Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thực hiện chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh bình thuận (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.2 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VĂN TÍN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội.
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Ngọc Hùng

Phản biện 1: GS. TS Bùi Thế Cường.
Phản biện 2: GS. TS Nguyễn Hữu Khiển.

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại Học viện Khoa học xã hội lúc 09 giờ 30 ngày 04 tháng 10
năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Cùng với tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng như hiện nay của đất nước ta thì chính sách, pháp luật được
ban hành ngày càng nhiều, nội dung đa dạng, phức tạp, điều chỉnh
nhiều loại hình quan hệ xã hội. Điều này dẫn đến việc để đảm bảo
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, số lượng vật mang chính sách – các văn bản quy phạm pháp luật
(QPPL) mới liên tục ra đời. Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung để
các văn bản này ngày càng phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội đã
đặt công tác tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật
(PBGDPL) trước những yêu cầu và thách thức mới trong điều kiện
hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đánh giá:
“Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp
năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa
đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với
nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”. Tuy nhiên, theo Võ Khánh
Vinh thì: “Nghiên cứu thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta thời
gian qua, cũng như trong toàn bộ đời sống xã hội hiện nay cho thấy,
hoạt động xây dựng pháp luật nước ta chưa có sự tiên định mang
tính khoa học, các mục tiêu đặt ra chưa thật rõ ràng, thiếu việc đánh
giá khách quan các kết quả đạt được”.
1


Tại tỉnh Bình Thuận, trong những năm qua công tác

PBGDPL nhìn chung đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương quan tâm, đạt được nhiều kết quả quan trọng, hầu hết các
văn bản QPPL được phổ biến bằng nhiều hình thức phong phú, phù
hợp với từng đối tượng và địa bàn, từng bước đáp ứng nhu cầu tìm
hiểu pháp luật của đông đảo cán bộ và nhân dân. Từ đó, hiểu biết
pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của CBCC, viên chức và
nhân dân từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, việc thực hiện chính
sách PBGDPL trên địa bàn tỉnh Bình Thuận vẫn còn bộc lộ những
khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt như về nhận thức, về nhân lực, về
kinh phí, về hình thức, nội dung, phương pháp thực hiện… Những
khó khăn, hạn chế trong triển khai thực hiện chính sách này đang đặt
các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp và đội ngũ những
người làm công tác PBGDPL trước những boăn khoăn, trăn trở và
mong muốn tìm ra nguyên nhân cũng như những giải pháp hiệu quả,
đồng bộ để thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước nói chung và tại
Bình Thuận nói riêng, yêu cầu tăng cường, phát huy vai trò, hiệu lực
của pháp luật theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII,
đòi hỏi công tác PBGDPL phải thực sự có chuyển biến căn bản, toàn
diện. Chất lượng và hiệu quả thực hiện công tác PBGDPL chỉ được
cải thiện và tạo được sự chuyển biến khi công tác này được nhìn
nhận và giải quyết một cách khoa học từ thực tiễn và mang tính hệ
thống, qua đó góp phần ngày càng hoàn thiện chính sách PBGDPL.
Xuất phát từ lý do đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách
phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận” làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
2



2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức thực
hiện chính sách công, luận văn tập trung phân tích thực trạng thực
hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận, từ đó đề xuất các
quan điểm, mục tiêu và các giải pháp tăng cường thực hiện chính
sách PBGDPL nói chung và tại tỉnh Bình Thuận nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận, pháp lý về
thực hiện chính sách PBGDPL.
Thứ hai, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận nhằm tìm ra những kết quả
đạt được, những mặt hạn chế, cũng như những kết luận về thực trạng
thực hiện chính sách PBGDPL.
Thứ ba, luận văn đề xuất một số quan điểm, kiến nghị một số
giải pháp cơ bản góp phần tăng cường thực hiện chính sách
PBGDPL.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính
sách PBGDPL thực tiễn tại tỉnh Bình Thuận.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu việc tổ chức thực hiện chính
sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận từ năm 2014 đến năm 2016 (Luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013
và đây là giai đoạn Luật này thật sự đi vào cuộc sống).

3



4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh về pháp luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; các quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính
sách, pháp luật của Nhà nước về PBGDPL. Luận văn sử dụng các
phương pháp tiếp cận liên ngành của khoa học chính sách công và kế
thừa những kết quả nghiên cứu trước đây.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công
kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, phương pháp tổng hợp và phân
tích, thống kê, hệ thống hóa, khái quát hóa và một số phương pháp
phân tích văn bản học, nghiên cứu tài liệu của Đảng và Nhà nước có
liên quan đến chính sách PBGDPL. Phương pháp thu thập thông tin
sẵn có liên quan đến đề tài nghiên cứu gồm các văn kiện, nghị quyết,
chỉ thị, báo cáo và tài liệu của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành ở
Trung ương và địa phương về PBGDPL. Số liệu được sử dụng trong
luận văn là số liệu thứ cấp.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý thuyết khoa học về thực hiện chính
sách công, làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công
nói chung và tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL nói riêng. Các
kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung thêm
những tư liệu nghiên cứu, kết quả khảo sát thực tế tại tỉnh Bình
Thuận, qua đó làm phong phú thêm luận cứ khoa học cho hệ thống lý
luận, pháp lý về thực hiện chính sách PBGDPL.
4



5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn chỉ ra những mặt đạt được cũng như những khó
khăn, hạn chế trong việc thực hiện chính sách PBGDPL. Các giải
pháp, đề xuất trong luận văn góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn
hiện nay trong việc tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL tại tỉnh
Bình Thuận, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều
hành, tham mưu và triển khai thực hiện công tác PBGDPL. Luận văn
còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu về
chính sách công nói chung và chính sách PBGDPL nói riêng.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận văn được cơ cấu thành 3 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
PBGDPL.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách PBGDPL tại
tỉnh Bình Thuận.
Chương 3: Tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL.

5


TÓM TẮT NỘI DUNG LUẬN VĂN
Công tác PBGDPL luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền
tỉnh Bình Thuận quan tâm, chỉ đạo thường xuyên, tạo mọi điều kiện
thuận lợi như đầu tư về kinh phí, phương tiện để Hội đồng phối hợp
PBGDPL cấp tỉnh, cấp huyện và các cơ quan, đơn vị trên địa bàn
tỉnh tổ chức thực hiện đạt kết quả cao nhất. Các ban, ngành, tổ chức,
đoàn thể và cán bô, công chức, đảng viên đã có nhận thức đúng đắn,

xác định công tác PBGDPL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
và thường xuyên của quá trình triển khai các nhiệm vụ chính trị của
tỉnh. Do vậy, trong những năm qua, công tác PBGDPL trên địa bàn
tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, hoạt động ngày càng có hiệu quả
với nội dung, hình thức tuyên truyền được mở rộng, đa dạng và có
chiều sâu, nhận thức pháp luật trong một bộ phận cán bộ và nhân dân
được nâng lên.
Cấp uỷ, chính quyền địa phương thường xuyên chú trọng
đến công tác PBGDPL trong quá trình giải quyết công việc của
mình, quyền dân chủ của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ thông
qua các hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã hội, hoạt động trợ
giúp pháp lý lưu động đã từng bước đi vào cuộc sống, tạo điều kiện
để sản xuất phát triển, ổn định chính trị, trật tự xã hội ở địa phương
nên việc thực hiện các đề án trong thời gian qua đạt tỷ lệ trên 70% so
với chỉ tiêu đề ra. Công tác PBGDPL đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng, hầu hết các văn bản QPPL đã được phổ biến bằng nhiều hình
thức phong phú, phù hợp với từng đối tượng và địa bàn, đáp ứng nhu
cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ và nhân dân; hiểu biết pháp luật và
ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân
dân từng bước được nâng lên, góp phần tích cực vào việc phát triển

6


kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
tăng cường quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhiều thể chế được ban
hành, nhiều giải pháp về PBGDPL đã được triển khai thực hiện,
nhưng kết quả của công tác PBGDPL vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là
ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên

chức và người dân trong xã hội chưa cao, làm ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của đất nước, hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, làm giảm tính nghiêm minh của
pháp luật.
Chương 1 của luận văn trình bày khái quát về chính sách
PBGDPL bao gồm: khái niệm, vị trí, vai trò của việc thực hiện chính
sách PBGDPL cũng như nội dung, quy trình và các yếu tố tác động
đến thực hiện chính sách PBGDPL. Theo đó, quy trình tổ chức thực
hiện chính sách PBGDPL gồm bảy bước, mỗi bước trong quy trình
đều có vị trí, vai trò quan trọng và là bộ phận cấu thành không thể
thiếu để tạo ra một chỉnh thể trong thực hiện chính sách. Mỗi bước
đều có đặc trưng riêng, mang tính độc lập nhất định trong mối quan
hệ hữu cơ và có mối quan hệ nhân quả giữa bước trước với bước sau,
tạo nên quy trình thực hiện chính sách. Thực hiện tốt bước này sẽ tạo
tiền đề, thuận lợi trong thực hiện các bước kế tiếp.
Cụ thể:
Khái niệm thực hiện chính sách PBGDPL
Thực hiện Chính sách PBGDPL có thể được hiểu: “tổ chức
thực hiện chính sách PBGDPL là một khâu cấu thành chu trình
chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính
sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu
nhất định. Tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL giữ vai trò quan
7


trọng trong việc kết nối các khâu trong chu trình chính sách thành
một hệ thống hoàn chỉnh nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra”.
Vị trí, vai trò của việc thực hiện chính sách PBGDPL
Công tác PBGDPL có vị trí và vai trò rất quan trọng trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay, là một bộ

phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm của
toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và
các tổ chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc
sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội.
Qua PBGDPL, các đối tượng hình thành lòng tin vào pháp luật, nâng
cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng và góp phần
nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nội dung thực hiện PBGDPL
Nội dung PBGDPL bao gồm: Quy định của Hiến pháp và
văn bản QPPL, trọng tâm là các quy định của pháp luật về dân sự,
hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai,
xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng,
an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, CBCC, các văn bản QPPL
mới được ban hành. Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế. Ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp

8


hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật
(Điều 10, Luật PBGDPL).
Quy trình thực hiện chính sách PBGDPL
Thực thi chính sách đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
chu trình chính sách công. Nếu hoạch định chính sách công đã làm
tốt rồi thì việc tiếp theo là phải làm tốt giai đoạn thực thi chính sách
mới góp phần làm cho chính sách đạt kết quả. Điều này không chỉ

làm gia tăng uy tín cho chủ thể hoạch định và ban hành chính sách,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội mà còn góp phần đạt được mục tiêu
chính sách. Để làm tốt thực thi chính sách PBGDPL đòi hỏi phải
tuân thủ các bước sau đây:
-

Xây dựng kế hoạch triển khai/thực hiện chính sách

-

Phổ biến, tuyên truyền chính sách

-

Phân công phối hợp thực hiện chính sách

-

Duy trì chính sách

-

Điều chỉnh chính sách

-

Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

-


Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách PBGDPL
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách nói chung,

chính sách PBGDPL nói riêng luôn phải chịu sự tác động của nhiều
yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan làm ảnh hưởng đến tiến độ, nguồn
lực và thời gian đạt được mục tiêu chính sách đã đề ra. Việc nghiên
cứu và tìm hiểu các yếu tố này ảnh hưởng đến quá trình thực hiện
9


chính sách sẽ giúp các cơ quan nhà nước nắm và dự báo trước các
yếu tố tác động trong triển khai thực hiện chính sách PBGDPL, chủ
thể thực hiện chính sách sẽ có các phương án, biện pháp chủ động để
ngăn chặn những tác động tiêu cực cũng như tạo lập môi trường
thuận lợi để triển khai thực hiện chính sách.
Yếu tố khách quan
Thứ nhất, Môi trường thực hiện chính sách PBGDPL là tổng
hợp các yếu tố về điều kiện tự nhiên, các hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hóa – xã hội, tình hình an ninh trật tự... tác động đến quá trình
thực hiện chính sách PBGDPL. Các hoạt động này mang tính quy
luật trong điều kiện cụ thể và độc lập với quá trình thực hiện chính
sách PBGDPL.
Thứ hai, Mối quan hệ giữa các chủ thể có liên quan trong tổ
chức thực hiện chính sách về cơ bản là sự phân công, phối hợp và
thống nhất về mặt nhận thức trong tổ chức thực hiện chính sách. Mối
quan hệ giữa các chủ thể có liên quan trong thực hiện chính sách
PBGDPL, giữa cơ quan nhà nước cấp trên và cấp dưới với nhau và
với đối tượng thụ hưởng chính sách dựa trên sự chỉ đạo, điều hành,

phân công, phân nhiệm, phân phối nguồn lực hợp lý và việc chấp
hành các quy định, nội quy, quy chế.
Thứ ba, Tiềm lực, đặc tính của các nhóm đối tượng chính
sách. Mỗi nhóm đối tượng cũng có những tiềm lực, đặc tính khác
nhau. Vì vậy, việc phân tích tiềm lực, đặc tính của các nhóm đối
tượng chính sách là rất cần thiết, giúp lập kế hoạch, huy động nguồn
lực, công tác tuyên truyền sẽ sát hơn với yêu cầu thực tế.
10


Yếu tố chủ quan
Thứ nhất, Việc tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ các khâu
trong tổ chức thực hiện chính sách. Quy trình tổ chức thực hiện chính
sách gồm bảy bước, mỗi bước trong quy trình đều có vị trí, vai trò
quan trọng và là bộ phận cấu thành không thể thiếu để tạo ra một
chỉnh thể trong thực hiện chính sách PBGDPL.
Thứ hai, Năng lực thực hiện chính sách PBGDPL của các
chủ thể. Đây là yếu tố mang tính quyết định việc đạt hay không đạt
được kết quả tổ chức thực hiện nói riêng và đạt mục tiêu chính sách
nói chung.
Thứ ba, Điều kiện vật chất cần cho quá trình thực hiện chính
sách PBGDPL. Điều kiện vật chất có thể là các nguồn lực tài chính,
các trang thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất kèm theo cho quá trình
thực hiện chính sách PBGDPL.
Chương 2 của luận văn trình bày thực trạng thực hiện chính
sách PBGDPL tại tỉnh Bình Thuận. Công tác PBGDPL luôn được
các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp của tỉnh Bình Thuận quan
tâm, chỉ đạo thường xuyên, tạo mọi điều kiện thuận lợi như đầu tư về
kinh phí, phương tiện để Hội đồng phối hợp PBGDPL cấp tỉnh, cấp
huyện và các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh tổ chức thực hiện đạt

kết quả cao nhất. Các ban, ngành, tổ chức, đoàn thể và cán bộ, công
chức, đảng viên đã có nhận thức đúng đắn, xác định công tác
PBGDPL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên
của quá trình triển khai các nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Do vậy,
trong những năm qua, công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh có nhiều
chuyển biến tích cực, hoạt động ngày càng có hiệu quả với nội dung,
11


hình thức tuyên truyền được mở rộng, đa dạng và có chiều sâu, nhận
thức pháp luật trong một bộ phận cán bộ và nhân dân được nâng lên.
Cấp uỷ, chính quyền địa phương thường chú trọng đến công tác
PBGDPL trong quá trình giải quyết công việc của mình, quyền dân
chủ của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ thông qua các hoạt động
của các tổ chức đoàn thể xã hội, hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động
đã từng bước đi vào cuộc sống, tạo điều kiện để sản xuất phát triển,
ổn định chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.
Tuy nhiên, qua triển khai thực hiện chính sách PBGDPL,
cho thấy công tác ban hành văn bản, hướng dẫn, chỉ đạo PBGDPL
vẫn còn chưa kịp thời, chưa thống nhất. Nội dung tuyên truyền, phổ
biến chưa sâu kỹ, còn dàn trải, nhất là các nội dung cần tập trung
chưa đến được nhiều đối tượng cần phổ biến, tuyên truyền. Hình
thức tuyên truyền, PBGDPL chưa phong phú, đa dạng, chưa có sự
đổi mới nên chưa thu hút được sự quan tâm của nhân dân. Việc tuyên
truyền, phổ biến, đưa pháp luật đến với người dân, nhất là đối tượng
đặc thù còn hạn chế. Việc tuyên truyền chỉ mới tập trung ở cấp tỉnh,
cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là chủ yếu; cấp cơ sở xã,
phường, thị trấn vẫn chưa có nhiều chuyển biến đáng kể, nhất là địa
bàn cơ sở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Có nơi
việc tập trung nhân dân, nhất là vùng nông thôn, đồng bào dân tộc để

sinh hoạt, học tập còn khó khăn, tỉ lệ tham gia còn thấp nên việc đưa
chủ trương đến người dân chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó, việc xã hội
hóa hoạt động PBGDPL theo quy định của Luật PBGDPL còn chậm,
chưa rộng rãi, chưa thu hút được nhiều nguồn lực tham gia.
Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trên là do:
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp uỷ, ban, ngành, địa
phương về công tác PBGDPL chưa thực sự đầy đủ và chưa tương
12


xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này, do vậy có
nơi đã cho rằng đây là nhiệm vụ của riêng cơ quan Tư pháp. Công
tác tham mưu cho cơ quan tư pháp và cơ quan chuyên môn của cấp
ủy, chính quyền nhiều khi chưa chủ động, chưa thường xuyên, kịp
thời. Việc kiện toàn tổ chức, nguồn nhân lực và cơ chế phối hợp để
thực hiện PBGDPL chậm đổi mới.
Thứ hai, Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp hoạt động
theo cơ chế phối hợp, các thành viên làm việc kiêm nhiệm nên không
thể dành nhiều thời gian đầu tư cho công tác PBGDPL đúng mức.
Phần lớn thành viên tham gia Hội đồng phối hợp các cấp giữ vị trí
lãnh đạo ở sở, ban, ngành, địa phương phải đảm trách nhiều công
việc nên sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn và phối hợp chưa
thật đều. Đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL tuy số lượng đông
nhưng trình độ không đồng đều, chất lượng còn thấp, nhất là cán bộ
ở cơ sở. Thiếu cơ chế đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch lâu dài nguồn
nhân lực cho công tác PBGDPL. Một số sở, ban, ngành, địa phương
chưa thực sự quan tâm tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật,
nghiệp vụ PBGDPL cho đội ngũ này. Sự phối hợp đôi lúc chưa kịp
thời, thường xuyên giữa các ngành, các cấp, đội ngũ cán bộ làm công
tác PBGDPL chưa được bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ thường

xuyên, năng lực, trình độ còn hạn chế.
Thứ ba, việc ban hành quá nhiều văn bản QPPL cũng như
các chương trình, kế hoạch của Nhà nước cần triển khai, thực hiện
cùng một thời điểm, trong khi điều kiện nhân lực, vật lực có hạn. Hệ
thống pháp luật nước ta chưa đồng bộ, tính khả thi thấp, chậm đi vào
13


cuộc sống, chất lượng các văn bản luật chưa cao, số lượng các văn
bản QPPL của nhà nước ban hành ngày càng nhiều, lại thường xuyên
sửa đổi, bổ sung...do vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển
khai công tác PBGDPL. Bên cạnh đó, việc xử lý một số vụ việc vi
phạm pháp luật, đặc biệt là một số vụ việc liên quan đến CBCC,
đảng viên không nghiêm minh, thiếu chính xác đã ảnh hưởng không
nhỏ đến niềm tin của nhân dân đối với pháp luật.
Thứ tư, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc dành cho công
tác PBGDPL chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở vùng sâu, vùng
xa hoặc những địa bàn khó khăn. Chế độ, chính sách cho đội ngũ
BCV, TTV còn thiếu, chưa thực sự khuyến khích và phát huy được
tiềm năng của đội ngũ làm công tác PBGDPL. Do chưa có cơ sở
pháp lý rõ ràng và đủ mạnh nên địa phương nào quan tâm đến công
tác PBGDPL thì dự trù hoặc cấp kinh phí phù hợp cho công tác này
và ngược lại.
Ngoài ra, còn có một bộ phận CBCC, nhân dân còn chưa
nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật, ý thức chấp hành
chưa cao, cố tình vi phạm pháp luật.
Đánh giá về tồn tại, hạn chế:
Qua triển khai thực hiện chính sách PBGDPL, cho thấy công
tác ban hành văn bản, hướng dẫn, chỉ đạo PBGDPL vẫn còn chưa kịp
thời, chưa thống nhất. Nội dung tuyên truyền, phổ biến chưa sâu kỹ,

còn dàn trải, nhất là các nội dung cần tập trung chưa đến được nhiều
đối tượng cần phổ biến, tuyên truyền. Hình thức tuyên truyền,
PBGDPL chưa phong phú, đa dạng, chưa có sự đổi mới nên chưa thu
14


hút được sự quan tâm của nhân dân. Việc tuyên truyền, phổ biến, đưa
pháp luật đến với người dân, nhất là đối tượng đặc thù còn hạn chế.
Việc tuyên truyền chỉ mới tập trung ở cấp tỉnh, cấp huyện, thị xã,
thành phố là chủ yếu; cấp cơ sở xã, phường, thị trấn vẫn chưa có
nhiều chuyển biến đáng kể, nhất là địa bàn cơ sở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Có nơi việc tập trung nhân dân, nhất
là vùng nông thôn, đồng bào dân tộc để sinh hoạt, học tập còn khó
khăn, tỉ lệ tham gia còn thấp nên việc đưa chủ trương đến người dân
chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó, việc xã hội hóa hoạt động PBGDPL
theo quy định của Luật PBGDPL còn chậm, chưa rộng rãi, chưa thu
hút được nhiều nguồn lực tham gia.
Chương 3 của luận văn trình bày quan điểm, mục tiêu tăng
cường thực hiện chính sách PBGDPL, trên có sở đó, luận văn đề xuất
một số giải pháp tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL. Chính
sách PBGDPL là một chủ trương lớn mang tính nhân văn của Đảng
và Nhà nước nhằm góp phần góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật trong thời kỳ đổi mới.
Chính sách PBGDPL đã có nhiều đóng góp to lớn nhưng vẫn còn
nhiều hạn chế nhất là trong quá trình thực hiện. Để tăng cường thực
hiện chính sách PBGDPL, các giải pháp đưa ra cần dựa trên những
quan điểm sau:
Một là, xác định PBGDPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Nhà nước
bảo đảm nguồn lực cần thiết cho công tác PBGDPL; quan tâm

PBGDPL cho một số đối tượng đặc thù, bao gồm: người dân ở vùng
dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải
đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân;
15


người lao động trong các doanh nghiệp; nạn nhân bạo lực gia đình;
người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án
treo.
Hai là, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong tổ chức thực hiện
chính sách PBGDPL. Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân
thực hiện quyền được thông tin về pháp luật. Phát huy tính chủ động,
tự giác, tích cực của công dân trong học tập pháp luật. Nhà nước bảo
đảm nguồn lực cần thiết cho công tác PBGDPL cũng như huy động,
khuyến khích mọi nguồn lực trong xã hội tham gia PBGDPL gắn với
tăng cường thực hiện xã hội hóa công tác PBGDPL trong thời gian
tới. Nghiên cứu, ban hành các chính sách cụ thể để khuyến khích,
khen thưởng các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện, đóng
góp và hỗ trợ tích cực trong công tác PBGDPL.
Ba là, công tác PBGDPL phải gắn với tiến trình xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành
chính. Đảm bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân, góp
phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Bốn là, công tác PBGDPL phải hướng về cơ sở và cho các
nhóm đối tượng đặc thù; ưu tiên đầu tư, phát triển ở vùng dân tộc
thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân.

Năm là, tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực cho tổ chức, cá
nhân thực hiện công tác PBGDPL gắn với đổi mới hình thức,
phương pháp và nội dung PBGDPL theo hướng hiện đại hóa, ứng

16


dụng khoa học công nghệ nhất là công nghệ thông tin nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động PBGDPL.
Mục tiêu tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL đó là tiếp
tục tăng cường thực hiện chính sách PBGDPL trong thời gian đến;
bảo đảm các các thông tin về chính sách, pháp luật của Nhà nước
phải được chuyển tải đến cán bộ và nhân dân kịp thời. Đảm bảo sự
công khai, minh bạch, công bằng xã hội của các chính sách, pháp
luật của Nhà nước; bảo đảm mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và doanh
nghiệp đều có quyền và được tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận thông
tin về pháp luật, qua đó nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức tuân
thủ, chấp hành pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, giữ vững ổn
định chính trị, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã
hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp tăng cường
thực hiện chính sách PBGDPL. Cụ thể đó là:
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chính sách PBGDPL
Một là, tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách của
Đảng về hoạt động PBGDPL được xác định trong Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24
tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, đặc biệt là Chỉ thị số 32-CT/TW và Kết luận số 04KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Coi trọng hoạt động tổng

kết thực tiễn về hoạch định, thực thi chính sách PBGDPL theo hướng
thường xuyên, thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút
kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó. Đề cao vai trò
17


của hoạt động phân tích, đánh giá chính sách PBGDPL như là một
điều kiện tối quan trọng để từng bước cải thiện chất lượng của quy
trình hoạch định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ
quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả
nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách PBGDPL.
Hai là, Cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ
quan trong công tác phối hợp thực hiện PBGDPL. Chấn chỉnh để
nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá trình
tổ chức thực thi chính sách PBGDPL. Đặc biệt, coi trọng tính tiên
phong của các khâu tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã
hội trong quy trình thực hiện chính sách. Tăng cường công tác đôn
đốc, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả thực hiện chính sách
PBGDPL. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các
vấn đề nảy sinh. Có biện pháp kiểm tra việc thực hiện đề án, kế
hoạch PBGDPL, thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thông qua đó
kiểm tra phát hiện và có sự điều chỉnh kịp thời về cơ chế phối hợp,
nội dung cũng như hình thức tuyên truyền để nhân rộng các mô
hình PBGDPL có hiệu quả, điển hình. Tiếp tục củng cố, kiện toàn
Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp, xây dựng quy chế hoạt động,
phân công trách nhiệm cụ thể đối với từng thành viên trong Hội
đồng, cũng như chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ BCV, TTV pháp
luật, cán bộ làm công tác PBGDPL.
Ba là, Tăng cường quản lý nhà nước trong thực hiện chính
sách PBGDPL; kế thừa những quy định phù hợp của pháp luật hiện

hành về PBGDPL, luật hoá các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
18


Nam, các quy định hiện hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành liên quan về PBGDPL đã được thực tiễn kiểm
nghiệm, đồng thời bổ sung những nội dung mới; bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ của pháp luật về PBGDPL.
Bốn là, Phát huy tính dân chủ trong quá trình thực hiện chính
sách PBGDPL. Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở
rộng sự tham dự một cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và nhất là của cá nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá
trình hoạch định và thực thi chính sách PBGDPL. Nói cách khác,
làm cho PBGDPL từ chỗ chỉ là chức năng riêng của các cơ quan nhà
nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội.
Năm là, Xây dựng các chính sách ưu đãi nhằm huy động
nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa công tác PBGDPL.
Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ
nhân lực thực hiện chính sách PBGDPL
Chất lượng tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL phụ thuộc
nhiều vào chất lượng năng lực của đội ngũ nhân lực CBCC thực hiện
chính sách PBGDPL. Đó là năng lực phân tích, dự báo, phát hiện,
lựa chọn, khả năng chính trị hóa, tham vấn và đề xuất các giải pháp
trong thực hiện chính sách. Điều này đòi hỏi đội ngũ này không chỉ
đạt yêu cầu về trình độ, kiến thức, kỹ năng mà còn là thái độ của họ
trong thực hiện chính sách. Phát huy trong xác định mục tiêu chính
sách, chỉ ra được các nguồn lực để thực hiện chính sách và đánh giá
được tác động đối với từng vùng miền, địa phương. Vì vậy, việc
nâng cao năng lực của đội ngũ nhân lực cán bộ, công chức thực hiện
19



chính sách PBGDPL có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức thực
hiện chính sách và xa hơn là đạt được mục tiêu chính sách PBGDPL.
Lựa chọn, phân công những cán bộ có trình độ, am hiểu về
pháp luật, có tinh thần trách nhiệm trong công việc và công tác ở
những bộ phận ổn định để làm công tác tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật. Sau khi phân công, phải cử cán bộ đi tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng, đồng thời tạo điều kiện về cơ sở vật chất
và thời gian để họ tiếp cận, nghiên cứu các văn bản pháp luật mới
ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Có chính sách đãi ngộ hợp lý đối
với lực lượng tham gia công tác PBGDPL để khuyến khích họ nhiệt
tình tham gia một cách ổn định lâu dài. Đề nghị UBND tỉnh tạo điều
kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ tài chính, tài liệu pháp luật để
các cơ quan, đơn vị phục vụ cho công tác PBGDPL đạt hiệu quả cao
nhất. Tổ chức tập huấn, học tập, trao đổi kinh nghiệm cho các cán bộ
làm công tác tuyên truyền, PBGDPL ở cơ sở, trong đó chú trọng xây
dựng đội ngũ cộng tác viên là già làng, chức sắc tôn giáo, trưởng tộc,
dòng họ, người có uy tín, đồng bào dân tộc thiểu số... nhằm nâng cao
hiệu quả kỹ năng tuyên truyền, PBGDPL góp phần nâng cao nhận
thức trong nhân dân.
Tăng cường sự phối hợp giữa các nguồn lực để thực hiện
chính sách PBGDPL
Đổi mới quy trình hoạch định chính sách PBGDPL theo
hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là
của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Từng bước tạo lập
một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu
20



quả kinh tế - xã hội cao. Việc tổ chức thực hiện cần có sự phối hợp
chặt chẽ, kịp thời và phân công cụ thể của các ngành liên quan đến
công tác tuyên truyền, các cấp, ngành cần xem công tác PBGDPL là
nhiệm vụ chính trị, công tác tư tưởng quan trọng trong việc góp phần
ổn định an ninh trật tự, giữ gìn khối đại đoàn kết toàn dân, hạn chế
tình trạng khiếu nại vượt cấp, tranh chấp kéo dài. Cần chuẩn bị tốt
nội dung, định hướng nội dung tuyên truyền phù hợp với các đợt cao
điểm và phù hợp với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Đổi mới nhận thức về thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của
chính sách công
Cần phải thực hiện đúng, đầy đủ các khâu trong tổ chức thực
hiện chính sách nói chung và chính sách PBGDPL nói riêng nhằm
đạt mục tiêu chính sách và phải hướng tới mục tiêu đảm bảo công
bằng với tất cả đối tượng. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách
gồm bảy bước, mỗi bước trong quy trình đều có vị trí, vai trò quan
trọng và là bộ phận cấu thành không thể thiếu để tạo ra một chỉnh thể
trong thực hiện chính sách. Mỗi bước đều có đặc trưng riêng, mang
tính độc lập nhất định trong mối quan hệ hữu cơ và có mối quan hệ
nhân quả giữa bước trước với bước sau, tạo nên quy trình thực hiện
chính sách. Thực hiện tốt bước này sẽ tạo tiền đề, thuận lợi trong
thực hiện các bước kế tiếp.
Tăng cường kinh phí và tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho
công tác PBGDPL
Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh phí và tạo điều
kiện về cơ sở vật chất cho công tác PBGDPL, đảm bảo đủ, kịp thời
21


nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong triển khai thực hiện nhất là đối với
vùng sâu, vùng xa, hải đảo, đối với các nhóm đối tượng đặc thù và có

chế độ đãi ngộ tốt hơn cho đội ngũ những người làm công tác
PBGDPL gắn với có biện pháp kiểm tra, giám sát trong quản lý, sử
dụng kinh phí. Đồng thời, tránh thực hiện chính sách một cách phô
trương, hình thức và lãng phí.
Đa dạng hóa các hình thức PBGDPL
Cần lựa chọn các hình thức thích hợp để PBGDPL trong các
lĩnh vực đang được nhân dân quan tâm như thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn; xử lý vi phạm hành chính; giải quyết các tranh chấp
đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo… Lồng ghép nội dung PBGDPL
với các hoạt động sinh hoạt văn hóa, chính trị ở địa phương.
Nghiên cứu, đổi mới các hình thức tuyên truyền, phổ biến
như tọa đàm, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tổ chức nhiều cuộc
thi tìm hiểu pháp luật đến các đối tượng là nhân dân trên địa bàn tỉnh
để đáp ứng yêu cầu tuyên truyền trong từng thời kỳ, phải lồng ghép
một cách khoa học nhằm mang lại hiệu quả cao. Phát huy có hiệu
quả hệ thống phát thanh nội bộ, các pa nô, áp phích, khẩu hiệu tuyên
truyền. Chú trọng áp dụng công nghệ thông tin trong triển khai thực
hiện PBGDPL.

22


KẾT LUẬN
Thực tiễn thực hiện chính sách PBGDPL trong thời gian qua
đã chứng minh chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước ta về công tác PBGDPL là đúng đắn và kịp thời,
phù hợp với nguyện vọng của phần lớn nhân dân trước yêu cầu nâng
cao dân trí pháp lý nhằm tăng cường pháp chế và xây dựng Nhà
nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam và sự quản lý, tổ chức thực hiện chính sách PBGDPL của Nhà
nước, các cấp ủy đảng, các sở, ban, ngành, đoàn thể và chính quyền
địa phương tại Bình Thuận đã tổ chức thực hiện chính sách này cơ
bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương. Nhận thức
pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trên địa bàn
tỉnh có sự chuyển biến tích cực, ý thức tuân thủ chấp hành pháp luật
được nâng lên. Công tác PBGDPL đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng, hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật đã được phổ biến
bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với từng đối tượng và địa
bàn, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ và nhân dân;
hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công
chức, viên chức và nhân dân từng bước được nâng lên, góp phần tích
cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Sau quá trình nghiên cứu, luận văn đưa ra được một số kết quả sau:
Thứ nhất, làm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến chính
sách PBGDPL và quy trình thực hiện chính sách PBGDPL để làm cơ
sở đánh giá, phân tích tình hình thực tế tổ chức thực hiện chính sách
này tại tỉnh Bình Thuận.

23


×