Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nguyên lý về sự phát triển với việc phát triển nguồn nhân lực ở Gia Lai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.27 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN TOÀN

NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở GIA LAI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng – Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN TOÀN

NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở GIA LAI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VIẾT QUÂN

Đà Nẵng – Năm 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Toàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 3
5. Bố cục đề tài .......................................................................................... 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ............................................................... 4

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN LÝ PHÁT TRIỂN 9
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TRONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC ...................................................................................................... 9
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SỰ PHÁT
TRIỂN ............................................................................................................. 21
1.2.1. Khái niệm phát triển....................................................................... 21
1.2.2. Nguồn gốc của sự phát triển........................................................... 26
1.2.3. Tính chất của sự phát triển ............................................................. 30

CHƯƠNG 2. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ THỰC TRẠNG NGUỒN

NHÂN LỰC Ở GIA LAI HIỆN NAY ................................................. 38
2.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TRÊN CƠ SỞ QUÁN TRIỆT QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN ............... 38
2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực .............. 38
2.1.2. Phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở quán triệt quan điểm phát triển 43
2.2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở GIA LAI HIỆN NAY .......... 51
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội ở Gia Lai............ 51
2.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực và công tác phát triển nguồn nhân lực ở
Gia Lai hiện nay ....................................................................................... 56


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC Ở GIA LAI HIỆN NAY ................................................. 67
3.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH GIẢI PHÁP ....................................................... 67
3.1.1. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nguồn
nhân lực giai đoạn 2011 - 2020................................................................ 67
3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Gia Lai đến năm 2020 ..... 72
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC Ở GIA LAI HIỆN NAY............................................................. 77
3.2.1. Một số giải pháp............................................................................ 77
3.2.2. Một số kiến nghị ............................................................................94

KẾT LUẬN ............................................................................................ 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (Bản sao)


DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
CK


: Chuyên khoa

ĐH

: Đại học

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

LLSX

: Lực lượng sản xuất

NNL

: Nguồn nhân lực

PTNNL

: Phát triển nguồn nhân lực

UBND

: Ủy ban nhân dân

UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyên lý phát triển là một trong hai nguyên lý chung nhất, phổ biến
nhất của phép biện chứng duy vật. Nguyên lý phát triển của phép biện chứng
duy vật phản ánh đặc trưng phổ quát nhất của thế giới, mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan đều có sự vận động và phát triển, sự vận động phát
triển ấy là không ngừng, có khi nhanh, khi chậm, khi tuần tự, có khi nhảy vọt,
có lúc có những bước thụt lùi, nhưng nếu nhìn ở cả một quá trình thì tất cả
đều là phát triển. Nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho con người phương
pháp luận để nhận thức và cải tạo thế giới, nó trở thành nguyên tắc chỉ đạo
hoạt động của con người. Quán triệt quan điểm phát triển vào hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người là yêu cầu cần thiết và đúng đắn, đặc biệt là
trong công tác phát triển nguồn nhân lực.
Nguồn lực con người là nội dung cốt lõi của sự phát triển xã hội. Đảng ta
đã rất quan tâm xây dựng chiến lược con người, tùy từng thời điểm lịch sử
khác nhau Đảng ta đưa ra những chính sách cụ thể khác nhau, nhưng nhất
quán ở mục đích hạnh phúc của nhân dân là cao nhất; coi việc nâng cao dân
trí bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân. Không có bức thành nào vững bằng bức thành nhân
dân.Không có sức mạnh nào bằng sức mạnh nhân dân. Dân là gốc của
nước. Người còn chỉ rõ: Dân là mọi người dân Việt Nam, đều là con Rồng
cháu Tiên, không phân biệt già trẻ, trai gái, giàu nghèo trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số. Đó là nguồn lực làm nên lịch sử của chính
mình. Và vô luận việc gì đều do con người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần
đến xa đều như thế cả. Trên cơ sở quan điểm phát triển, Đảng ta cũng đã



2
khẳng định: “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển” [15, tr. 76]. Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Đất nước ổn định, kinh tế tăng trưởng, nhân dân
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, uy tín của Việt Nam được nâng cao trên
trường quốc tế... Trong đó trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kỹ thuật được
tăng lên, nguồn nhân lực được xây dựng và phát huy tốt nhất. Tuy nhiên trong
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa
hiện nay thì thực trạng nguồn nhân lực của chúng ta chưa được xây dựng và
phát triển tối đa, vẫn còn nhiều hạn chế so với khu vực và trên thế giới. Vì
vậy, việc khắc phục hạn chế, yếu kém về mặt nguồn nhân lực sẽ tạo điều kiện
đưa đất nước vượt qua khó khăn tạo đà phát triển, tiến tới xây dựng cuộc sống
tốt hơn, hạnh phúc hơn cho nhân dân.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập
quốc tế, toàn cầu hóa của cả nước hiện nay, tỉnh Gia Lai cũng đã đề ra những
định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ nhằm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,
góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Gia Lai là một
tỉnh nằm trên địa bàn chiến lược ở khu vực bắc Tây Nguyên Việt Nam, là
vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, đa dạng về thành phần
dân cư và nền văn hóa mang bản sắc độc đáo của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Gia Lai nói riêng và Tây nguyên nói chung là vùng đất có vị trí chiến lược
an ninh - quốc phòng, giàu tiềm năng về kinh tế. Khai thác tiềm năng, cũng
như thế mạnh của Gia Lai để đưa đồng bào các dân tộc trong tỉnh thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu đồng thời phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần, từng bước xây dựng cuộc sống văn minh, đảm bảo an ninh quốc
phòng và góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước, là
nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta, trong đó trực tiếp là Đảng bộ và nhân dân
các dân tộc của tỉnh Gia Lai.



3
Vì thế, để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh xã hội, ổn
định chính trị ở Gia Lai, sớm đưa Gia Lai vượt qua thách thức và khó khăn,
đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, cần phát
triển con người, đặc biệt là xây dựng nguồn nhân lực của tỉnh có chất lượng,
năng động, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, năng lực, phương pháp, phong
cách công tác tốt.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước thành một nước công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay. Đồng
thời dựa trên yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Gia Lai hiện nay, học
viên xác định vấn đề: “Nguyên lý về sự phát triển với việc phát triển nguồn
nhân lực ở Gia Lai hiện nay”, làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Từ nội dung nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác – Lênin, trên
cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở Gia Lai, đề tài xây dựng một số
giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo cho sự phát triển kinh tế xã hội ở Gia Lai hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy nguyên lý về sự phát triển trong
triết học Mác – Lênin, nguồn nhân lực ở Gia Lai hiện nay làm đối tượng
nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác –
Lênin, công tác phát triển nguồn nhân lực ở Gia Lai đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lôgíc – lịch sử, phương pháp phân
tích và tổng hợp, tổng kết thực tiễn, v.v... Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương
pháp thống kê, so sánh, đối chiếu.



4
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
có 3 chương và 6 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Xung quanh vấn đề nguyên lý về sự phát triển với việc phát triển nguồn
nhân lực đã có khá nhiều công trình, đề tài nghiên cứu đề cập đến ở những góc
độ, những hướng tiếp cận khác nhau, trong đó nổi bật có các công trình sau:
- PGS,TS. Nguyễn Thế Nghĩa, Những chuyên đề Triết học (dùng cho cao
học và nghiên cứu sinh), Nxb Khoa học xã hội, 2007. Cuốn sách là kết quả
tổng hợp của những công trình nghiên cứu và giảng dạy trong nhiều năm của
tác giả, trong đó có nhiều chuyên đề đặc biệt là chuyên đề: Học thuyết về mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển; Những quy luật cơ bản của sự phát triển;
Học thuyết về con người và phát triển nguồn nhân lực. Cuốn sách là tài liệu
quan trọng cho học viên xác định vấn đề về sự phát triển, nguồn nhân lực và
phát triển nguồn nhân lực.
- GS. TS, Nguyễn Cúc, “Phát triển nguồn nhân lực: Cần sự gắn kết trong
chiến lược quy hoạch và chính sách”, tạp chí Triết học, số 9, 2012. Tác giả đã
nêu lên vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và những bất cập trong chính sách đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta và
đề ra một số định hướng để điều chỉnh cơ cấu đào tạo phù hợp với yêu cầu
thực tiễn của đất nước.
- Lương Đình Hải: “Tư duy phát triển và sự phát triển của đất nước” tạp
chí Triết học, số 1, 2011. Bài viết đề cao tư duy phát triển và cho rằng mỗi
thời đại khác nhau cần có một tư duy phù hợp ứng với thời đại đó. Đồng thời
bài viết cũng cho rằng chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố
cơ bản quyết định sự phát triển của quốc gia.


5

Ngoài ra còn kể đến những bài viết, những nghiên cứu của những tác giả
khác, họ cũng đã đề cập đến vai trò của nguồn lực con người và việc phát
triển nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta; đề cập đến vấn
đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; hoặc những luận văn viết về nguyên
lý phát triển và vận dụng vào việc phát triển nguồn nhân lực ở những địa
phương cụ thể, ở những đối tượng cụ thể. Tiêu biểu như các bài viết, công
trình nghiên cứu sau đây:
- PGS.TS Võ Xuân Tiến, “Một số vấn đề về đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 5, (2010).
- Nguyễn Thành Trung, “Vai trò của con người và vấn đề phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí
Triết học, số 7, (2008).
- Nguyễn Thế Kiệt, “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất
lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Triết học, số 6, (2008).
- Nguyễn Nam Tiến, Nguyên lý phát triển của phép biện chứng duy vật
và vận dụng vào sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực trẻ ở Thừa Thiên Huế
hiện nay - Luận văn thạc sỹ, (2005).
- Nguyễn Thị Mỹ Lang, Nguyên lý về sự phát triển với việc nâng cao
nhận thức chính trị cho đội ngũ cán bộ giảng dạy các trường đại học, cao
đẳng tỉnh Quảng Nam - Luận văn thạc sỹ, (2005).
- Nguyễn Thị Hoài Thu, Phát huy nguồn lực con người ở tỉnh KonTum
hiện nay - Luận văn thạc sỹ, (2010).
Bên cạnh những tác phẩm nghiên cứu và đề cập đến nguyên lý phát triển
và phát triển nguồn nhân lực, thì còn có nhiều tài liệu về Tây Nguyên nói
chung và Gia Lai nói riêng, chẳng hạn như một số tài liệu sau đây:


6
- Lâm Tâm - Linh Nga Niêk Đam, Một số nét đặc trưng của Phong tục

các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996. Cuốn sách đã
khắc họa những nét đặc trưng của Tây Nguyên về: tổ chức xã hội, tôn giáo tín
ngưỡng, hôn nhân và về lễ hội. Đây là những tài liệu quý giúp chúng tôi hiểu
được những nét đặc trưng về phong tục các dân tộc Tây Nguyên nó chung và
Gia Lai nói riêng, để có căn cứ khi nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển có
hiệu quả nguồn nhân lực ở Gia Lai hiện nay.
- GS. Đặng Nghiêm Vạn, “Thử bàn về xã hội và gia đình các tộc người ở
Tây Nguyên”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 5/2004. Trên cơ sở
phương pháp luận rút ra từ cuốn “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước” của Ph.Ăngghen đó là phương pháp so sánh lịch sử và
phương pháp tàn dư; và với những tư liệu thu thập được về cư dân ở Tây
Nguyên. Tác giả cho rằng: xã hội các tộc người ở Tây Nguyên (trong đó có
Gia Lai) trước đây là xã hội ở thời kỳ dân chủ quân sự, thuộc mạt kỳ nguyên
thuỷ, chưa chuyển hoá thành xã hội có giai cấp. Về chế độ sở hữu ở những
vùng hẻo lánh, các cư dân Tây Nguyên còn duy trì khá chặt chẽ chế độ công
hữu. Về gia đình, một số tộc người vẫn còn chế độ mẫu hệ, có một số lại đang
chuyển dần sang chế độ phụ hệ.
- GS. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hoá xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb
Khoa học xã hội, 2005. Từ việc mô tả một cách gần như đầy đủ các mặt, phân
tích sâu sắc xã hội truyền thống Tây Nguyên (trong đó có Gia Lai) từ: thể chất
con người Tây Nguyên, đời sống vật chất, phương thức sản xuất, tổ chức xã
hội, đời sống văn hoá, phong tục tập quán, những hệ thống công cụ sản xuất
và tư duy... Tác giả đưa ra 6 hằng số giá trị của văn hoá Tây Nguyên, 4 vấn đề
đặt ra đối với Tây Nguyên, và 8 vấn đề cần làm trước tiên đối với Tây Nguyên
để đưa Tây Nguyên hòa nhập và phát triển. Những số liệu, cứ liệu đưa ra của
tác giả là phong phú và có sức thuyết phục.


7
- GS, TS. Lưu Văn Sùng, “Nhìn lại sự kiện Tây Nguyên năm 2001 và

2004”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 10/2006. Tác giả khẳng định, sự kiện
bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004 là do một số nguyên nhân
sau: Trước hết là do lực lượng phản động được chính quyền Mỹ nuôi dưỡng,
sử dụng nhằm chống phá cách mạng nước ta; thứ hai, nguyên nhân từ việc
khai thác, phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên không thật sự phù hợp với
phương thức, điều kiện sinh sống và canh tác của đồng bào dân tộc bản địa;
thứ ba, nguyên nhân từ sự chủ quan, mất cảnh giác từ phía chúng ta, trong đó
nguy hại nhất là buông lỏng “trận địa lòng dân”. Tác giả rút ra 5 bài học kinh
nghiệm từ việc xử lý các điểm nóng ở Tây Nguyên.
- Trương Minh Dục, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và
quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005. Cuốn
sách chủ yếu đề cập đến vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên.
- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai, “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai
(1945 – 2005)”, Nxb CTQG, Hà Nội, (2009). Cuốn sách có kết cấu gồm 3
phần 12 chương và kết luận. Cuốn sách đã phân tích và đánh giá các sự kiện
lịch sử bảo đảm tính khách quan toàn diện, nội dung của nó đạt được tính
đảng và tính khoa học. Đặc biệt là trong phần thứ nhất (trang 21 đến trang 70)
của cuốn sách đã xác định vị trí địa lí, những biến đổi địa giới và địa danh
hành chính qua các thời kỳ lịch sử; đã phân tích điều kiện tự nhiên, tiềm năng
tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái; điều kiện xã hội, dân tộc và cơ
cấu giai cấp; nêu lên truyền thống lịch sử lâu đời và văn hóa phong phú đặc
sắc của tỉnh Gia Lai. Cuốn sách là cơ sở để học viên khái quát về điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến công tác phát triển nguồn nhân lực ở Gia
Lai trong thời gian qua.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai, Địa chí Gia Lai, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, (1999); Tỉnh ủy Gia Lai, Báo cáo Kiểm điểm nữa nhiệm kỳ thực hiện


8
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (2010-2015), (2013); Uỷ ban

nhân dân tỉnh Gia Lai, Quyết định số 755/QĐ-UBND, “Phê duyệt Đề án đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 của tỉnh Gia Lai” (2010); Uỷ ban
nhân dân tỉnh Gia Lai, Quyết định 877/QĐ-UBND Phê duyệt quy hoạch phát
triển nhân lực tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011-2020, (2011); Uỷ ban nhân dân tỉnh
Gia Lai, Kế hoạch Đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Gia Lai từ năm 2013 đến
năm 2015, (2012).
Tất cả những tài liệu về Gia Lai ở trên là cơ sở để học viên khái quát
thực trạng, quan điểm và các giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Gia Lai
hiện nay.


9
CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN LÝ PHÁT TRIỂN
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TRONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC
Trong lịch sử văn minh nhân loại, loài người đã xây dựng nên nhiều
quan điểm, nhiều lý thuyết về phát triển. Tính đúng đắn, mức độ hoàn chỉnh
của các quan điểm và các lý thuyết đó phụ thuộc vào trình độ nhận thức và lý
tưởng xã hội của con người, nhất là phụ thuộc vào thực tiễn phát triển của xã
hội loài người. Tuy nhiên cho đến trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết
học, các trường phái triết học khác nhau đã nhìn nhận và nghiên cứu về sự
phát triển còn chưa đầy đủ, hoặc diễn đạt nó theo quan điểm duy tâm.
Triết học phương Đông cổ đại có tính đa dạng, phong phú và sâu sắc mà
tiêu biểu là triết học Trung Quốc cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Thời cổ đại cả triết
học Trung Quốc và Ấn độ đều đề cập đến sự vận động và phát triển.
Triết học Ấn Độ Cổ đại với nhiều trường phái khác nhau đã đề cập đến
sự vận động của các sự vật hiện tượng, sự thay đổi của vạn vật qua thời gian
và không gian. Nhưng do hạn chế về mặt nhận thức của thời đại cho nên họ

chỉ có thể, lí giải sự phát triển mang tính duy tâm thần bí. Họ cho rằng, thế
giới vật chất là bao la, vô cùng, vô tận, không ngừng biến đổi, vận động từ
dạng này sang dạng khác, nó tồn tại vĩnh hằng, không mất đi. Ở Ấn Độ Cổ đại
có nhiều hệ thống tôn giáo tồn tại và các hệ thống triết học thường gắn liền
với tôn giáo chẳng hạn như:
Phái Sàmkhya, đây là một trong những trường phái triết học lớn của Ấn
Độ cổ đại. Theo họ, thế giới này là bất biến, nhưng luôn luôn vận động biến
đổi, chứ không phải bất biến đứng yên. Phái Sàmkhya cho rằng có sự tồn tại
của vật chất đầu tiên và “Vật chất là vĩnh hằng nhưng không đứng yên, biến


10
đi không ngừng từ dạng này sang dạng khác” [65, tr. 126], theo quan niệm
của trường phái này thì thế giới được cấu tạo bởi sự biến đổi của các yếu tố:
Sattva (là trí tuệ, trí năng với thuộc tính nhẹ, sáng, tươi vui), Rajas (là năng
lượng với những thuộc tính động, kích thích), Tamas (là khối lượng, quán tính
với những thuộc tính nặng, khó khăn). Chính sự tác động giữa các yếu tố nói
trên đã phá vỡ sự cân bằng vốn có của thế giới vật chất và tạo nên sự biến đổi,
phát triển.
Phái Jaina, phái này cũng đã diễn tả được sự biến đổi không ngừng của
thế giới từ dạng này sang dạng khác chứ không đứng yên. “Họ cho rằng tồn
tại bao giờ cũng “có thể” ở dạng nào đó” [65, tr. 133]. Để giải thích cho mọi
sự tồn tại trên thế giới phái Jaina đưa ra khái niệm “tồn tại đầu tiên”. Chính
cái “tồn tại đầu tiên” đã sản sinh ra muôn vật và để duy trì thế giới đa dạng nó
cần tồn tại một cách bất biến, vô thủy, vô chung.
Phái Lokàyata, “Lokàyata là triết học duy vật triệt để nhất trong các
trường phái triết học Ấn Độ cổ” [65, tr. 141]. Phái này khẳng định thế giới sự
vật hiện tượng có nguồn gốc từ vật chất và luôn luôn vận động biến đổi, thế
giới này có nguồn gốc từ bốn yếu tố vật chất là đất, nước, lửa, không khí, mỗi
yếu tố đều tồn tại trong sự vận động và tác động lẫn nhau chính từ đó cấu

thành nên vạn vật, là cơ sở tạo nên sự biến đổi đa dạng phong phú của thế giới
vật chất.
Sâu sắc hơn hết, Triết học Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng
như nhân sinh bằng quy luật “Nhân - quả”. Theo quy luật này “nhân” và
“quả” không bao giờ bị gián đoạn, hỗn loạn, nhân nào thì quả ấy. Họ quan
niệm bản chất của sự tồn tại là một dòng chuyển biến liên tục (vô thường). Sự
vật, hiện tượng luôn luôn biến đổi theo một chu trình của luật nhân - quả, kết
quả của quá trình trước có thể là nguyên nhân của quá trình sau và cứ tiếp
diễn như vậy. Tất cả các sự vật hiện tượng trong vũ trụ (vạn pháp) luôn biến


11
đổi không ngừng theo quy trình: sinh - trụ - dị - diệt, thành - trụ - hoại - không
và đều tuân theo luật nhân - quả, theo triết lý “nhân duyên khởi”. Triết lý Phật
giáo cho rằng, “Bản chất của sự tồn tại của thế giới là một dòng biến chuyển
liên tục” [65, tr. 135]. Dòng biến chuyển ấy là vô thủy, vô chung, vô cùng, vô
tận, không có khởi đầu không có kết thúc. Với triết lý “nhân duyên khởi”,
Phật giáo coi vạn vật trong vũ trụ đều có nguyên nhân tự thân, không do một
đấng thần linh nào tạo ra cả. Sự đa dạng của tồn tại là do “nhân duyên” tạo
ra. Quan niệm về sự phát triển trong triết học Phật giáo đã có nhiều điểm tiến
bộ song họ bị hạn chế khi thừa nhận sự phát triển đạt tới một giới hạn là cõi
“niết bàn”.
Triết học Trung Quốc Cổ đại cũng có những lý luận hết sức sâu sắc khi
bàn về sự phát triển. Họ giải thích sự vật, hiện tượng trên lập trường duy tâm,
có quan điểm về sự vận động biến đổi không ngừng, nhưng chỉ dừng lại ở
một vòng tuần hoàn nào đó, xuất phát điểm của sự vận động biến đổi nhiều
khi được giải thích một cách huyền bí; khó nắm bắt; khó nhìn nhận, họ cũng
chưa đưa ra được nguồn gốc, phương thức khuynh hướng của sự phát triển,
họ mới chỉ ra sự vận động đơn thuần.
Ở Trung Quốc Cổ đại, có học thuyết Âm - Dương, họ thừa nhận có sự

vận động và biến đổi và họ cho rằng sự vận động là không ngừng, sự vật luôn
luôn biến đổi. Học thuyết Âm - Dương cho rằng, sự vận động và biến đổi bắt
nguồn từ hai thế lực đối lập Âm và Dương, chúng đối lập và thống nhất trong
sự chuyển hóa lẫn nhau, vừa khẳng định vừa phủ định nhau trong suốt quá
trình tồn tại của mình, họ lý giải sự hình thành vạn vật bắt đầu từ yếu tố Thái
cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương), Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương,
Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm), Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm,
Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), Bát quái sinh ra vạn vật vô cùng vô tận, đó
là một quy trình tất yếu.


12
Ngoài ra còn có Thuyết Ngũ Hành, thuyết này dựa vào năm yếu tố khởi
thủy: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, năm yếu tố này là tượng trưng cho tính
chất, màu sắc và phương hướng, chúng không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trái
lại chi phối lẫn nhau theo nguyên tắc tương sinh, tương khắc. “Họ cho rằng
quá trình tương sinh (bồi đắp, nuôi dưỡng) và tương khắc (ước chế) là quá
trình sinh diệt, và thực chất của quá trình tồn tại của vật chất là quá trình sinh
- diệt không thôi đó” [65, tr 53].
Theo Đạo giáo của Lão Tử, ông cho rằng mọi sự vật đều biến hóa sinh
thành từ “Đạo” mà ra. Lão Tử khẳng định chính sự liên hệ tác động giữa các
mặt các khuynh hướng đối lập nhau trong sự vật hiện tượng đã tạo ra sự vận
động biến đổi không ngừng của vũ trụ. Tư tưởng biện chứng của Lão Tử tuy
mang những yếu tố hợp lý nhưng nhìn chung về cơ bản nó vẫn mang tính chất
tự phát ngây thơ dựa trên những kinh nghiệm có tính trực quan cảm tính, chủ
yếu mới chỉ dừng lại ở việc mô tả biến chuyển của sự vật, hiện tượng xảy ra
trong tự nhiên cũng như trong xã hội, nó chưa có cơ sở để vạch ra bản chất
bên trong của sự biến đổi.
Ở phương Tây, ngay từ thời Hy lạp Cổ đại đã xuất hiện mầm mống đầu
tiên mang tính biện chứng về sự phát triển, thời kỳ này đã có nhiều nhà triết

học đề cập và lý giải về sự phát triển. Song phải đến nhà triết học Hêraclit thì
những quan niệm về vận động, phát triển mới tồn tại với tư cách là một học
thuyết, câu nói của Hêraclit: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một
dòng sông” đã khẳng định sự vận động là vĩnh viễn, hoặc như: “Mọi vật đều
tồn tại cũng như không tồn tại, vì mọi vật đang trôi qua, mọi vật đều không
ngừng biến hóa, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”[38,tr.34-35].
Theo Hêraclit thì vận động của sự vật gắn liền với thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Chính mâu thuẫn tồn tại một cách phổ biến trong sự vật
đã trở thành nguồn gốc phát triển của vạn vật. “Vũ trụ là một thể thống nhất,


13
nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực
lượng đối lập nhau” [65, tr. 158]. Như vậy theo Hêraclit thì, đấu tranh chính
là quy luật phát triển của vũ trụ. V.I.Lênin đã đánh giá cao vai trò những quan
niệm của Hêraclit và cho rằng những quan niệm đó đã thực hiện một trong
những điểm cơ bản của phép biện chứng, mọi cái chỉ xảy ra một lần, không
lặp lại mặc dù giữa các sự vật có thể có những kế thừa nhất định.
Một trong những nhà triết học duy vật tiêu biểu của triết học Hy Lạp cổ
đại đó là Đêmôcrit, ông cho rằng khởi nguyên của các thế giới là nguyên tử.
Vận động được xem là bản chất của nguyên tử, “Mọi biến đổi của sự vật thực
chất là sự thay đổi trình tự sắp sếp của các nguyên tử tạo nên chúng” [65, tr. 173].
Đêmôcrit tán đồng với quan điểm của Hêraclit khi cho rằng từ sự vật bé nhất
cho đến thế giới không có gì là trường tồn cả, tất cả đều là một quá trình biến
đổi không ngừng, Theo ông, “Các thế giới cũng nằm trong quá trình biến đổi
vận động không ngừng” [65, tr. 174]. Dựa vào nguyên tử luận, Đêmôcrit đã
giải thích sự vận động và phát triển của muôn vật có nguồn gốc từ bên trong
sự vật, sự vận động, phát triển không phụ thuộc vào những thế lực thần bí bên
ngoài, không có gì sinh ra hay mất đi một cách ngẫu nhiên mà đều có nguyên
nhân của nó. Đêmôcit đã tiến đến khẳng định tính quy luật trong sự phát triển

của các sự vật. Tuy nhiên ông vẫn không thoát khỏi các hạn chế khi đã lẫn lộn
vật chất với ý thức, coi ý thức và linh hồn không phải là hiện tượng tinh thần
mà là hiện tượng vật chất, đồng nhất linh hồn con người như là tổng thể của
nguyên tử. Ông cho rằng linh hồn chết cùng thể xác.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại ngoài những tư tưởng mang khuynh
hướng duy vật, thì bên cạnh đó những tư tưởng duy tâm về sự vận động và
phát triển cũng hết sức phong phú. Nổi bật phải kể đến quan niệm về thế giới
ý niệm của Platon và thuyết hình dạng của Aristot.


14
Theo Platon, thì sự vật chỉ là hiện thân của “ý niệm”, thế giới ý niệm là
thế giới bản nguyên tồn tại độc lập với thế giới hiện thực và nó chi phối hiện
thực. Học thuyết ý niệm là vấn đề trung tâm của hệ thống triết học
Platon...Theo Platon “thế giới ý niệm” là cái khởi đầu, cái có trước tất cả, sinh
ra tất cả và chi phối tất cả, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới mà chúng ta
đang sống chẳng qua chỉ là sự mô phỏng lại từ thế giới ý niệm, là bản sao của
thế giới ý niệm, thế giới hiện thực chỉ là cái bóng của thế giới ý niệm, cũng
chính vì vậy mà tự nhiên và con người phụ thuộc vào quyền lực thần bí…
Quan niệm duy tâm về thế giới đã chi phối quan niệm về xã hội và con người.
Quan niệm này của Platon đã phủ nhận sạch trơn sự vận động, phát triển của
sự vật, cho rằng bất cứ sự vật nào cũng chỉ là sự thể hiện đặc thù các ý niệm
tương ứng dưới dạng vật chất.
Aristot, người được C.Mác đánh giá là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ
đại”, Ph.Ăngghen lại nói đó là “khối óc toàn diện nhất” trong số triết gia cổ
đại Hi Lạp. Theo Aristot khởi nguyên của vạn vật, của thế giới đã có vật chất,
đó là vật chất thuần túy chưa bị giới hạn trong bất kỳ một hình thức nào cả.
Tồn tại trong một trạng thái không tồn tại, nghĩa là nó chưa là một cái gì cả,
nhưng lại tồn tại với tư cách là khả năng trở thành một cái gì đó. Dạng vật
chất này không do ai sinh ra, nó tồn tại mãi mãi, nhưng là tồn tại thụ động.

Chúng trơ ỳ và mãi mãi trơ ỳ nếu như không được kết hợp với một hình thức
để trở thành một sự vật cụ thể. Hêghen đã nhận xét quan điểm đó của Aritstot:
“vật chất chỉ là cái nền tảng khô cứng mà trên đó diễn ra các biến đổi, và trong
những biến đổi ấy vật chất chỉ là cái chịu đựng” [65, tr. 119]. Aristot quan niệm
sự tồn tại xuất phát từ bốn nguyên nhân cơ bản là: Hình dạng; vật chất; vận
động; mục đích. Sự vật nào có đầy đủ những nguyên nhân trên mới tồn tại
được. Đồng thời ông chia vận động ra thành bốn loại: biến hóa về bản chất,
biến hóa về số lượng, biến hóa về tính chất, biến hóa về vị trí. Theo Aristot,


15
vận động cũng chỉ là một khía cạnh, nguyên nhân của hình dạng, ông không
thừa nhận sự vận động tự thân của vật chất mà mong muốn đi tìm nguyên nhân
thực sự của vận động bên ngoài sự vật. Đối với ông sự phát triển được hiểu như
là sự chuyển dịch giản đơn trong không gian, ông đã không trình bày được sự
phức tạp, biến hóa của sự phát triển. Đó chính là điểm hạn chế của ông, nó thể
hiện sự dao động trong lập trường duy vật và duy tâm của Aristot.
Sang thời Tây âu Trung cổ, triết học bị trói chặt bởi thần học, giáo hội và
nhà thờ họ xem xét thế giới dưới những quan niệm cứng nhắc, không có sự vận
động, thế giới hoàn toàn bị chi phối bởi những lực lượng siêu nhiên bên ngoài.
Thời Cận đại, khi tư duy không còn hướng đến những đối tượng được
gợi mở trong kinh thánh, đã thoát khỏi những quan niệm giáo điều của thời
Tây âu Trung cổ, thay vào đó là sự hướng đến với giới tự nhiên. Các triết gia
thời Cận đại quan niệm: “Tất cả những cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả
cái gì là cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà
người ta cho là vĩnh cửu thì trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh
rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và tuần hoàn vĩnh
cửu” [38, tr. 477]. Tuy nhiên với sự phát triển như vũ bão của khoa học cơ
giới lúc bấy giờ và nó đã tạo ra một lượng máy móc khổng lồ, cho nên
phương pháp siêu hình được xem như “chiếc đũa thần” và nó tồn tại mạnh mẽ

trong tư tưởng các nhà triết học thời kỳ này. Các nhà triết học thời kỳ Cận đại
xem xét sự vật một cách hoàn toàn cô lập, tách rời các sự vật khác, nằm cạnh
nhau mà không nhìn thấy nhau, sự tồn tại hay tiêu vong cũng không liên quan
gì đến nhau, họ xem xét sự vật trong trạng thái nằm yên bất động, không vận
động biến đổi. Những nhà siêu hình cho rằng sự phát triển chỉ là sự tăng lên
hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, một sự trưởng thành đơn giản, không thấy
được sự thay đổi về mặt chất và nếu có sự thay đổi về chất thì quá trình đó cũng
diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không phải là sự chuyển hóa từ sự vật hiện


16
tượng này thành sự vật hiện tượng khác theo xu hướng xuất hiện cái mới cái tiến
bộ. Quan niệm về sự phát triển của Giới tự nhiên của các nhà triết học ở thế kỷ
XVIII được Ph.Ăngghen nhận xét như sau: “Họ cho rằng Giới tự nhiên sinh ra
như thế nào thì cứ vĩnh viễn như thế không thay đổi” [38, tr. 469].
Với phương pháp tư duy siêu hình, các nhà duy vật ở vào thế kỷ XVII –
XVIII đã nhìn thấy sự tự vận động của thế giới, nhưng sự giải thích về sự vận
động của các nhà triết học siêu hình này quá giản đơn, họ chỉ thấy được sự
vận động bên ngoài của sự vật, sự vận động cơ học, họ cũng chưa thấy được
mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động, họ không thấy được những mối liên hệ
nội tại của sự vật. Sự vận động theo họ chỉ là sự biến đổi cơ học, là sự dịch
chuyển trong không gian, ở bề ngoài chứ không thấy nhũng xung đột bên
trong của sự vật, đối với họ vận động không trở thành nền tảng của những
biến đổi, phát triển của giới tự nhiên, không trở thành phổ biến và tất yếu.
V.I.Lênin đánh giá: “Ở thế kỷ XX (và ngay hồi thế kỷ XIX) mọi người đều
đồng ý với “nguyên tắc phát triển”, nhưng sự đồng ý nông cạn, thiếu suy nghĩ,
ngẫu nhiên, phixilanh ấy là một loại đồng ý mà người ta dùng để bóp nghẹt và
tầm thường hóa chân lý” [37, tr. 270].
Triết học Cổ điển Đức, chịu ảnh hưởng từ tiền đề tư tưởng về sự phát
triển mang tính biện chứng ở Hy lạp Cổ đại. Quan niệm về sự phát triển cũng

như nguồn gốc của nó được thể hiện đầy đủ hơn trong triết học Cổ điển Đức.
Thời kỳ này triết học thế giới ghi nhận những nhà tư tưởng có tầm vóc thời
đại, tuy nhiên đáng kể nhất là những nhà triết học như: Cantơ, Hêghen,
Phoiơbăc. Những tư tưởng triết học của các ông đã khắc phục những quan
niệm triết học trước đó bằng những quan niệm rõ ràng hơn về quá trình vận
động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tự nhiên.


17
Cantơ, một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng
phương Tây trước Mác. Theo như đánh giá của Hêghen thì Cantơ chính là
điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại.
Ở thời kỳ tiền phê phán, Cantơ đã đưa những quan niệm hết sức tiến bộ
về nguyên lý phát triển. Ông tuyên bố: “hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng
thế giới từ nó, nghĩa là hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế
giới đã ra đời từ vật chất như thế nào” [65, tr. 379]. Theo Cantơ, thế giới này
được cấu tạo từ vật chất và luôn luôn vận động, biến đổi, tất cả các sự vật đều
nằm trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Thế
giới là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của tự nhiên theo hướng ngày
càng hoàn thiện. Ông cho rằng không chỉ mọi sự vật trong thế giới chúng ta
mà cả toàn bộ vũ trụ nói chung đều nằm trong quá trình phát sinh phát triển
và diệt vong như một quy luật. Theo học thuyết của Cantơ, không chỉ có trái
đất mà cả vũ trụ là kết quả của sự tiến hóa lâu dài của chính nó, “…mà trái đất
và tất cả hệ thống mặt trời thể hiện ra như là một cái gì đã hình thành trong
thời gian” [12, tr. 422]. Ngoài giả thuyết về nguồn gốc và sự hình thành vũ trụ
từ những đám tinh vân, Cantơ còn có giả thuyết khoa học về sự lên xuống của
thủy triều do sức hút của mặt trăng và trái đất. Ông cho rằng mỗi thiên thể
trong vũ trụ ra đời hay kết thúc chỉ là sự biến đổi từ trạng thái này sang trạng
thái khác.
Học thuyết về nguồn gốc và hình thành vũ trụ của Cantơ đã đi vào lịch

sử với ý nghĩa cách mạng, vì nó tiến bộ hơn hẳn so với các giả thuyết trước
đây về vũ trụ, chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật, đem lại quan niệm mới
trong việc xem xét sự phát triển của thế giới. Trong tác phẩm “Chống
Đuyrinh” Ph.Ăngghen đã đánh giá cao hai giả thuyết khoa học này của Cantơ
bởi hai giả thuyết khoa học này đã đem lại một quan điểm biện chứng về sự
phát triển về mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong vũ trụ, đặc biệt phát


18
minh thứ nhất đã đem lại quan điểm lịch sử vào địa hạt vạn vật học lý thuyết.
Đến thời kỳ phê phán, do chịu ảnh hưởng của chủ nghiã duy tâm nên Cantơ
phủ nhận chính những dự đoán thiên tài của mình về nguồn gốc sự vận động
và phát triển. Cantơ đã có sự dao động giữa thế giới quan duy vật với thế giới
quan duy tâm, giữa nhất nguyên và nhị nguyên, giữa khả tri và bất khả tri.
Trước Mác, Hêghen là người trình bày sự vận động và phát triển một
cách khúc chiết chặt chẽ nhất. Quan điểm phát triển của Hêghen chính là cái
nhìn mới trong triết học. Ph.Ăngghen đã nhận xét như sau về Hêghen trong
tác phẩm “Chống Đuyrinh”:
“Nền triết học cổ điển Đức đã đạt tới đỉnh cao của nó
trong hệ thống của Hêghen, trong đó lần đầu tiên - Và đây là
công lao lớn nhất của ông – toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và
tinh thần được trình bày như là một quá trình - nghĩa là được
nhận thức trong vận động, biến đổi, biến hóa và phát triển không
ngừng và đã cố chứng minh mối liên hệ nội tại của sự vận động
và phát triển ấy. Theo quan điểm ấy lịch sử loài người không còn
thể hiện ra là một mớ hỗn độn kinh khủng bao gồm những hành
vi bạo lực vô nghĩa và đáng phải kết tội như nhau trước tòa án
của lý tính triết học ngày nay đã trưởng thành, và tốt hơn là
người ta nên quên chúng đi thật nhanh - mà là một quá trình phát
triển của bản thân loài người. Và nhiệm vụ của tư duy hiện nay

là phải theo dõi bước tiến tuần tự của quá trình ấy qua tất cả
những bước lầm lạc của nó và chứng minh tính quy luật bên
trong của nó qua tất cả những cái ngẫu nhiên bề ngoài. Việc
Hêghen không giải quyết nhiệm vụ ấy ở đây không quan trọng.
Công lao lịch sử của Hêghen là đề ra nhiệm vụ ấy” [32, tr. 39-40].


19
Trong hành trình đi tìm bản nguyên của thế giới, Hêghen đã được sự cổ
vũ đầy ấn tượng của học thuyết ý niệm của Platon một triết gia thời Hy Lạp
cổ đại. Trong triết học của Hêghen “ý niệm tuyệt đối” là phạm trù xuất phát
và là trung tâm.
Xuất phát từ thuyết “ý niệm tuyệt đối” Hêghen coi sự vận động, phát
triển không đơn thuần là tăng hay giảm về lượng hay sự dịch chuyển vị trí của
vật về không gian, mà phát triển là một quá trình phủ định biện chứng, là quá
trình cái mới ra đời thay thế cái cũ trên cơ sở kế thừa những yếu tố của cái cũ
mà chúng có khả năng thúc đẩy sự phát triển. Theo Hêghen mọi sự vật trong
thế giới chúng ta đều phát triển theo quy luật biện chứng, phát triển là một
quy luật tất yếu bên trong của sự vật. Trước đây nhiều người hiểu phát triển
như là một sự chuyển động cơ học hay sự chuyển dần về mặt lượng, thì
Hêghen lại cho rằng phát triển là sự thay đổi dần dần về lượng dẫn tới sự biến
đổi nhảy vọt về chất, là sự nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập trong lòng mỗi sự vật, là sự phủ định quan không gì có thể cưỡng nổi. Hệ
thống triết học của Hêghen được thiết định theo hình thức tam đoạn luận:
Chính đề - phản đề - hợp đề. Tương ứng với ba giai đoạn phát triển ý niệm
tuyệt đối: Tinh thần chủ quan, tinh thần khách quan, tinh thần tuyệt đối. Ba
giai đoạn này là biểu hiện của quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn các
mặt đối lập vật chất và tinh thần, khách thể và chủ thể trong bản thân ý niệm
tuyệt đối. Đó cũng là biểu hiện của mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên.
Con người không chỉ là chủ thể mà còn là kết quả của quá trình hoạt động.

Hêghen tuy đưa ra những quan điểm biện chứng về sự phát triển nhưng
lại đứng trên lập trường duy tâm khách quan nên đã thiếu khoa học trong suy
luận. Những quan điểm trên của Hêghen mới chỉ dừng ở góc độ biện chứng
của khái niệm chứ chưa nói chính xác biện chứng khách quan của duy vật.
Bởi Hêghen chỉ coi sự vật hiện tượng chỉ là một dạng tồn tại khác của “ý


×