóa; trực tiếp khảo sát trao đổi nghiệp vụ với đội ngũ KSV tại đơn vị VKSND
quận Lê Chân và một số đơn vị VKSND quận, huyện khác trên địa bàn thành phố
Hải Phòng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở khảo sát thực tế đề tài đã đánh giá, phân tích thực trạng kiểm sát
hoạt động điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn quận Lê Chân trong thời gian từ
năm 2012 đến năm 2016, những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân của tình hình,
kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hoạt động kiểm sát trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và điều tra các vụ án về ma túy nói riêng.
Với hy vọng rằng đây sẽ là tài liệu tương đối đầy đủ và hữu ích cho sinh viên tham
khảo khi nghiên cứu tìm hiểu về chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát và phục
vụ cho cán bộ, KSV ngành Kiểm sát nghiên cứu, học tập, vận dụng trong hoạt động
thực tiễn của mình.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án về
ma túy.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa
bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Giải pháp tăng cường kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy từ thực
tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

5



Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy
1.1.1. Khái niệm về ma túy và các tội phạm về ma túy
Hiện nay chưa có một định nghĩa mang tính bao quát chung thế nào là ma túy.
Một số người xem ma túy là các độc dược được quy định trong dược điển, khi xâm
nhập vào cơ thể sẽ gây ra những phản ứng làm thay đổi một số chức năng trao đổi
chất, gây những tổn thất lên hệ thần kinh gây nên những dấu ấn trong các trung tâm
thần kinh của bán cầu đại não và tạo ra trong tâm lý con người một thói quen một
nỗi khát khao, đam mê khó có thể từ bỏ được. Một số khác gọi ma túy là các chất
“hướng thần” có tác dụng đặc hiệu lên hệ thần kinh gây nên những trạng thái tâm lý
không bình thường, làm mất đi một số chức năng cơ bản vốn có của cơ thể, tạo
thành những ảo giác, cảm giác mới lạ.
Theo từ điển tiếng Việt của NXB Đà Nẵng Trung tâm từ điển tin học năm
1996 thì “Ma tuý là tên gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ
đẫn, dùng quen thành nghiện” [37, tr. 583]. Những chất gây nghiện có thể được
chiết xuất từ cây thực vật như cây Anh Túc (cây thuốc phiện), cây Côca, cây khác…
và những chất gây nghiện kích thích thần kinh khác như Amphetamine, LSD được
sản xuất từ các tiền chất, hoá chất. Những chất kích thích thần kinh đó, trong thuật
ngữ tiếng Việt ta có thể gọi là chất ma tuý hướng thần.
Theo Liên Hợp Quốc (UN) thì “Ma tuý là chất hoá học có nguồn gốc tự nhiên
hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm
trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc vào các chất đó, gây
nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng. Do vậy, việc sản xuất, vận
chuyển, buôn bán, sử dụng các chất đó phải được quy định chặt chẽ trong các văn
bản pháp luật và chịu sự kiểm soát của cơ quan bảo vệ pháp luật”.

6



Theo BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 thì ma túy bao
gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, côcain, các chất ma túy khác ở thể
lỏng, thể rắn [28, tr. 179, 180].
“Ở nước ta, việc xác định chất ma túy, các chất hướng thần và các tiền chất ma
túy và hướng thần được dựa trên cơ sở tham khảo các bảng quy định về các chất ma
túy và các chất hướng thần của 3 Công ước của Liên Hợp Quốc về kiểm soát ma
túy” [38, tr. 191, 192], cụ thể đó là Công ước thống nhất về các chất ma túy năm
1961, Công ước về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước về chống buôn bán
bất hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988. Việt Nam
chính thức tham gia cả 3 Công ước quốc tế về kiểm soát ma túy và ban hành Luật
phòng, chống ma túy năm 2000. Đây là một bước tiến bộ rõ nét trong pháp luật Việt
Nam về phòng, chống ma túy nói chung và khái niệm “chất ma túy” nói riêng. Lần
đầu tiên khái niệm “chất ma túy” và các khái niệm liên quan như “tiền chất”, “chất
gây nghiện”, “chất hướng thần”, “thuốc gây nghiện” và “thuốc hướng thần” được
chính thức định nghĩa.
Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống ma túy quy định:
“1. Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành.
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu
sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
4. Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản
xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành.
5. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy
định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại khoản
2 và khoản 3 Điều này.
6. Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca,
cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý do Chính phủ quy định.” [32]


7


“Như vậy việc đưa ra định nghĩa về ma túy hay chất ma túy chỉ có ý nghĩa
trong việc nghiên cứu khoa học về chất ma túy chứ không có ý nghĩa đối với việc
xác định chất ma túy” [23, tr. 15]. Việc xác định có phải là chất ma túy hay không,
hoặc là chất ma túy gì thì phải trưng cầu giám định.
Từ những quy định của Liên Hợp Quốc và pháp luật Việt Nam, có thể đưa ra
khái niệm: “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp đã được xác
định và có tên gọi khoa học riêng được quy định trong các văn bản pháp luật, khi
được đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và
sinh lý của người đó. Nếu con người lạm dụng ma túy sẽ lệ thuộc vào nó cả về thể
chất và tinh thần”.
Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy là loại chất gây nghiện
nguy hiểm với những quy định rất nghiêm ngặt. Vi phạm các quy định về chế độ
quản lý các chất ma túy không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của
Nhà nước mà còn góp phần tạo ra lớp người nghiện mới, qua đó đe dọa nghiêm
trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi
giống cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do tác hại lâu
dài và nhiều mặt của các vi phạm các quy định về chế độ quản lý chất ma túy như
vậy nên mọi hành vi vi phạm, ở bất kì khâu nào của quá trình quản lý chất ma túy
đều bị quy định là tội phạm.
“Các tội phạm về ma túy được Nhà nước ta quy định từ rất sớm, nhưng trong
từng giai đoạn, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể mà Nhà nước ban hành
những văn bản thích hợp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này” [23, tr. 11]. BLHS năm 1999 quy các tội phạm về ma túy tại Chương
XVIII bao gồm 10 điều luật quy định về 10 tội danh khác nhau. Sau khi được sửa
đổi, bổ sung năm 2009 đã bãi bỏ Điều 199 về “Tội sử dụng trái phép chất ma túy”,
còn lại 9 điều luật quy định 9 tội danh khác nhau được quy định tại Chương XVIII,

cụ thể:
- Điều 192: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy.
- Điều 193: Tội sản xuất trái phép chất ma túy.

8


- Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất
ma túy,
- Điều 195: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
- Điều 196: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng
cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
- Điều 197: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
- Điều 198: Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
- Điều 199: Đã bị bãi bỏ.
- Điều 200: Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
- Điều 201: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc
các chất ma túy khác.
Về khái niệm tội phạm theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 khẳng định:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp vủa tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [28].
Trên cơ sở khái niệm tội phạm được quy định trong BLHS và khái niệm về ma
túy như đã phân tích ở trên, có thể định nghĩa các tội phạm về ma túy như sau:
“Các tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại

chương “các tội phạm về ma túy” trong Bộ luật hình sự, do người có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền
các chất ma túy của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế, trật tự xã hội, đạo đức, sức khỏe của con người”.

9


1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy
Theo Hiến pháp năm 1959 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc
Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà
nước và công dân” [24]. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
Tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ
quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [26] và Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp” [27]. Như vậy, kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai
chức năng hiến định của VKS.
Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “VKSND là cơ quan thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [34].
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá tình tố tụng
hình sự như CQĐT, VKSND, Tòa án nhân dân (TAND) và Cơ quan thi hành án
nhằm giải quyết các vụ án hình sự, các vụ tranh chấp một cách có căn cứ, đúng
pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân. Qua đó có thể thấy, “hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong việc thực thi quyền lực Nhà nước trong TTHS” [36, tr. 82]. VKSND
thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau

gắn liền với các lĩnh vực khác nhau trong đó bao gồm kiểm sát các hoạt động của
các cơ quan tiến hành TTHS. Một trong những khâu công tác đó là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT và các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra – Kiểm sát điều tra.
Kiểm sát điều tra bắt đầu từ giai đoạn phát hiện tội phạm đến khi VKS “Quyết
định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án” [30]. Mục
đích của kiểm sát hoạt động điều tra là bảo đảm cho các hoạt động điều tra phải

10


chấp hành đúng các trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn đã được pháp luật quy
định. Do vậy, khái niệm kiểm sát các hoạt động điều tra được hiểu là: Hoạt động
của VKSND trong việc bảo đảm cho các hoạt động điều tra của CQĐT được thực
hiện theo quy định pháp luật.
Hiến pháp năm 1959 quy định VKSND chỉ có chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, đến Hiến pháp năm 1992 quy định VKSND ngoài chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật còn có chức năng THQCT và đến Hiến pháp năm 2013
chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp được quy định gắn kết chặt chẽ
với nhau. Hoạt động KSĐT và hoạt động THQCT của VKSND có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, có tác dụng hỗ trợ cho nhau. Mối quan hệ
này song song tồn tại từ khi phát hiện có sự kiện phạm tội xảy ra cho đến khi kết
thúc việc điều tra, CQĐT đề nghị truy tố hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra,
VKSND ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc ra quyết định truy tố bị can ra trước
TAND. Tức là khi làm tốt công tác kiểm sát hoạt động điều tra thì cơ sở để THQCT
sẽ vững chắc và bảo đảm đúng đắn, có căn cứ pháp luật. Nếu không làm tốt công
tác này, thì việc THQCT sẽ khó khăn, thiếu tính thuyết phục, thậm chí còn dẫn đến
thiếu sót, sai lầm. Ngược lại nếu làm tốt công tác THQCT thì đó là cơ sở, căn cứ
vững chắc để kiểm sát chặt chẽ được quá trình tiến hành hoạt động điều tra của
CQĐT, Điều tra viên (ĐTV). Như vậy, xét về mặt bản chất, để VKSND thực hiện

chức năng như luật định, thì cả hai hoạt động này đều phải song hành với nhau, hỗ
trợ cho nhau và không thể tách rời. Như vậy, cả hoạt động THQCT và hoạt động
KSĐT các vụ án hình sự nói chung và vụ án ma túy nói riêng có chung một mục
đích là nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện, làm rõ và được
xử lý kịp thời, đúng pháp luật đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan
người không có tội.
Điều 113 BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hiện
KSĐT như sau:

11


“Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ
án của Cơ quan điều tra;
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;
3. Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;
4. Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động
điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật
của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra
viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
5. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa
tội phạm và vi phạm pháp luật.” [30, tr. 73, 74].
Như vậy, kiểm sát hoạt động điều tra các vụ về ma túy là: “Hoạt động do
VKSND thực hiện nhằm kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT xuyên suốt quá
trình điều tra các vụ án về ma túy để bảo đảm cho các hoạt động điều tra được tuân
thủ theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn theo quy định của phát luật
TTHS”.

1.1.3. Đặc điểm hoạt động KSĐT của VKS đối với các vụ án về ma túy
Chức năng, nhiệm vụ của VKSND theo quy định của pháp luật về hoạt động
THQCT và KSĐT các vụ án hình sự nói chung như:
- KSĐT là hoạt động kiểm sát các hoạt động điều tra của CQĐT từ thời điểm
tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố điều tra và kết thúc khi vụ án được
kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố. Hoạt động này của VKSND được
tiến hành công khai theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS và các văn bản hướng
dẫn thực hiện BLTTHS.
- Chủ thể thực hiện kiểm sát hoạt động điều tra chỉ có thể là KSV và Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKSND có thẩm quyền và có sự phối hợp các chủ thể
khác có liên quan theo quy định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND.

12


- Quá trình kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy, KSV chỉ được áp
dụng các biện pháp và phương tiện theo quy định của pháp luật và theo chức năng,
quyền hạn của ngành Kiểm sát nhân dân và của KSV trong giai đoạn điều tra vụ án.
Các vụ án về ma túy nói riêng, theo quan điểm của tác giả, kiểm sát hoạt động
điểu tra của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy có một số đặc
điểm nổi bật như sau:
- KSĐT các vụ án về ma túy luôn gắn liền với quan điểm, đường lối chỉ đạo
của Đảng về phòng, chống tội phạm về ma túy: Quan điểm đấu tranh kiên quyết,
không khoan nhượng đối với tội phạm về ma túy của Đảng thể hiện bằng chỉ đạo cụ
thể xuyên suốt và thống nhất qua các thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước. Cụ
thể bằng các chỉ thị như Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 30/11/1996 về tăng cường chỉ
đạo công tác kiểm soát và phòng, chống ma túy đã nêu rõ: “Các cấp Ủy đảng phải
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy,
phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng
sử dụng ma túy trong nhân dân” [5]; Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 về tiếp

tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong
tình hình mới [6]… Trên nền tảng đó, VKSND Tối cao đã chỉ đạo công tác kiểm sát
phòng, chống ma túy bằng các văn bản như: Chỉ thị số 04/CT-TV ngày 14/6/1997
về công tác kiểm sát phục vụ Chỉ thị số 06 của Bộ Chính trị về phòng, chống và
kiểm soát ma túy đã đề ra yêu cầu: “Tổ chức quán triệt sâu sắc nội dung Chỉ thị số
06/CT-TW ngày 30/11/1996 của Bộ Chính trị cho các Kiểm sát viên và cán bộ
ngành Kiểm sát, để có nhận thức đúng đắn về tác hại nghiêm trọng do nạn ma túy
gây ra trên nhiều mặt đời sống xã hội. Đồng thời nêu cao trách nhiệm của ngành
trong việc thực hiện chức năng kiểm sát phòng, chống và kiểm soát ma túy, coi đó
là nhiệm vụ cấp bách và cùng là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên và lâu dài của
Viện kiểm sát các cấp” [41]; Kế hoạch số 46/KH-VKSTC-V1C về triển khai thực
hiện Chỉ thị số 21 của Bộ Chính trị… Mặt khác hoạt KSĐT tội phạm ma túy còn
luôn bám sát chỉ đạo của cấp Ủy địa phương những vẫn luôn đảm bảo độc lập trong
quyết định xử lý.

13


- Chủ thể của công tác KSĐT các vụ án về ma túy phải tuân thủ nghiêm ngặt
quy định của pháp luật, do tính chất đặc thù của tội phạm về ma túy mà còn đòi hỏi
công tác KSĐT phải đảm bảo bí mật và phối hợp tạo điều kiện cho CQĐT hoàn
thành nhiệm vụ điều tra: Tội phạm về ma túy rất tinh vi, xảo quyệt, chính vì đặc
điểm này mà việc điều tra, khám phá của CQĐT là rất khó khăn. Vì vậy, khi tiến
hành hoạt động KSĐT tội phạm về ma túy ngoài việc phải tuân thủ nghiêm ngặt
quy định của pháp luật thì VKS lại cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện
để CQĐT cùng hoàn thành nhiệm vụ, tuyệt đối giữ bí mật thông tin vụ án, tránh để
lộ thông tin về bị can, về đối tượng liên quan, bỏ trốn để đảm bảo hoàn thành có
hiệu quả nhiệm vụ.
- Chủ thể thực hiện công tác KSĐT các vụ án về ma túy phải hiểu biết rõ
những quy định của pháp luật về tội phạm ma túy, nắm vững nghiệp vụ kiểm sát đặc

biệt là trong giai đoạn điều tra và các kiến thức liên quan mà tội phạm xâm hại:
Thực tiễn thời gian qua cho thấy tội phạm về ma túy có thể xảy ra ở khắp mọi nơi,
có thể là xuyên quốc gia, do nhiều loại đối tượng gây ra. Bên cạnh đó cũng có nhiều
vụ án mà người phạm tội mang quốc tịch khác nhau, tính chất và mực độ hành vi
phạm tội khác nhau. Chính vì vậy nên đỏi hỏi chủ thể thực hiện công tác KSĐT
phải là KSV có kiến thức, am hiểu về pháp luật Việt Nam và tư pháp quốc tế để
đảm bảo cho quá trình điều tra tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Xuyên suốt quá trình điều tra, KSV phải kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm
của CQĐT để kiên quyết yêu cầu khắc phục kịp thời.
- KSĐT các vụ án về ma túy phải chuẩn bị phương án xử lý khi gặp điều kiện,
hoàn cảnh không thuận lợi cho việc thu thập chứng cứ, giám sát hoạt động điều tra
của CQĐT: Lợi nhuận do ma túy đem lại là rất lớn nên đối tượng phạm tội không từ
bỏ bất cứ thủ đoạn nào, liểu lĩnh thực hiện tội phạm đến cùng nên KSV luôn phải
trang bị cho mình những phương án xử lý khi gặp điều kiện không thuận lợi, hoàn
cảnh cản trở trong việc thu thập chứng cứ cũng như việc các bị can đồng phạm đồng
loạt phản cung, ngoan cố hay xuất hiện tình tiết mới bất lợi, nghiêm trọng hơn là
còn có sự tác động tiêu cực của chính những người có chức vụ, quyền hạn. Những

14


vụ án có liên quan đến cán bộ Đảng viên thuộc các cơ quan Nhà nước, các cơ quan
tiến hành tố tụng đòi hỏi KSV phải thật bản lĩnh, kiên định, quyết đoán để sẵn sàng
đối mặt với những khó khăn khôn lường, những sức ép vô hình nhằm cản trở việc
phá án.
- Chủ thể khi thực hiện hoạt động KSĐT các vụ án về ma túy ngoài việc cần
nắm rõ những quy định của pháp luật liên quan đến loại tội phạm này còn phải
thường xuyên chủ động nghiên cứu, tìm hiểu về những chất ma túy mới: Số lượng
chất ma túy và tiền chất ngày càng trở nên gia tăng nhanh chóng, Nghị định số
126/2015/NĐ-CP ngày 09/12/2015 sửa đổi, bổ sung danh mục các chất ma túy và

tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm
2013 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất [12] đã tăng
thêm 23 chất ma túy và 21 tiền chất so với Nghị định số 67/2001/NĐ-CP quy định
số danh mục chất ma túy cần kiểm soát ở Việt Nam. Điều này đỏi hỏi cán bộ, KSV
ngoài việc nắm chắc, tìm hiểu kỹ càng Danh mục chất ma túy và tiền chất do Chính
phủ ban hành còn phải tích cực, chủ động tìm hiểu nhanh chóng, kịp thời những loại
chất ma túy và tiền chất mới.
- KSĐT các vụ án về ma túy đòi hỏi cán bộ, KSV phải nhanh chóng, khẩn
trương thu thập chứng cứ, lấy lời khai đối tượng phạm tội, người liên quan,…: Một
trong những đặc trưng điển hình của tội phạm về ma túy là các đối tượng phạm tội
không hoạt động riêng lẻ mà hoạt động có tổ chức, đôi khi là xuyên quốc gia, ngay
khi một đối tượng bị bắt thì các đối tượng còn lại sẽ nhanh chóng bỏ trốn, tìm mọi
cách cất giấu, tiêu hủy công cụ, phương tiện phạm tội. Vì vậy đòi hỏi chủ thể khi
thực hiện KSĐT loại tội phạm này cần phải nhanh chóng, kịp thời thu thập chứng
cứ, lấy lời khai đối tượng phạm tội, người liên quan và phải có kế hoạch, chiến lược
cụ thể để đảm bảo thu thập được đầy đủ tài liệu, chứng cứ, không bỏ lọt đối tượng
phạm tội.
- Khi thực hiện KSĐT các vụ án về ma túy cán bộ, KSV phải kiểm sát chặt chẽ
hoạt động giám định các chất ma túy: Trong các vụ án về ma túy, khi thu giữ được
vật chứng nghi là ma túy thì trong mọi trường hợp phải giám định xem chất thu giữ

15


được có phải ma túy hay không. Ngoài việc đảm bảo hoạt động giám định, kết luận
giám định phải tuân thủ quy định của pháp luật, cán bộ, KSV còn phải nắm rõ
những trường hợp nào bắt buộc phải giám định hàm lượng để tính khối lượng, thể
tích chất ma túy. Qua đó làm tiền đề cho việc truy tố, xét xử được đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để bỏ lọt tội phạm, không để xảy ra oan sai.
1.1.4. Đối tượng, phạm vi và ý nghĩa của hoạt động kiểm sát điều tra các vụ

án về ma túy
1.1.4.1. Đối tượng của hoạt động KSĐT các vụ án về ma túy
Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định: “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm
pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này” [30, tr. 12]. Với ý nghĩa là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhằm mục đích truy cứu TNHS người phạm
tội, truy tố họ ra trước TAND để xét xử, đối tượng của hoạt động THQCT là tội
phạm và người phạm tội. Đối tượng của công tác KSĐT là việc tuân theo pháp luật
của CQĐT, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra, những người có thẩm
quyền trong điều tra và những người tham gia tố tụng khác.
1.1.4.2. Phạm vi của hoạt động KSĐT các vụ án về ma túy
Hoạt động của VKSND trong quá trình điều tra vụ án được gọi là một phần
hay còn gọi là một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động TTHS. Bản chất của hoạt động KSĐT chính là hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đối với CQĐT và đối với các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, đối với người tiến hành tố tụng trong
quá trình khởi tố, điều tra vụ án. Phạm vi của hoạt động KSĐT là thời điểm bắt đầu
và kết thúc giai đoạn điều tra vụ án, là giới hạn không gian và thời gian của hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật do VKSND có thẩm quyền tiến hành. Theo
Điều 2 Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra vụ án hình sự ban
hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện

16


trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (gọi tắt là quy chế THQCT & KSĐT) xác
định: “Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra

đến khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ
án theo quy định của pháp luật” [44]. Như vậy, hoạt động KSĐT được bắt đầu từ
khi có tội phạm xảy ra hoặc phát hiện có dấu hiệu của tội phạm cho tới khi kết thúc
điều tra bằng các quyết định xử lý vụ án, xử lý bị can của cơ quan có thẩm quyền.
Dấu hiệu tội phạm được xác định dựa trên cơ sở tố giác của công dân, tin báo của
cơ quan, tổ chức, tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng… Khi nhận được
các tin báo, tố giác này CQĐT phải tiền hành giải quyết và VKSND có trách nhiệm
kiểm sát hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT theo quy định
tại Điều 103 BLTTHS.
1.1.4.3. Ý nghĩa của hoạt động KSĐT các vụ án về ma túy
Điều 3 Quy chế THQCT & KSĐT xác định: “Công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm:
- Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;
- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các
quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm một cách trái pháp luật;
- Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật;
những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời; khắc
phục và xử lý nghiêm minh;
- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng
pháp luật” [44].
Qua đó có thể thấy hoạt động KSĐT có ý nghĩa to lớn trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử vụ án. Hoạt động KSĐT là tiền đề quan trọng để đảm bảo tính hợp
pháp cho toàn bộ quá trình điều tra để từ đó có thể truy tố, xét xử đúng người đúng
tội, không bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội.

17



1.1.5. Nội dung của hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy
1.1.5.1. Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
Công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là hoạt động mở đầu
của quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm phát hiện hành vi phạm tội. Trên cơ
sở tiếp nhận tin báo, tố giác, cơ quan có thẩm quyền xác định có dấu hiệu tội phạm
hay không để quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trách
nhiệm của VKSND trong công tác này là kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm của
CQĐT đúng pháp luật, đầy đủ; bảo đảm mọi tội phạm đều được phát hiện, khởi tố,
điều tra và xử lý.
Thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC) đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, coi đây là một trọng tâm của công tác THQCT,
KSĐT vụ án hình sự. Chỉ thị 06/CT-VKSNDTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng
VKSNDTC về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công
tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm chỉ
rõ: “Viện kiểm sát các cấp phải kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết đối với
toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra và các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, nhằm chống bỏ lọt
tội phạm, chống làm oan người không phạm tội ngay từ đầu” [42]. Chỉ thị số
01/CT-VKSTC ngày 02/01/2014 của Viện trưởng VKSNDTC nêu rõ nhiệm vụ :
“Các Viện kiểm sát địa phương, đơn vị kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” [43] xác định đây là khâu công tác quan trọng
cần được tập trung thực hiện, thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo, đánh giá thực tiễn
công tác để tổng hợp kinh nghiệm, nâng cao chất lượng công tác.
Theo quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003 thì “Viện kiểm sát có trách
nhiệm tiếp nhận đẩy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ
chức… chuyển đến” [30] và phải phân loại và chuyển ngay cho CQĐT có thẩm


18


quyền để tiến hành điều tra xác minh để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ
án hình sự. Cũng theo Điều 103 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm là 20 ngày và tối đa là 2 tháng đối với những trường hợp phức
tạp. VKS có quyền yêu cầu CQĐT phải xử lý tất cả tố giác, tin báo về tội phạm theo
thời hạn luật định. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm phải được gửi cho
VKS cùng cấp và VKS có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm của CQĐT, đảm bảo các tin này phải được xác minh, xử lý quyết định việc
khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm của VKS có vị trí,
vai trò và ý nghĩa tiên quyết để bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội đều
được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng pháp luật. Thực tiễn cho thấy, kiểm sát tốt
việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm sẽ quyết định chất lượng THQCT, KSĐT,
kiểm sát xét xử, là những bước quan trọng để có thể khẳng định có hay không có
hành vi tội phạm xảy ra, người nào thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ
và hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra như thế nào. Đồng thời, thông qua hoạt
động này để có cơ sở khẳng định việc khởi tố là đúng người, đúng tội và bảo
đảm các căn cứ để xử lý tội phạm, bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải
được xử lý theo quy định của pháp luật, tránh làm oan, sai và không bỏ lọt tội
phạm. Kiểm sát tốt việc giải quyết tin báo và tố giác tội phạm sẽ giúp cho việc
đồng ý hoặc hủy bỏ quyết định không khởi tố của VKS đối với CQĐT chính xác
và có căn cứ. Như vậy, có thể khẳng định hoạt động kiểm sát giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình TTHS vì nó
bảo đảm cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật và không bỏ lọt tội phạm.
1.1.5.2. Kiểm sát việc khởi tố vụ án
Kiểm sát việc khởi tố vụ án (KTVA) là hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể hiện chức năng của VKS, bảo

đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu

19


×