Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DNVVN TẠI SGD NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.89 KB, 58 trang )

3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Small and medium enterprises - SMEs) là đối
tượng doanh nghiệp đặc trưng của nền kinh tế. Việc định nghĩa rõ doanh nghiệp nào
là vừa và nhỏ là rất linh hoạt và tùy thuộc vào từng quốc gia, từng khu vực kinh tế.
Thông thường sẽ có những mức giới hạn cho một doanh nghiệp để được coi là vừa
và nhỏ. Khi vượt rào đó, doanh nghiệp vượt cấp trở thành doanh nghiệp lớn, các tập
đoàn. Hiện nay, trên thế giới, không có khái niệm chuẩn mực về doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
“Theo cộng đồng Châu Âu (EU), doanh nghiệp vừa và nhỏ là một công ty
độc lập có ít hơn 250 lao động và/hoặc doanh thu hàng năm không quá 40 triệu
Euro hoặc tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán không quá 27 triệu Euro.
Theo Quỹ phát triển khu vực Châu Âu (European Regional Development
Fund Grant), doanh nghiệp vừa và nhỏ là những công ty sử dụng ít hơn 250 người,
có doanh thu nhỏ hơn 50 triệu Euro hoặc tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán
không quá 43 triệu Euro, và không bị sở hữu quá 25% bởi một chủ thể không phải
là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo các tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới và công ty tài chinh quốc tế, các
doanh nghiệp được phân chia theo quy mô như sau:
Doanh nghiệp vô cùng nhỏ (Micro-enterprise): là các doanh nghiệp có đến 10
lao dộng, tổng tài sản trị giá không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm
không quá 100.000 USD.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Doanh nghiệp nhỏ (Small enterprise): là các doanh nghiệp có không quá 50
lao động, tổng tài sản trị giá không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm


không quá 3.000.000 USD
Doanh nghiệp cỡ vừa (Medium enterprise): doanh nghiệp có không quá 300
lao động, tổng tài sản trị giá không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng
năm không quá 15.000.000 USD
Ở Việt Nam, theo nghị định 90/2001/ND-CP ngày 23-11-2001 của Chính
phủ thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và
nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người”. (Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành,
địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong chỉ tiêu
nói trên).
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) có tầm quan trọng ngày càng lớn vì phạm
vi hoạt động của họ có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Theo
thống kê mới nhất, cả nước hiện có trên 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm
tới 98% số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên gần 2.313.857 tỉ đồng
(tương đương 121 tỉ USD).
Với đặc thù vừa và nhỏ, thành viên Hiệp hội có đơn vị chỉ có số vốn từ 20 tỉ
đồng, khá là 100 tỉ đồng (tương đương 1 - 5 triệu USD) và sử dụng cao nhất cũng
chỉ là 300 lao động… Dù vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt ở khu vực tư
nhân có hiệu quả đầu tư khá cao so với các khu vực khác. Thống kê cho thấy: các
doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp tới hơn 40% GDP cả nước. Nếu tính cả 133.000
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
5
Chuyên đề tốt nghiệp
hợp tác xã, trang trại và các hộ kinh doanh cá thể thì khu vực này đóng góp vào tăng
trưởng tới 60% GDP.
Các DNVVN có những đặc điểm cơ bản sau:
- Quy mô nhỏ

Các DNVVN chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa động
cơ, xe máy (chiếm 40,6% doanh nghiệp của cả nước), tiếp đến là các ngành chế
biến (20,9%), xây dựng (13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh tài sản, tư
vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Theo quy định của WTO, Việt Nam phải mở cửa
thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối nước ngoài, do đó, với quy mô lớn, mạng
lưới phân phối toàn cầu và có tính chuyên nghiệp cao, các công ty nước ngoài sẽ là
những đối thủ lớn, đe doạ sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh
vực thương mại của Việt Nam.
Nhìn chung ở nước ta, tình trạng các DNVVN hoạt động thiếu vốn là chủ
yếu, nguồn vay hầu như dựa vào nguồn vốn tự có và vay trên thị trường phi tài
chính. Các DNVVN ít có khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của ngân hàng do không
đảm bảo điều kiện cần thiết về tài sản bảo đảm hay các điều kiện vay vốn khác.
Điều này dẫn đến các doanh nghiệp thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh, thiếu vốn
đầu tư cho sản xuất, đổi mới công nghệ, khó khăn khi muốn mở rộng thị trường.
Chủ yếu là DN ngoài quốc doanh
Nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến
các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đó là do tính lịch sử của quá
trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta, đại bộ phận các
DNVVN, theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ, đều thuộc khu vực
ngoài quốc doanh. Vì thế, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu
vực này mang tính đại diện cho DNVVN ở Việt Nam. Ví dụ như, các con số thống
kê về tỷ trọng GDP đóng góp trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm, số lao động, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động, vốn, đặc điểm về
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
6
Chuyên đề tốt nghiệp
công nghệ, máy móc sử dụng, trình độ quản lý, khả năng về vốn cho đến nay chủ
yếu tổng kết cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chứ chưa có số liệu điều
tra chính thức riêng biệt cho toàn bộ các DNVVN Việt Nam. Các DNVVN chủ yếu
bao gồm các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty

cổ phần. Vị trí, vai trò và tốc độ, xu hướng phát triển của những doanh nghiệp này
rất khác nhau.
- Tính linh hoạt
Thế mạnh của DNVVN là sản xuất hàng hoá và dịch vụ phong phú, đáp ứng
yêu cầu đa dạng của thị trường; tận dụng và huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong
nhân dân; sử dụng nhiều lao động phổ thông, chưa qua đào tạo; dễ chuyển đổi mô
hình và lĩnh vực kinh doanh; có thể sử dụng máy móc thiết bị trong nước, dễ dàng
thay đổi công nghệ, đổi mới trang thiết bị mà không tốn kém nhiều chi phí, có thể
kết hợp cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại.
Tổ chức các doanh nghiệp vừa và nhỏ đơn giản, chi phí thấp
Các DNVVN thường có quy mô vốn nhỏ, số lao động không nhiều nên việc
tổ chức sản xuất cũng như bộ máy quản lý tương đối gọn nhẹ, quan hệ giữa người
chủ doanh nghiệp và các nhân viên có sự gần gũi, thân thiết. Vì thế nên các quyết
định, chỉ tiêu, chính sách đến với người lao động một cách nhanh chóng không phải
qua nhiều khâu trung gian, tiết kiệm chi phí.
Vì có quy mô nhỏ nên các DNVVN cũng cần ít diện tích xây dựng cơ sở sản
xuất, có khả năng phân tán sản xuất, có thể thâm nhập dễ dàng vào các thị trường
nhỏ lẻ mà các doanh nghiệp lớn còn bỏ ngỏ.
- Sự yếu kém về thương hiệu
Sự yếu kém về thương hiệu làm suy yếu khả năng cạnh tranh của các
DNVVN. Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu
mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
7
Chuyên đề tốt nghiệp
và quốc tế. Vài năm gần đây, nhiều DN đã quan tâm và chú trọng hơn vào việc xây
dựng, phát triển thương hiệu nên đã thu được những thành công.
- Trình độ quản lý còn yếu kém
Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều
hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Trong số các DNVVN cũng có những chủ

doanh nghiệp, giám đốc giỏi, có trình độ chuyên môn khá cao và năng lực quản lý
tốt; tuy nhiên số này còn chưa nhiều. một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám
đốc tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến
thức kinh tế xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh
doanh quốc tế. Do những hạn chế đó, một số người có khuynh hướng hoạt động
theo kinh nghiệm, chưa có tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức về quản lý tổ chức,
về phát triển thương hiệu, về cạnh tranh, về máy tính và công nghệ thông tin. Một
số chủ doanh nghiệp thậm chí mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích làm kinh
doanh trong khi hoàn toàn thiếu kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy dẫn đến
nhiều rủi ro và thất bại.
Một số khá lớn các DNVVN còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, về quản lý tài chính, quản lý nhân sự, về
chất lượng hàng hóa và sở hữu công nghiệp. một phần nguyên nhân của tình trạng
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do nhận thức, hiểu biết của doanh
nghiệp về pháp luật còn hạn chế, bất cập, thậm chí có hiện tượng rất mơ hồ về kiến
thức pháp luật.
Trình độ tay nghề của đội ngũ lao động còn nhiều hạn chế
Các DNVVN ở nông thôn chủ yếu sử dụng lao động của bản thân và gia
đình. Hơn nữa trình độ tay nghề, học vấn của lao động ở khu vực này rất thấp. Số
người có trình độ trung cấp trở lên chỉ chiếm 9,8%; số người là nghệ nhân trong các
làng nghề chiếm 0,06%.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo điều tra thị trường lao động của Tổng cục dạy nghề, trong các DN được
điều tra, số lao động được gọi là có trình độ cao và lao động lành nghề chỉ chiếm
khoảng 23%, trong đó ở các DNVVN là 25%. Khả năng thích ứng và khả năng hợp
tác, làm việc theo nhóm của người lao động trong các DNVVN còn thấp. Mặt khác,
người lao động lành nghề và cả lao động quản lý, khả năng giao tiếp, trình độ ngoại
ngữ còn yếu, nên gặp nhiều khó khăn trong hợp tác kinh doanh với các đối tác nước

ngoài.
Bên cạnh đó công tác đào tạo tay nghề cho lao động lại chưa được các doanh
nghiệp thực sự quan tâm, hiện nay thì chỉ mới có khoảng gần 6% doanh nghiệp có
nhu cầu đào tạo về tay nghề. Những hạn chế về tay nghề của đội ngũ lao động làm
giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời làm tăng chi phí về sử dụng lao động
của doanh nghiệp.
- Công nghệ lạc hậu
Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay,
các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các
phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng
trong các DNVVN Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những người
chủ của các DNVVN không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề
liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ.
Với nhiều người mua công nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc, thiết bị. Họ
không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các phương pháp, bí quyết sản
xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và một phần do thiếu vốn, rất nhiều
DNVVN đẩu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết
bị rồi vừa làm vừa cải tiến. Hậu quả của cách làm đó là công nghệ được sử dụng
trong các doanh nghiệp này trở thành mớ hỗn độn, chắp vá. Một số doanh nghiệp do
thiếu thông tin, không có kinh nghiệm lựa chọn, mua bán, chuyển giao công nghệ
đã trở thành nạn nhân của các thương vụ về công nghệ. Công nghệ tốt giúp doanh
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
9
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp tăng năng suất lao động, sản xuất ra các sản phẩm với mức chất lượng phù
hợp, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và giảm bớt chi phí sản xuất, nhờ
đó tăng năng lực cạnh tranh. Ngược lại công nghệ lạc hậu và chậm đổi mới làm hạn
chế năng xuất và sản lượng, chất lượng sản phẩm, làm tăng chi phí sản xuất, thậm
chí ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Đồng thời làm hạn chế năng lực cạnh tranh
của các DNVVN Việt Nam.

- Khả năng tiếp cận thị trường kém
Các sản phẩm và dịch vụ do các DNVVN Việt Nam cung cấp hiện nay tuy đã
có nhiều tiên bộ về chất lượng, nhưng mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu nào
đó của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, quy mô nhỏ bé, năng lực sản xuất chưa cao,
hạn chế về vốn, thiếu kế hoạch triển khai tiếp thị sản phẩm, các DNVVN gặp nhiều
khó khăn để cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hóa nhanh chóng hiện nay. Các
sản phẩm sản xuất chất lượng thấp, khó đáp ứng được tiêu chuẩn xuất khẩu nên chỉ
phục vụ thị trường trong nước, thậm chí trong một địa phương nhỏ hẹp.
Thiếu thông tin, khó khăn trong việc tiếp cận thị trường tài chính
Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng (huy động vốn, dịch vụ cho vay,
đầu tư, thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn, quản lý tài sản...) đã đến với
cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các
DNVVN hiện nay vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp
này hạn chế trong khi tiếp cận vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều rào cản.
Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến việc tiếp cận vốn tín dụng của
các DNVVN Việt Nam còn rất hạn chế xuất phát từ chính bản thân các doanh
nghiệp. Doanh nghiệp không hiểu về cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại, có
tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay
của ngân hàng khó khăn. Một số lớn các DNVVN lập phương án, kế hoạch sản xuất
kinh doanh, dự án đầu tư còn mang nặng tính chủ quan, áp đặt của lãnh đạo doanh
nghiệp, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần tuý. Nội dung của phương án, kế hoạch
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
10
Chuyên đề tốt nghiệp
sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư đôi khi được thiết lập sơ sài, bởi vậy thiếu thuyết
phục ngân hàng khi xem xét thẩm định cho vay.
Không những thế, các DNVVN còn bị thiếu thông tin về các thị trường đầu
vào như thị trường lao động, nguyên vật liệu, thiết bị, công nghệ; thiếu thông tin về
thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường xuất khẩu và chưa tiếp cận được
công nghệ thông tin trong quản lý doanh nghiệp. Việc tiếp cận với thông tin về hệ

thống pháp luật, các văn bản liên quan đến các DNVVN …còn hạn chế, gây cản trở
trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm.
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với Doanh nghiệp
vừa và nhỏ
1.2.1. Tín dụng và sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điền kiện có hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất
định. Hay nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan
hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một
khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những
ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa
là người cho vay”.
Với tư cách là người đi vay: ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ
chức,cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi,...để huy động vốn.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Với tư cách là người cho vay: ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn,
đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
1.2.2. Các phương thức cấp tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Chiết khấu giấy nợ:
Giấy nợ là các chứng từ dùng để xác nhận cho người thụ hưởng một trái
quyền về tiền đối với người phải trả. Giấy nợ là công cụ tài chính phổ biến, mang

tính thống nhất trên thị trường tài chính.
Chiết khấu giấy nợ là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng
chuyển nhượng quyền sở hữu giấy nợ chưa đáo hạn cho ngân hàng để đổi một số
tiền bằng giá trị của giấy nợ trừ chi phí chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có).
- Cho vay:
Là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao tiền cho khách hàng
với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của tổ chức tín dụng, chiếm phần lớn tổng
tài sản và nguồn thu của ngân hàng, đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân
hàng chủ yếu tập trung vào danh mục các khoản vay. Nghiệp vụ cho vay cũng bao
gồm nhiều loại khác nhau trong đó có:
• Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
cho trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Các
khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình
thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
12
Chuyên đề tốt nghiệp
gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh chóng, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn
là không có đảm bảo. Nhìn chung hình thức này chỉ sử dụng đối với các khách hàng
có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
• Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi hay khi khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn theo
thời vụ như mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay vốn ngân hàng.
Khách hàng khi có nhu cầu vay vốn phải làm thủ tục vay vốn cần thiết, ngân
hàng xem xét, phân tích khách hàng để xác định quy mô cho vay, thời hạn trả nợ,

thời hạn giải ngân, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Các món vay được tách
biệt thành các hồ sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát tách biệt từng hồ sơ đó.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá
trình khách hàng sử dụng khoản vay, ngân hàng sẽ kiểm soát nếu thấy có dấu hiệu
vi phạm hợp đồng, ngân hàng có thể thu nợ trước hạn hoặc chuyển thành nợ quá
hạn.
• Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận
cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời gian
nhất định. Hạn mức tín dụg có thể tính cho cả đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối
đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh
doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều lần, song dư nợ không
được vươt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương
án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và
nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ ngân
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
13
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Hình thức này thuận tiện cho những khách hàng
vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất
kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn trả nợ và
thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự
chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách
biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của
từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài
chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
• Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý doanh
nghiệp làm đơn xin vay luân chuyển và thoả thuận với ngân hàng về phương thức

vay, hạn mức tín dụng các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ.
• Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền. Số tiền mỗi lần trả được tính toán phù hợp với khả năng trả
nợ. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng thanh toán cho người bán lẻ số hàng hóa mà khách hàng đã
mua trả góp. Hình thức này là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm
khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do rủi
ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay
của ngân hàng.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
14
Chuyên đề tốt nghiệp
• Cho vay gián tiếp: phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp bên
cạnh đó các ngân hàng còn phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Cho vay gián
tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng có thể
chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ,
phát tiền vay… Hình thức này áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người
vay phân tán cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian
có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy
nhiên nó cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết, nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của
mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ
lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng
để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
- Cho thuê tài sản (thuê – mua):
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân

hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho khách hàng phải thu gần
hoặc đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết thời hạn thuê, khách hàng có thể
mua lại tài sản đó. Cho thuê (thuê – mua) giống một khoản cho vay thông thường ở
chỗ ngân hàng phải xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất
định; khách hàng phải có trách nhiệm trả gốc và lãi hàng kỳ. Ngân hàng phải đảm
bảo cung cấp đúng loại tài sản khách hàng yêu cầu và phải đảm bảo chất lượng của
tài sản đó. Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh
không có hiệu quả nên không trả tiền đúng hạn cho ngân hàng. Ngân hàng có quyền
thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng. Cho thuê mang lại rủi
ro rất cao đối với ngân hàng.
- Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh:
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên
bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng là bên bảo lãnh, khách
hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không xuất tiền ngay khi
bảo lãnh mà chỉ khi khách hàng không thực hiện cam kết thì ngân hàng có trách
nhiệm chi trả cho bên thứ ba. Hình thức này tạo mối lliêm kết trách nhiệm tài chính
và san sẻ rủi ro cho các bên liên quan trong đó dối tượng được bảo lãnh thì có thể
tìm kiếm được nguồn tài trợ mới, thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm thu lợi; ngân hàng có thể tăng thu nhập thông qua việc thu phí bảo lãnh, mở
rộng dịch vụ khác của ngân hàng; bảo lãnh làm giảm bớt thiệt hại cho bên thứ ba
khi có tổn thất xảy ra.
Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí.
Ngoài phí, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng phải ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh

toán cho ngân hàng với mức lãi suất thấp.
Hình thức bảo lãnh rất đa dạng, phân theo mục tiêu bảo lãnh bao gồm:
• Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư
(hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu vi phạm các quy định trong
hợp đồng dự thầu.
• Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn
thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết,
gây tổn thất cho bên thứ ba.
• Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng về việc
sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không trả.Vai trò của chất
lượng tín dụng đối với hoạt động của NHTM
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
16
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3 Khái niệm về chất lượng tín dụng
Các nhà kinh tế nói đến chất lượng bằng nhiều cách: chất lượng là sự phù
hợp với mục đích hoặc sự sử dụng, là “một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều
cà độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường” hoặc theo Hiệp hội chuẩn
hóa Pháp (tiêu chuẩn NFX50-104) thì “chất lượng là năng lực của một sản phẩm
hoặc một dịch vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu của người sử dụng”. Với cách đề
cập như vậy, có thể hiểu: Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng
(người gửi tiền và người vay tiền), phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo
sự tồn tại phát triển của ngân hàng. Chất lượng tin dụng được thể hiện:
Đối với NHTM: phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực
lực bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên
tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Đối với khách hàng: tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn
của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện, thu hút
được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông

hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiêm tàng trong nền
kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Qua đó, ta có thể rút ra:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiên có
thể tính toán được như kết quả kinh doanh, NQH, ...) vừa trừu tượng (thể hiện khả
năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế, ...). Chất lượng tín dụng chịu
ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan và khách quan. Khuynh hướng phát triển của
nền kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị trường cũng như môi trường pháp lý đều ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
17
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
+ Hoạt động tín dụng xét ở góc độ hoạt động của ngân hàng
Các khoản tín dụng của ngân hàng có chất lượng tốt khi hiệu quả sử dụng
vốn cao, an toàn và mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ thể sử dụng đồng thời mang
lại một mức lợi nhuận cho ngân hàng. Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá chất
lượng tín dụng đối với ngân hàng:
Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng và mức độ rủi ro
- Tỷ lệ nợ quá hạn

Nợ quá hạn là phần còn lại mà đến hạn hoặc có thêm thời gian gia hạn vẫn
chưa thu hồi được. Một tỷ lệ nợ quá hạn được coi là chấp nhận được là dưới 3%.
Tổng dư nợ quá hạn theo kỳ và tổng dư nợ quá hạn tích lũy.
Cơ cấu nợ quá hạn “theo tuổi”: phân nhóm nợ quá hạn theo thời gian quá hạn
và theo khách hàng, ước tính tỷ lệ nợ quá hạn chuyển sang nợ khó đòi. Chi tiết nợ
quá hạn theo tuổi như sau:
Tên khách hàng:
Tổng dư nợ:

Quá hạn dưới 3 tháng.
Quá hạn từ 3tháng đến 6 tháng.
Quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm.
Quá hạn trên 1 năm.
Tỷ lệ phần trăm nợ quá hạn theo tuổi.
Tỷ lệ thu hồi nợ quá hạn trong kỳ: Cùng với tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ thu hồi nợ
quá hạn cho ta biết mức độ quản lý nội bộ đối với nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ thu hồi nợ
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
18
Chuyên đề tốt nghiệp
quá hạn nhỏ thì thực tế ngân hàng có thể đang đứng trước một rủi ro mất một lượng
vốn lớn.
Tỷ lệ này xác định bằng công thức

ác
chỉ tiêu về sử dụng vốn
- Các chỉ tiêu về sử dụng vốn
Lượng dư nợ tích lũy đến thời điểm hết kỳ và cơ cấu dư nợ (ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn)
Tỷ lệ cho vay trên tổng huy động

Tỷ lệ này cho biết khả năng ngân hàng tận dụng nguồn vốn huy động trong
hoạt động tín dụng.
Cơ cấu cho vay theo mức lãi suất và lãi suất cho vay bình quân. Chỉ tiêu này
cho thấy được mức lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng. Nói chung, lãi suất
cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân thì ngân hàng mới hoạt
động và có lãi.

Vòng quay vốn tín dụng trong năm
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
Tỷ lệ thu hồi nợ quá hạn =
Doanh số thu nợ quá hạn trong kỳ
Nợ quá hạn đầu kỳ + dư nợ quá hạn trong kỳ
Tỷ lệ cho vay =
Tổng dư nợ đến kỳ hạn
Tổng lượng vốn huy động tích lũy
Vòng quay vốn tín dụng trong năm =
Tổng dư nợ trong năm
Dư nợ bình quân năm
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng vốn của ngân hàng được cho vay bao nhiêu
lần trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ ngân hàng thu được
nhiều nợ và chứng tỏ rằng nguồn vốn mà ngân hàng đã đầu tư vào hoạt động kinh
doanh có hiệu quả.
- Các chỉ tiêu về doanh lợi:
Tổng doanh thu của ngân hàng từ hoạt động tín dụng
Cơ cấu thu nhập từ các hoạt động tín dụng của ngân hàng và từ trong hoạt
động kinh doanh khác.
Lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế của ngân hàng.
+ Chất lượng tín dụng ngân hàng dưới góc độ hoạt động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là người trực tiếp quản lý và sử dụng vốn nên đối với họ chỉ
tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng là doanh thu từ khoản vay ngân hàng...
Ngoài ra, còn thể hiện ở chỗ nhờ có số tiền vay ngân hàng mà doanh nghiệp có thể
đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao tính cạnh
tranh, củng cố vị thế doanh nghiệp trên thị trường, tạo công ăn việc làm và cải thiện
đời sống cho người lao đông.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng

Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngân hàng đối với ngân hàng và
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, ta phải hiểu rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng ngân hàng để từ đó phát huy những ảnh hưởng tích cực cũng như
hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác, cả doanh nghiệp và ngân hàng phải linh
hoạt để phù hợp với quy định của nhà nước trong hoạt động tín dụng.
Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
- Chính sách tín dụng:
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng, nó có ý nghĩa
quyết định sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Chính sách tín dụng phải phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời kết quả hài
hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, ngân hàng và người sử dụng vốn vay. Muốn
vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
- Thông tin tín dụng:
Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định
cần thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm thiểu rủi ro tín
dụng, nâng cao hiệu quả tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ Trung
tâm thông tin tín dụng CIC, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh, từ cơ quan thuế...
hoặc nói cách khác từ nguồn trực tiếp hay gián tiếp.
- Công tác tổ chức ngân hàng
Nhân tố này không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà tác động đến
mọi hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức được sắp xếp một
cách khoa học, sự phân công công việc được tiến hành một cách cụ thể, có sự liên
kết giữa các bộ phận thì việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng sẽ được thực hiện
kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, quản lý an toàn và có hiệu quả các khoản
tín dụng.
- Chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh

nói chung, đối với hoạt động ngân hàng lại càng quan trọng hơn nữa. Vì cán bộ
công nhân viên ngân hàng là bộ mặt, hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng.
Hơn nữa nghiệp vụ của Ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự
ngày càng cao. Việc tuyển dụng nhân sự được sàng lọc kỹ lưỡng, chọn ra các cán bộ
có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức sẽ góp phần giảm rủi ro tác nghiệp, đem lại
cho ngân hàng các khoản tín dụng có chất lượng.
- Công tác kiểm soát nội bộ
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là công tác mà ngân hàng cần tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn
diện nhằm đảm bảo các hoạt động diễn ra phù hợp với các chính sách, đáp ứng
được yêu cầu, mục tiêu đề ra.
Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
- Năng lực của doanh nghiệp
Không một doanh nghiệp nào đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu
quả. Nhưng nhiều khi do năng lực hạn chế, họ không thực hiện được kế hoach của
mình và làm ảnh hưởng tới khoản tín dụng mà họ nhận từ ngân hàng.
- Thiện chí trả nợ của khách hàng
Ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích kỹ các yếu tố có liên
quan đến khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ và cách thức sử dụng vốn
vay. Nhưng khi khách hàng nhận được vốn, việc sử dụng vốn sai mục đích ban đầu
diễn ra không ít. Trong những trường hợp này, rất có thể ngân hàng không thu hồi
được đúng hạn và đầy đủ khoản tín dụng đã cam kết.
Các nhân tố khách quan khác
- Tác động của môi trường kinh tế:
Đây là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tài chính của người vay. Nếu nền
kinh tế đang lâm vào tình trạng khủng hoảng hoặc đi xuống sẽ làm cho hoạt động
của doanh nghiệp gặp khó khăn, từ đó ảnh hưởng đến thời hạn trả nợ tức là làm ảnh
hưởng tới chất lượng khoản tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, nếu môi trường

kinh tế thuận lợi giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng
thuận lợi, thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao, tăng khả năng trả nợ ngân hàng. Lúc
đó, khoản tín dụng của ngân hàng là khoản tín dụng có chất lượng tốt.
- Tác động của môi trường pháp lý
Ngân hàng là một tổ chức luôn phải hoạt động trong hành lang pháp lý hẹp
hơn bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào. Vì vậy, một hệ thống
pháp lý càng hoàn chỉnh, càng đồng bộ thì càng đem lại hiệu quả hoạt động tốt hơn
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
22
Chuyên đề tốt nghiệp
cho ngân hàng, doanh nghiệp và các khoản tín dụng của doanh nghiệp với ngân
hàng được đảm bảo hơn.
- Chính sách kinh tế vĩ mô
Trong nền kinh tế thị trường, các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước bao
gồm các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách lãi suất, chính sách đối ngoại.. có
vai trò quan trọng đối với hoạt động của nên kinh tế nói chung và hoạt động của
ngân hàng, doanh nghiệp nói riêng. Như các chính sách nhằm ưu tiên phát triển hay
hạn chế ngành nào đó để đảm bảo cân đối cho toàn nền kinh tế sẽ có ảnh hưởng rất
lớn tới ngân hàng cũng như doanh nghiệp.
- Các yếu tố thiên tai gây nên
Chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi mang tính thời vụ.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, có thành phần kinh tế Nhà nước, trong đó có
các doanh nghiệp nông – lâm – ngư nghiệp chiếm một tỷ lệ không nhỏ thì yếu tố
này rất quan trọng. Khi thiên tai xảy ra như lũ lụt, hạn hán, mưa bão làm cho hoạt
động sản xuất kinh doanh đổ bể, dẫn đến khả năng không hoàn trả được khoản tín
dụng nhận từ ngân hàng.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI SỞ GIAO DỊCH
NH TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về SGD Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
2.1.1 Giới thiệu chung về SGD Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được thành lập từ
ngày 25/03/1991 theo Quyết định 34/TTCB của Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/04/1991. Theo quyết
định thành lập, SGD sẽ hoạt động với chức năng là một bộ phận trực tiếp kinh
doanh và thực hiện các nghiệp vụ đầu mối với các chi nhánh trong toàn hệ thống
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Sự ra đời của SGD đã đánh dấu bước phát triển
mạnh mẽ của Ngân hàng Ngoại thương theo cơ chế thị trường. Hoạt động của SGD
là nơi thể hiện rõ nhất hiệu quả thực thi các chính sách của ban lãnh đạo Ngân hàng
Ngoại thương. Đồng thời, SGD cũng góp phần quan trọng trong việc tăng cường
khả năng cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Sau khi tòa
nhà Vietcombank được xây dựng, SGD được đặt ngay tại Hội sở chính của Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam, 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. Đến tháng 1/2008
SGD được chuyển đến 31-33 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Từ khi thành lập đến nay, SGD đã không ngừng phát triển, nâng cao cả về
mặt quy mô lẫn chất lượng các dịch vụ ngân hàng. Khi mới thành lập, SGD chỉ
đóng vai trò là một đơn vị phụ thuộc như một chi nhánh với 7 phòng nghiệp vụ thực
hiện các nghiệp vụ cơ bản nhất của ngân hàng. Sau một thời gian hoạt động, không
ngừng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ nhằm phục vụ tốt nhất cho các khách hàng,
hiện nay SGD có 19 phòng nghiệp vụ thực hiện tất cả các nghiệp vụ của một Ngân
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
24
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng thương mại kinh doanh đa năng. Bên cạnh đó, SGD cũng đã phát triển được
21 phòng giao dịch trên phạm vi cả nước với nhiệm vụ chính là huy động vốn, phát
hành thẻ và cho vay... với cả khách hàng trong và ngoài nước.
Tháng 1/2006, SGD tách khỏi trụ sở chính, hoạt động độc lập với Hội sở

chính, thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu với khách hàng bán lẻ, còn khách hàng là
tổng công ty lớn sẽ được chuyển về Hội sở chính.
Hiện nay, SGD vẫn đang từng bước khẳng định vai trò của mình, góp phần
đưa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trở thành tập đoàn tài chính đa năng nhất
Việt nam.
2.1.2. Bộ máy tổ chức tại SGD
2.1.2.1.Mô hình tổ chức của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam
NHNT đã tập trung áp dụng phương thức quản trị ngân hàng hiện đại, mở
rộng, nâng cấp mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch. Cho đến nay, mạng lưới
của NHNT đã vươn rộng ra nhiều địa bàn và lĩnh vực, bao gồm:
- Một (1) Sở giao dịch, một (1) trung tâm đào tạo và bảy mươi mốt (71) chi
nhánh trên toàn quốc.
- Ba (3) công ty con tại Việt Nam, hai (2) công ty con tại nước ngoài:
Công ty TNHH một thành viên cho thuê Tài chính Vietcombank
Công ty TNHH Chứng khoán Vietcombank
Công ty TNHH Cao ốc Vietcombank 198
Công ty TNHH Tài chính Việt Nam
Công ty chuyển tiền Vietcombank
- Bốn (4) công ty liên doanh, hai (2) công ty liên kết.
- Một (1) văn phòng đại diện đặt tại Singapore.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
25
Chuyên đề tốt nghiệp
Số lượng nhân viên của Vietcombank không ngừng tăng lên cả về số lượng và
chất lượng. Tại ngày 31/12/2009 Vietcombank có 10.401 nhân viên. Đến
31/12/2010 số lượng nhân viên đã tăng lên thành 11.415 người.
2.1.2.2.Mô hình tổ chức của SGD
Bộ máy tổ chức của SGD gồm: 1 giám đốc, 4 phó giám đốc và các phòng
chuyên môn nghiệp vụ, các phòng giao dịch. SGD hiện có hệ thống 19 phòng giao

dịch nằm rải rác ở các tuyến phố Hà Nội và khoảng 150 máy ATM được đặt tại các
điểm giao dịch thuận tiện, đảm bảo cung cấp đến khách hàng những dịch vụ hiện
đại, tiện ích cùng chất lượng dịch vụ tốt nhất; có 24 phòng ban tại trụ sở chính (ở
31-33 Ngô Quyền và từ tầng 1 đến tầng 3 tòa nhà Vietcombank Tower ở 198 Trần
Quang Khải). Mỗi phòng ban đều có chức năng, nhiệm vụ riêng, cung cấp các dịch
vụ ngân hàng khác nhau. Các phòng này được chia thành 5 nhóm:
• Nhóm hỗ trợ (các phòng tham mưu)
− Phòng quản lý nhân sự
− Phòng tài chính kế toán
− Phòng kiểm tra nội bộ
− Phòng hành chính quản trị
− Phòng tin học
• Nhóm tín dụng (các phòng nghiệp vụ)
− Phòng quan hệ khách hàng
− Phòng quản lý rủi ro tín dụng
− Phòng quản lý nợ
− Phòng đầu tư dự án
− Phòng tín dụng trả góp tiêu dùng
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
26
Chuyên đề tốt nghiệp
− Phòng tín dụng cho DNVVN: có chức năng thực hiện triển khai
nghiệp vụ cho vay đối với những phương án kinh doanh của đối tượng khách hàng
là các DNVVN.
Nhiệm vụ: thực hiện đúng các quy định về quy chê cho vay các bước trong quy
trình nghiệp vụ tín dụng của NHNT VN.
Theo dõi, lập báo cáo, đôn đốc thu nợ và đề xuất hướng giải quyết các khoản nợ
quá hạn, nợ tồn đọng thuộc phạm vi quản lý của phòng.
Phối hợp với các phòng, ban có liên quan để hoàn thành các nhiệm vụ được
giao.

• Nhóm thanh toán (các phòng nghiệp vụ)
− Phòng thanh toán nhập khẩu
− Phòng thanh toán xuất khẩu
− Phòng bảo lãnh
− Phòng vay nợ viện trợ
• Nhóm kinhh doanh dịch vụ (các phòng nghiệp vụ)
− Phòng thanh toán thẻ
− Phòng hối đoái
− Phòng tiết kiệm
− Phòng ngân quỹ
− Phòng vốn và kinh doanh ngoại tệ
− Phòng khách hàng đặc biệt
− Phòng kế toán giao dịch
− Tổ phát triển nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ
• Nhóm các phòng giao dịch
Hiện nay có 19 phòng giao dịch được đặt tại nhiều nơi ở Hà Nội.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10
27
Chuyên đề tốt nghiệp
Các phòng giao dịch SGD Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam là các đơn vị hạch toán trực thuộc SGD Ngân hàng thuơng mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội chịu sự quản lý, giám
sát trực tiếp của Giám đốc SGD Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam, có chức năng thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn tiết kiệm, cho vay khách
hàng là cá nhân, thực hiện các nghiệp vụ vãng lai trên địa bàn và các nghiệp vụ liên
quan đến hoạt động tài khoản tiền gửi của khách hàng.
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SGD
2.2.1. Ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội lên hoạt động của Ngân hàng trong
thời gian vừa qua.
Trong khu vực châu Á vài năm gần đây, Việt Nam đạt thành tích tăng trưởng

khá ấn tượng. Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất
trong khu vực Đông Á Thái Bình Dương (EAP) trước cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, và vẫn duy trì được vị trí đó cả sau khủng hoảng.
Nhận định về tình hình kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2006-2010, theo Ts. Trần
Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam có khái quát: cơ hội thuận lợi lớn,
mức đầu tư cao, thị trường mở rộng, đà tăng trưởng tốt, nhưng tăng trưởng giảm,
lạm phát cao và bất ổn nghiêm trọng. Cụ thể từ 1996 - 2000, CPI bình quân là 3,4%
còn tăng trưởng GDP bình quân là 6,96%. Các con số tương ứng của giai đoạn 2001
- 2005 là 5,1% và 7,51%; giai đoạn 2006 - 2010 là 11,4% và 7,2%. Như vậy, trong
vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng
trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việc phân bổ lợi ích tăng trưởng có xu
hướng tập trung cho nhóm người giàu và đầu cơ, chỉ hai con số nêu trên đã đủ
chứng tỏ thu nhập thực tế và mức sống thực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo,
bị giảm sút rất mạnh.
SV: Nguyễn Thị Thu Hòa Lớp: NHC_K10

×