Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.76 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VĂN TÍN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VĂN TÍN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS LÊ NGỌC HÙNG

HÀ NỘI - 2017




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám đốc Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cơ sở Học viện Khoa học xã hội tại
thành phố Hồ Chí Minh, các khoa, phòng và quý thầy, cô giáo, người lao động của
Học viện đã tận tâm truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm thiết thực và tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình học tập tại Học viện.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Giáo sư, Tiến sĩ Lê Ngọc
Hùng – người thầy trách nhiệm, tâm huyết đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và viết luận văn. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến Ban Tổ
chức Tỉnh ủy Bình Thuận, lãnh đạo các cấp đã tin tưởng, tạo điều kiện để tôi tham
gia khóa học. Tôi xin cảm ơn Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận đã hỗ trợ, cung cấp số
liệu, thông tin và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp nơi tôi công tác,
bạn bè, gia đình đã luôn tạo điều kiện, hỗ trợ, đồng hành và chia sẻ những khó khăn
trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Bình Thuận, tháng 8 năm 2017
Học viên

Đỗ Văn Tín


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các kết quả nghiên cứu, số liệu trong luận văn Thạc sĩ
Chính sách công “Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn
tỉnh Bình Thuận” là hoàn toàn trung thực, khách quan. Những nội dung trong luận
văn có trích dẫn tài liệu tham khảo đều được dẫn nguồn đầy đủ. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác có
liên quan với nội dung của luận văn.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn theo quy định của
pháp luật.
Tác giả luận văn

Đỗ Văn Tín


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ...................................................................7
1.1. Khái quát về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.....................................7
1.2. Khái niệm, vị trí, vai trò của việc thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục
pháp luật ................................................................................................................22
1.3. Nội dung thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật ..........................................22
1.4. Quy trình thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ........................23
1.5. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật 27
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT TẠI TỈNH BÌNH THUẬN ....................................................30
2.1. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật 30
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật.........41
2.3. Kết quả thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ..........................47
Chương 3: TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT TẠI TỈNH BÌNH THUẬN ....................................................63
3.1. Quan điểm, mục tiêu tăng cường thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục
pháp luật ................................................................................................................63
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật ....64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................71
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCV:

Báo cáo viên

CBCC:

Cán bộ, công chức

HĐND:

Hội đồng nhân dân

HĐPH:

Hội đồng phối hợp

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

PBGDPL:

Phổ biến, giáo dục pháp luật

QPPL:


Quy phạm pháp luật

TGPL:

Trợ giúp pháp lý

TTV:

Tuyên truyền viên

TVPL:

Tư vấn pháp luật

UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật 17
Hình 2.1: Bản đồ ranh giới hành chính tỉnh Bình Thuận .........................................30
Bảng 2.1: Số lượng Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh tại các sở, ban, ngành, đoàn thể
cấp tỉnh từ năm 2014 đến năm 2016 .........................................................................35
Bảng 2.2: Số lượng Báo cáo viên pháp luật cấp huyện trên địa bàn tỉnh từ năm 2014
đến năm 2016 ............................................................................................................35

Bảng 2.3: Số lượng Tuyên truyền viên pháp luật cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận từ năm 2014 đến năm 2016 ............................................................................36
Bảng 2.4: Kết quả thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh
Bình Thuận từ năm 2014 đến năm 2016...........................................................Phụ lục


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện
nay của đất nước ta thì chính sách, pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, nội
dung đa dạng, phức tạp, điều chỉnh nhiều loại hình quan hệ xã hội. Điều này dẫn
đến việc để đảm bảo quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, số lượng vật mang chính sách – các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL)
mới liên tục ra đời. Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung để các văn bản này ngày
càng phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội đã đặt công tác tổ chức thực hiện phổ
biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) trước những yêu cầu và thách thức mới trong
điều kiện hiện nay.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đánh giá: “Đảng và Nhà
nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong
Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi.
Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”[9, tr.
166-167]. Tuy nhiên, theo Võ Khánh Vinh thì: “Nghiên cứu thực tiễn xây dựng
pháp luật ở nước ta thời gian qua, cũng như trong toàn bộ đời sống xã hội hiện nay
cho thấy, hoạt động xây dựng pháp luật nước ta chưa có sự tiên định mang tính
khoa học, các mục tiêu đặt ra chưa thật rõ ràng, thiếu việc đánh giá khách quan
các kết quả đạt được” [36, tr.5].

Tại tỉnh Bình Thuận, trong những năm qua công tác PBGDPL nhìn chung đã
được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, đạt được nhiều kết quả
quan trọng, hầu hết các văn bản QPPL được phổ biến bằng nhiều hình thức phong
phú, phù hợp với từng đối tượng và địa bàn, từng bước đáp ứng nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của đông đảo cán bộ và nhân dân. Từ đó, hiểu biết pháp luật và ý thức

1


chấp hành pháp luật của CBCC, viên chức và nhân dân từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách PBGDPL trên địa bàn tỉnh Bình Thuận vẫn
còn bộc lộ những khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt như về nhận thức, về nhân lực, về
kinh phí, về hình thức, nội dung, phương pháp thực hiện… Những khó khăn, hạn
chế trong triển khai thực hiện chính sách này đang đặt các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương các cấp và đội ngũ những người làm công tác PBGDPL trước
những boăn khoăn, trăn trở và mong muốn tìm ra nguyên nhân cũng như những giải
pháp hiệu quả, đồng bộ để thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước nói chung và tại Bình Thuận nói
riêng, yêu cầu tăng cường, phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XI và phát huy dân chủ XHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng, đòi hỏi công tác PBGDPL phải thực sự có chuyển biến căn bản,
toàn diện. Chất lượng và hiệu quả thực hiện công tác PBGDPL chỉ được cải thiện
và tạo được sự chuyển biến khi công tác này được nhìn nhận và giải quyết một cách
khoa học từ thực tiễn và mang tính hệ thống, qua đó góp phần ngày càng hoàn thiện
chính sách PBGDPL. Xuất phát từ lý do đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính
sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận” làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tăng cường pháp chế

XHCN, công tác PBGDPL luôn nhận được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà
nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu nghiên cứu, tiếp cận công tác
PBGDPL dưới góc độ Luật học như:
- Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai, Bàn về giáo dục pháp luật [10]. Tài
liệu cung cấp các khái niệm cơ bản liên quan đến giáo dục pháp luật như các yếu tố
cấu thành, các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp Luật
[34]. tại mục V, chương IX trình bày về giáo dục pháp luật, qua đó mục đích của

2


giáo dục pháp luật là nhằm nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tin vào pháp luật và
hình thành thói quen ứng xử theo pháp luật cho đối tượng được giáo dục.
- Dương Thành Trung, Giáo dục pháp luật cho đồng bào Khme ở đồng bằng
sông Cửu Long, Việt Nam [33]. Luận án trình bày các vấn đề về lý luận giáo dục
pháp luật, kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế trong công tác giáo dục pháp
luật cho đồng bào dân tộc Khme. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số quan điểm và
giải pháp đảm bảo thực hiện giáo dục pháp luật cho đối tượng đặc thù (đồng bào
Khme) tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Dương Thị Thu Hiền, Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, thực trạng và giải pháp [12]. Luận văn đánh giá
thực trạng thực hiện PBGDPL, đồng thời đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động PBGDPL tại địa phương.
- Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật (tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa,
bổ sung) [16]. Tác giả đề xuất giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật, bồi dưỡng
kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ CBCC nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay.
- Nguyễn Thị Kim Ngân, Phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Hà Nội [15]. Luận văn nghiên cứu hoạt động PBGDPL ở cấp cơ sở là các

xã, phường, thị trấn trên địa bàn thủ đô Hà Nội, đáng chú ý là tác giả phân tích yêu
cầu khách quan phải nâng cao chất lượng công tác PBGDPL tại cấp cơ sở.
- Nguyễn Quốc Sửu, Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam [22]. Luận án trình bày khái niệm, vai trò và các đặc trưng của giáo dục pháp
luật cho đội ngũ CBCC hành chính. Qua đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật, tác
giả đưa ra các quan điểm giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho đội
ngũ CBCC hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn

3


Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện chính sách
công, luận văn tập trung phân tích thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh
Bình Thuận, từ đó đề xuất các quan điểm, mục tiêu và các giải pháp tăng cường
thực hiện chính sách PBGDPL nói chung và tại tỉnh Bình Thuận nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận, pháp lý về thực hiện chính
sách PBGDPL.
Thứ hai, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách
PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận nhằm tìm ra những kết quả đạt được, những mặt hạn
chế, cũng như những kết luận về thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL.
Thứ ba, đề xuất một số quan điểm, kiến nghị các giải pháp cơ bản góp phần
tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách PBGDPL

thực tiễn tại tỉnh Bình Thuận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu việc tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL
tại tỉnh Bình Thuận từ năm 2014 đến năm 2016 (Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 và đây là giai đoạn Luật này thật sự bắt đầu
đi vào cuộc sống).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp
luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; các quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước về PBGDPL.

4


Luận văn sử dụng các phương pháp tiếp cận liên ngành của khoa học chính sách
công cũng như kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đây.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa lý
thuyết và thực tiễn, phương pháp tổng hợp và phân tích, thống kê, hệ thống hóa,
khái quát hóa và một số phương pháp phân tích văn bản học, nghiên cứu tài liệu của
Đảng và Nhà nước có liên quan đến chính sách PBGDPL. Phương pháp thu thập
thông tin sẵn có liên quan đến đề tài nghiên cứu gồm các văn kiện, nghị quyết, chỉ
thị, báo cáo và tài liệu của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành ở Trung ương và địa
phương về PBGDPL. Số liệu được sử dụng trong luận văn là số liệu thứ cấp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý thuyết khoa học về thực hiện chính sách công, làm rõ
những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung và tổ chức thực hiện

chính sách PBGDPL nói riêng. Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm
sáng tỏ, bổ sung thêm những tư liệu nghiên cứu, kết quả khảo sát thực tế tại tỉnh
Bình Thuận, qua đó làm phong phú thêm luận cứ khoa học cho hệ thống lý luận,
pháp lý về thực hiện chính sách PBGDPL.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn chỉ ra những mặt đạt được cũng như những khó khăn, hạn chế
trong việc thực hiện chính sách PBGDPL. Các giải pháp, đề xuất trong luận văn góp
phần giải quyết vấn đề thực tiễn hiện nay trong việc tổ chức thực hiện chính sách
PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo,
điều hành, tham mưu và triển khai thực hiện công tác PBGDPL. Luận văn còn có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu về chính sách công nói
chung và chính sách PBGDPL nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được cơ cấu thành 3 chương, gồm:

5


Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách PBGDPL.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận.
Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về chính sách PBGDPL

PBGDPL là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật, là cầu nối chuyển
tải chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào đời
sống xã hội và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Với vai trò, ý nghĩa quan trọng như vậy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
ta luôn quan tâm, xác định PBGDPL là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam [1] và chính sách này đã đề cập
trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Ngày 20 tháng 6 năm 2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật PBGDPL và có hiệu lực kể từ ngày
01 tháng 01 năm 2013. Luật PBGDPL ra đời là nhằm thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng về hoạt động PBGDPL gắn với tạo cơ sở pháp lý
mạnh, đồng bộ, thống nhất cho công tác PBGDPL, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác này. Luật xác định chính sách và quản lý của Nhà nước về PBGDPL, quy
định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật
của công dân; nguyên tắc nội dung, hình thức PBGDPL, nhất là đối với một số đối
tượng đặc thù và trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; chức
năng, nhiệm vụ của Hội đồng phối hợp PBGDPL; tổ chức Ngày Pháp luật nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền và các điều kiện đảm bảo về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất, phương tiện và
bảo đảm kinh phí cho công tác PBGDPL.
1.1.1. Khái niệm chính sách PBGDPL
Trước khi làm rõ khái niệm chính sách PBGDPL, đề tài cần làm rõ các khái
niệm trung gian như: chính sách, chính sách công, phổ biến, giáo dục pháp luật và
thực hiện chính sách PBGDPL.

7


1.1.1.1. Khái niệm về chính sách

Theo James Anderson (2003): “Chính sách là một quá trình hành động có
mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc
giải quyết vấn đề mà họ quan tâm”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian
nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất nội dung và phương hướng
của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hóa…”
Theo Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa,
mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một
hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược
phát triển của một hệ thống xã hội” [8].
Như vậy, có thể hiểu chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh
đạo hoặc quản lý đề ra để giải quyết một hoặc một số vấn đề nào đó thuộc thẩm
quyền. Tác giả đồng tình với khái niệm về chính sách của Vũ Cao Đàm.
1.1.1.2. Khái niệm chính sách công
Khái niệm chính sách công là một trong những đối tượng nghiên cứu của
khoa học chính sách công. Tuy nhiên, do bị ảnh hưởng bởi những đặc điểm của thể
chế chính trị và hình thái nhà nước khác nhau nên cho đến nay có rất nhiều cách
định nghĩa khác nhau về chính sách công. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một
nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục
tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas
R. Dye, 1984).

8



Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một
cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter, 1990).
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn
nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay
các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương
trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F.
Malone, 1995).
Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính
phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời
sống của công dân (B. Guy Peters, 1999).
Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ/chính
quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách công là kết quả
của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì (Clarke E. Cochran, et
al, 1999).
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính
quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục
tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và
thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and
Furlong, 2004).
Ở Việt Nam những năm gần đây, thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng
với nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về chính sách
công ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn; nhiều vấn đề liên quan đến chính sách công
cần phải tiếp tục được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Có thể nêu ra một số quan
niệm sau:
Theo Võ Khánh Vinh: “Chính sách công là những đường hướng ứng xử cơ
bản của Nhà nước với những vấn đề chính sách phát sinh trong đời sống cộng đồng
bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý xã

hội”[36].

9


Theo Đỗ Phú Hải: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị
có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp và
công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định của đảng chính trị cầm quyền”[36].
Theo Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia) cho rằng: “Cho đến nay
trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi
động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi” và “chính sách công có những đặc
trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước; chính sách
công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành
động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết
các vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính
sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau”. Đồng thời, Lê
Chi Mai còn đưa ra khái niệm “chính sách tư” là các chính sách do các cơ quan, tổ
chức ban hành nhằm giải quyết những vấn đề nội bộ cơ quan, tổ chức và không có
hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan, tổ chức.
Từ các quan niệm trên, chính sách công được Đặng Ngọc Lợi nhìn nhận
trong bài viết đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số tháng 01 năm 2002) như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do
chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung
của mỗi nước. Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt
động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch
vụ công cộng cho nền kinh tế. Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được
nhà nước sử dụng để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công
cho nền kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý
nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị,

xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách
công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định
mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn
lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước. Như vậy, bản

10


chất của chính sách công là công cụ để Nhà nước thực hiện các hoạt động liên quan
đến công dân và can thiệp vào mọi hành vi xã hội trong quá trình phát triển.
1.1.1.3. Khái niệm PBGDPL
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép của “phổ biến pháp luật” và
“giáo dục pháp luật”.
Phổ biến pháp luật: “là làm cho đông đảo mọi người biết đến một vấn đề,
một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông quan hình thức nào đó" hoặc
“làm cho mọi người đều biết đến”. Như vậy, phổ biến pháp luật có đối tượng tác
động rộng rãi, nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của
pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế.
Giáo dục pháp luật: Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện
nay, các tác giả đã khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật như sau: “là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên
đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi
của pháp luật hiện hành”.
Như vậy, có thể hiểu PBGDPL theo nghĩa rộng: “là công tác, lĩnh vực hoạt
động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện PBGDPL (xây
dựng chương trình, kế hoạch; triển khai chương trình, kế hoạch thông qua việc áp
dụng các hình thức, biện pháp PBGDPL; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng
kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch). Hiểu theo nghĩa hẹp là: “truyền đạt tinh
thần, nội dung pháp luật giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri

thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp
luật hiện hành”[13].
1.1.1.4. Khái niệm chính sách PBGDPL
Từ những khái niệm trung gian trên, chính sách PBGDPL có thể được hiểu:
“là chính sách công, tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa
chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn
đề về PBGDPL theo các mục tiêu đã xác định”. Chính sách gồm nhiều bộ phận cấu

11


thành như: chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ làm
công tác PBGDPL; chính sách nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất và
phương tiện cho công tác PBDGPL; chính sách xã hội hóa công tác PBGDPL;
chính sách PBGDPL cho một số đối tượng đặc thù và chính sách hỗ trợ đối với cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện PBGDPL.
Lịch sử hình thành chính sách PBGDPL:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân là chủ và dân làm chủ. Cán
bộ là đầy tớ của nhân dân, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền, toàn thể cán bộ và nhân dân sống, học tập và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức rõ tầm
quan trọng của pháp luật đối với quản lý nhà nước và xã hội, được Người khái quát
một cách độc đáo, bình dị nhưng không kém phần thiêng liêng, tôn quý trong bài
“Việt Nam yêu cầu ca”: “...Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần
linh pháp quyền...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc công bố đạo luật chưa
phải đã xong mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài đến mọi người dân thì mới
thực hiện tốt được”.
Qua các thời kỳ, công tác PBGDPL luôn được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm nhưng do nhiều nguyên nhân và bối cảnh lịch sử, văn bản QPPL về PBGDPL
còn tản mác, chưa đồng bộ, chưa có tính hệ thống, hiệu lực pháp lý chưa cao, chủ

yếu mới chỉ dừng ở các văn bản dùng để chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện
PBGDPL, chưa có hành lang pháp lý cụ thể, rõ ràng nên việc triển khai PBGDPL
gặp nhiều khó khăn, nhất là thiếu cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm và cơ chế
phối hợp, huy động nguồn lực có hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp cũng như các tổ chức chính trị - xã hội trong PBGDPL, chưa có cơ chế
pháp lý để thực hiện xã hội hóa hiệu quả công tác này theo quan điểm, chủ trương
của Đảng.
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chủ trương, thể chế chính sách và pháp luật về công tác này như Chỉ thị số
02/1998/CT-TTg “về việc tăng cường công tác PBGDPL trong giai đoạn hiện

12


nay” và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg, ngày 07 tháng 01 năm 1998 của Thủ
tướng Chính phủ “về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm
1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL”. Tiếp đó,
ngày 17 tháng 01 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
13/2003/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2003- 2007. Để tiếp
tục đưa công tác PBGDPL lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Ban Bí thư Trung
ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 09 tháng 12 năm
2003 “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân” (Chỉ thị số 32-CT/TW). Chỉ thị
thể hiện sự đổi mới về nhận thức của Đảng ta đối với công tác PBGDPL và yêu
cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, các ngành phải “xác định rõ PBGDPL là
một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ
thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và công tác PBGDPL cần được
tăng cường thường xuyên, liên tục” [1].
Để triển khai thực hiện Chỉ thị này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số

61/2007/NQ-CP, ngày 07 tháng 12 năm 2007 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
32-CT/TW; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 12 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia PBGDPL và nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm
2005 đến năm 2010. Đến ngày 12 tháng 3 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm
2008 đến năm 2012, trong đó có 04 đề án về PBGDPL tạo nguồn lực quan trọng
cho công tác này. Tiếp đó, ngày 26 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 2160/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án tăng cường công tác PBGDPL
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 – 2015. Sau
khi Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Kết luận số 04-KL/TW, ngày
19 tháng 4 năm 2011 (Kết luận 04-KL/TW) về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32CT/TW, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 409/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 4 năm

13


2012, ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW của Ban
Bí thư Trung ương Đảng khóa XI, trong đó có nhiều đề án về PBGDPL. Nhằm thể
chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về hoạt động PBGDPL gắn
với tạo cơ sở pháp lý mạnh, đồng bộ, thống nhất cho công tác PBGDPL, góp phần
nâng cao hiệu quả công tác này, ngày 20 tháng 6 năm 2012, Quốc hội đã thông qua
Luật PBGDPL và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Bên cạnh đó, các
Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ,
phân cấp quản lý và tình hình cụ thể đã ban hành nhiều văn bản QPPL về công tác
này và chủ động xây dựng các kế hoạch thực hiện PBGDPL hàng năm, dài hạn và
kế hoạch triển khai ở từng thời gian cụ thể, từng đợt cao điểm kết hợp ban hành và
tổ chức triển khai nhiều đề án về PBGDPL để triển khai phổ biến các văn bản QPPL
của Trung ương, của HĐND, UBND địa phương phù hợp với nhu cầu từng đối
tượng, địa bàn.
Đây là những văn bản có ý nghĩa quan trọng, khẳng định quyết tâm của

Đảng và Nhà nước ta trong việc đẩy mạnh thực hiện chính sách PBGDPL, làm
chuyển biến nhận thức, từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân, góp phần tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật
trong thời kỳ đổi mới.
Quy trình thực hiện hoạt động PBGDPL:
Một chính sách sau khi được thể chế hóa thành luật, sẽ chuyển đến các cơ
quan hành pháp để huy động các nguồn lực tài chính, nhân lực triển khai thực hiện.
Đây là một giai đoạn quan trọng mà chính sách công được đưa vào thực tiễn, thực
sự tác động đến đời sống xã hội nhằm đạt được các mục tiêu nhà nước đã đề ra.
Chính sách PBGDPL sau khi được thể chế hóa thành Luật PBGDPL, được
chuyển đến các cơ quan hành pháp từ Trung ương đến địa phương (Chính phủ, Thủ
tướng, các bộ, ban, ngành Trung ương có liên quan; HĐND, UBND, các sở, phòng,
ban các cấp) huy động các nguồn lực tài chính, nhân lực triển khai thực hiện. Theo
đó, quy trình thực hiện chính sách PBGDPL gồm những khâu sau: xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện; phổ biến, tuyên truyền chính sách; phân công phối hợp

14


thực hiện chính sách; duy trì chính sách; điều chỉnh chính sách; theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện chính sách và cuối cùng là đánh giá, tổng kết, rút kinh
nghiệm thực hiện chính sách.
1.1.2. Vấn đề của chính sách PBGDPL
Theo Đỗ Phú Hải thì: “Việc xác định vấn đề chính sách được bắt đầu bằng
cảm nhận vấn đề so với cấu trúc vấn đề, đó là cảm nhận về các trở ngại, khó khăn,
vướng mắc trong xã hội cần được giải quyết bằng chính sách hoặc các bất hợp lý
gây mâu thuẫn, mất cân bằng, mất ổn định về kinh tế, xã hội, tăng trưởng kinh tế
hoặc những nhu cầu trong tương lai cần đạt được bằng chính sách” [11].
Trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước và phục vụ
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đặt hoạt động thực thi chính

sách công nói chung và thực thi chính sách PBGDPL nói riêng trước nhiều vấn đề
cần phải được giải quyết. Vấn đề của chính sách PBGDPL trong tổ chức thực thi
chính sách PBGDPL là còn bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ yếu về tính kịp thời,
đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận trong quá trình thực hiện chính
sách chậm được đổi mới về hình thức, phương pháp, nội dung; còn nhiều biểu hiện
hình thức, hiệu quả không đạt như mong muốn. Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm
tra chưa kịp thời, thường xuyên và thiếu thực chất. Công tác tổng kết thực tiễn, rút
kinh nghiệm cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm
thường xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy
làm chính sách. Bên cạnh đó, việc huy động nguồn lực cho công tác PBGDPL chưa
được tiến hành một cách đồng bộ và rộng khắp. Tổ chức, nhân lực làm công tác
PBGDPL còn hạn chế. Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện dành cho công tác này
còn rất hạn hẹp, nhất là ở cơ sở, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
1.1.3. Mục tiêu của chính sách PBGDPL
Mục tiêu của chính sách PBGDPL là bảo đảm sự công khai, minh bạch của
các chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và

15


doanh nghiệp đều có quyền và được tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận thông tin về
pháp luật, qua đó nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp
luật cho mọi tầng lớp nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, hạn chế những hành vi
vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây chính là sự cụ thể hóa quan
điểm của Đảng: “Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của người dân trong hoàn thiện
và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế xã hội. Bảo đảm quyền
con người, quyền công dân” và “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu

của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân
dân”. [9, tr.270].
1.1.4. Các nhóm giải pháp chính sách PBGDPL
Giải pháp về tổ chức và cán bộ làm công tác PBGDPL: Căn cứ nhu cầu công
tác PBGDPL, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quyết định thành lập tổ
chức làm công tác PBGDPL trực thuộc Vụ Pháp chế thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Ngoài việc thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 38 Luật PBGDPL, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch
UBND các cấp có trách nhiệm bố trí đủ công chức làm công tác PBGDPL cho các
đối tượng đặc thù thuộc lĩnh vực, địa bàn quản lý; chỉ đạo các trường, cơ sở dạy
nghề thuộc phạm vi quản lý bố trí đủ giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giáo
viên, giảng viên dạy pháp luật [6].
Giải pháp bảo đảm kinh phí PBGDPL: Kinh phí PBGDPL của các cơ quan,
tổ chức thụ hưởng ngân sách và Hội đồng phối hợp PBGDPL do ngân sách nhà
nước bảo đảm theo quy định tại Khoản 1, Điều 39 Luật PBGDPL. Việc lập dự toán
kinh phí được thực hiện theo quy định tại Khoản 2, Điều 39 Luật PBGDPL. Bộ Tài
chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp hướng dẫn việc quản lý, sử dụng và quyết
toán kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL; quy định cụ thể về chế độ của BCV,
TTV pháp luật, người được mời tham gia PBGDPL và người làm công tác
PBGDPL cho các đối tượng đặc thù phù hợp với từng thời kỳ.

16


1.1.5. Chủ thể chính sách PBGDPL
Chủ thể của chính sách PBGDPL ở Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức phi
chính phủ và các tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp hoạch định và thực thi
chính sách này.

Cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL bao gồm:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về PBGDPL. Bộ Tư pháp chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về PBGDPL; chủ trì xây dựng,
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn về
PBGDPL; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật. Bộ, cơ quan ngang
bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ
Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước PBGDPL, UBND các cấp có trách nhiệm thực
hiện quản lý nhà nước về PBGDPL tại địa phương (Khoản 2, Điều 6, Luật
PBGDPL).
Hội đồng phối hợp PBGDPL: được thành lập ở trung ương, tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, là cơ quan tư vấn
cho Chính phủ, UBND cấp tỉnh, cấp huyện về công tác PBGDPL và huy động
nguồn lực cho công tác PBGDPL. Cơ quan thường trực Hội đồng phối hợp
PBGDPL của Chính phủ là Bộ Tư pháp, của UBND cấp tỉnh là Sở Tư pháp, của
UBND cấp huyện là Phòng Tư pháp (Khoản 1, 2, Điều 7, Luật PBGDPL).
Bảng 1.1 Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về PBGDPL
Cấp quản lý

Chủ thể

Chức năng
Thống nhất quản lý nhà nước về phổ

Trung ương

Chính phủ

biến, giáo dục pháp luật.
Chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về phổ

biến, giáo dục pháp luật; chủ trì xây
dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban

17


Bộ Tư pháp

hành chương trình, kế hoạch dài hạn,
trung hạn về phổ biến, giáo dục pháp
luật; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia về pháp luật.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm phối hợp với
Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà

Các bộ, cơ quan ngang bộ

nước về phổ biến, giáo dục pháp luật.
UBND các cấp có trách nhiệm thực
hiện quản lý nhà nước về phổ biến,

Địa phương

Ủy ban nhân dân

giáo dục pháp luật tại địa phương.

Nguồn: Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13, ngày 20/6/2012
Các cá nhân có trách nhiệm về công tác PBGDPL bao gồm:

Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp thực hiện PBGDPL cho nhân
dân thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri; giám sát việc thực hiện pháp luật trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 33, Luật PBGDPL).
CBCC, viên chức và cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang nhân dân phải
tích cực tìm hiểu, học tập pháp luật; tham gia các khóa học, lớp đào tạo, bồi dưỡng,
tập huấn về pháp luật; gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật. Chủ động, tích
cực kết hợp thực hiện việc PBGDPL thông qua các hoạt động chuyên môn, thực thi
nhiệm vụ. Hỗ trợ, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác PBGDPL liên
quan đến lĩnh vực công tác (Điều 34, Luật PBGDPL).
Báo cáo viên pháp luật là cán bộ, công chức, viên chức và sỹ quan trong lực
lượng vũ trang nhân dân được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận để
kiêm nhiệm thực hiện hoạt động PBGDPL (Điều 35, Luật PBGDPL).
Tuyên truyền viên pháp luật và những người được mời tham gia PBGDPL ở
cơ sở là những người có uy tín, kiến thức, am hiểu về pháp luật được xem xét để

18


×