Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tăng cường kiểm soát chi phí và doanh thu tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mai Linh- Kon Tum.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 91 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi kinh tế xã hội phát triển thì nhu cầu đi lại ngày càng tăng. Nắm bắt
được tình hình này, nhiều công ty vận tải được thành lập và đã có nhiều đóng góp
trong lĩnh vực giao thông vận tải nói chung và taxi nói riêng. Vì thế, thị trường
vận tải càng mở rộng và có nhiều tiềm năng, nhưng cũng đặt ra cho các doanh
nghiệp nhiều thách thức về chính sách, chất lượng phục vụ và giá cả.
Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam từ những năm đổi mới cho đến nay đã có
những bước phát triển vượt bật, đặc biệt từ khi gia nhập vào Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), vị thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên thương
trường quốc tế. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh,
thường xuyên cải tiến chất lượng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
khách hàng. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp phải tìm cho mình một lợi thế cạnh
tranh nhất định. Các doanh nghiệp đang đứng trước những cơ hội và thách thức để
tồn tại, đòi hỏi không ngừng nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm, dịch
vụ. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải kiểm soát được tình hình hoạt động
kinh doanh, từng bước giảm chi phí và tăng doanh thu, để thu được lợi nhuận tối
đa. Do vậy, một trong những biện pháp mà doanh nghiệp nào cũng tính đến là
việc kiểm soát chi phí và cùng với nó là kiểm soát doanh thu có ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình phát triển của doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mai Linh - Kon Tum được
thành lập vào tháng 11/2007 trực thuộc Công ty Cổ phần Tập đoàn Mai Linh Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên và là thành viên của Công ty cổ phần Tập đoàn Mai
Linh (Mai Linh Group - MCL), sau hơn 5 năm kinh doanh vận tải taxi trên địa
bàn Tây Nguyên, với sản phẩm chủ yếu là hoạt động dịch vụ luôn đối mặt với thị
trường đầy biến động thì vấn đề hoàn thiện kiểm soát chi phí và doanh thu càng
trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “ Tăng cường
kiểm soát chi phí và doanh thu tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành


viên Mai Linh - Kon Tum” để làm luận văn tốt nghiệp.


2

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng kiểm soát chi phí và
doanh thu, luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường kiểm soát chi phí và doanh
thu nhằm tăng hiệu quả kinh doanh tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành
viên Mai Linh - Kon Tum (Công ty TNHH MTV Mai Linh – Kon Tum).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm chi phí, doanh thu trong kinh doanh dịch
vụ vận tải taxi, tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động kinh doanh và đề xuất các
giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát chi phí và doanh thu ở Công ty TNHH
MTV Mai Linh - Kon Tum.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong giới hạn hoạt động kinh doanh vận tải taxi tại
Công ty TNHH MTV Mai Linh - Kon Tum (2009 – 2011).
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu liên quan đến đề tài nhằm xác
định cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng và các giải pháp.
4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp phỏng vấn, điều tra, quan sát nhằm tìm hiểu thực trạng hoạt
động kiểm soát chi phí, doanh thu tại Công ty .
- Phương pháp tổng hợp đánh giá nhằm tìm ra các mặt mạnh và yếu, những
thuận lợi và khó khăn trong kiểm soát chi phí, doanh thu ở Công ty.
- Phương pháp chuyên gia nhằm thu thập thông tin khảo chứng, kiểm
nghiệm tính hợp lý và tính khả thi của các giải pháp được xác lập.
5. Kết cấu của luận văn: Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm soát chi phí và doanh thu trong doanh

nghiệp vận tải taxi.
Chương 2: Thực trạng về kiểm soát chi phí và doanh thu tại Công ty TNHH
MTV Mai Linh - Kon Tum.
Chương 3: Giải pháp tăng cường kiểm soát chi phí và doanh thu tại Công ty
TNHH MTV Mai Linh - Kon Tum.


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT CHI PHÍ VÀ DOANH THU TRONG
DOANH NGHIỆP VẬN TẢI TAXI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI PHÍ VÀ DOANH THU TRONG DOANH
NGHIỆP VẬN TẢI TAXI
1.1.1. Khái niệm và nội dung chi phí dịch vụ vận tải taxi
1.1.1.1. Khái niệm chi phí dịch vụ vận tải taxi
Chi phí là toàn bộ các hao phí về lao động sống cần thiết và lao động vật
hóa mà doanh nghiệp đã chi ra trong một thời kỳ nhất định, biểu hiện bằng tiền và
một số chi phí cần thiết khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, chi phí
còn được hiểu như là một khoản hao phí bỏ ra để thu được của cải hoặc một dịch
vụ phục vụ nào đó, khoản hao phí này có thể được tính bằng tiền chi ra hoặc tài
sản chuyển nhượng. Chi phí dịch vụ vận tải taxi là những chi phí cần thiết để tổ
chức kinh doanh, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định.
Dịch vụ vận tải taxi là ngành sản xuất vật chất đặc biệt, thực hiện việc di
chuyển hành khách từ nơi này đến nơi khác. Khách sử dụng sản phẩm dịch vụ vận
tải trước khi họ phải trả tiền. Và cũng do tính chất sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
dịch vụ taxi không thể tồn kho hoặc lưu kho được, vậy cho nên dịch vụ khách
hàng cũng chính là sản phẩm không mang hình thái vật chất và được đo bằng các
chỉ tiêu: số khách, số km/ hành khách đã được vận chuyển. Do đó, chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp cũng không kết tinh được trong thực thể của sản phẩm.

Quá trình sản xuất ở các doanh nghiệp dịch vụ vận tải taxi cũng là quá trình
các doanh nghiệp này tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của mình. Hay nói cách khác,
không có sự tách biệt giữa giai đoạn sản xuất và giai đoạn tiêu thụ sản phẩm. Do
vậy, chi phí sản xuất của dịch vụ vận chuyển cũng chính là giá vốn của dịch vụ
mà DN đã bán cho khách hàng và ít có chi phí sản phẩm dở dang.
Chi phí nhiên liệu, tiền lương phải trả cho lái xe và khấu hao phương tiện
vận chuyển là những chi phí cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí.
Những đặc điểm trên có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và quá trình
phát sinh chi phí trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải taxi.


4

1.1.1.2. Nội dung chi phí dịch vụ vận tải taxi
Xét theo nội dung, chi phí dịch vụ vận tải taxi bao gồm:
- Tiền lương và các khoản trích theo lương của lái xe, nhân viên kỹ thuật,
nhân viên bảo dưỡng, cán bộ quản lý;
- Chi phí nhiên liệu là chi phí về xăng cần cho quá trình vận chuyển;
- Chi phí vật liệu, phụ tùng thay thế;
- Chi phí săm lốp;
- Chi phí công cụ, dụng cụ;
- Chi phí khấu hao TSCĐ và các tài sản khác;
- Chi phí dịch vụ mua ngoài;
- Chi phí khác bằng tiền.
Để quản lý kịp thời và có hiệu quả, các nhà quản trị doanh nghiệp luôn cần
biết các chi phí trên được chi ra cho từng bộ phận của DN.
1.1.2. Phân loại chi phí dịch vụ vận tải taxi
1.1.2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động và công dụng của chi phí

Theo cách phân loại này chi phí được chia ra:

- Chi phí sản xuất: Là toàn bộ chi phí có liên quan gắn liền với việc sản
xuất sản phẩm, dịch vụ của DN gồm có:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí nhiên liệu được sử dụng để
vận hành hệ thống phương tiện vận chuyển, góp phần trực tiếp vào việc tạo ra
dịch vụ vận chuyển nhưng chúng không kết tinh vào thực thể của sản phẩm (sản
phẩm dịch vụ vận chuyển không có hình thái vật chất).
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Là chi phí tiền lương và các khoản trích theo
lương, các khoản phụ cấp cho lái xe.
+ Chi phí sản xuất chung: Là chi phí khấu hao phương tiện vận chuyển,
lương nhân viên sửa chữa, phụ tùng thay thế và các dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí ngoài sản xuất: Là toàn bộ những chi phí cần thiết để tổ chức và
thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm dịch vụ, điều hành và quản lý DN gồm có:
+ Chi phí bán hàng: Là các khoản chi phí DN chi ra để phục vụ cho công
tác tiêu thụ dịch vụ trong kỳ như: chi phí cho công tác quảng cáo, tiếp cận khách
hàng, hoa hồng môi giới, cuộc gọi tổng đài.


5

+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là chi phí phục vụ cho công tác quản lý
chung của doanh nghiệp như: chi phí tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho Ban
giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí văn phòng phẩm, chi phí
điện nước, chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ cho văn phòng, chi phí thuê văn
phòng, chi phí về các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm.
+ Chi phí tài chính: Là những chi phí và các khoản lỗ liên quan đến các
hoạt động về vốn như: chi phí liên doanh, liên kết, thuê tài chính, chi phí đầu tư
tài chính, chi phí lãi vay ngân hàng, lỗ liên doanh.
+ Chi phí khác là các chi phí và các khoản lỗ do các sự kiện hay các nghiệp
vụ bất thường không thể dự kiến được như: chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ,
giá trị tổn thất sau khi đã giảm trừ, tiền phạt do vi phạm hợp đồng, các khoản

phạt, truy thu thuế, xử lý tai nạn ngoài phạm vi bảo hiểm.
1.1.2.2. Phân loại theo cách ứng xử của chi phí
Cách ứng xử của chi phí là thuật ngữ biểu thị sự thay đổi của chi phí tương
ứng với các mức độ hoạt động đạt được. Khi mức độ hoạt động càng cao thì
lượng chi phí phát sinh càng lớn và ngược lại, tuy nhiên cũng có một số loại chi
phí có tính chất cố định, không phụ thuộc theo mức độ hoạt động đạt được trong
kỳ và ngoài ra cũng có một số chi phí khác mà cách ứng xử của chúng là sự kết
hợp. Chính vì vậy theo cách ứng xử, chi phí của DN được chia ra làm ba loại: Chi
phí khả biến, chi phí bất biến và chi phí hỗn hợp.
- Chi phí khả biến (biến phí): Là chi phí thay đổi theo tỷ lệ với mức độ hoạt
động của DN. Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải taxi, các khoản chi
phí biến đổi bao gồm chi phí nhiên liệu tiêu hao, tiền lương lái xe, săm lốp,...
- Chi phí bất biến (định phí): Là các chi phí không có sự thay đổi theo các
mức độ hoạt động của DN. Với dịch vụ vận tải taxi, chi phí bất biến thường là chi
phí khấu hao TSCĐ, tiền lương nhân viên quản lý, quảng cáo...
- Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm cả yếu
tố chi phí khả biến và chi phí bất biến. Ở một mức độ hoạt động cụ thể nào đó, chi
phí hỗn hợp mang đặc điểm của chi phí khả biến. Hiểu theo một cách khác, phần
bất biến trong chi phí hỗn hợp thường là bộ phận chi phí cơ bản để duy trì các


6

hoạt động ở mức độ tối thiểu, còn phần khả biến là bộ phận chi phí sẽ phát sinh tỷ
lệ với mức độ hoạt động tăng thêm. Trong các doanh nghiệp dịch vụ, chi phí hỗn
hợp cũng chiếm một tỷ lệ khá cao, chẳng hạn như: chi phí điện thoại, chi phí bảo
trì máy móc thiết bị.
1.1.2.3. Phân loại chi phí sử dụng trong kiểm tra và ra quyết định
Để phục vụ cho việc kiểm tra và ra quyết định trong quản lý, chi phí của
DN còn được xem xét ở nhiều khía cạnh khác. Nổi bật nhất là việc xem xét trách

nhiệm của các cấp quản lý đối với các loại chi phí phát sinh, thêm nữa các nhà
quản lý nên nhìn nhận đúng đắn sự thích đáng của các loại chi phí khác nhau phục
vụ cho việc phân tích, so sánh để ra quyết định lựa chọn phương án tối ưu trong
các tình huống, theo đó chi phí được chia làm hai loại:
- Chi phí kiểm soát được: Là khoản chi phí mà nhà quản trị ở một cấp nào
đó có thể kiểm soát và tác động đến mức độ của khoản chi phí đó; quyết định sự
phát sinh, thời gian phát sinh và độ lớn của chi phí.
- Chi phí không kiểm soát được: Là khoản chi phí mà nhà quản trị ở một
cấp nào đó không thể tác động, kiểm soát và quyết định được sự phát sinh
Việc nhận diện và phân loại chi phí là kiểm soát được hay không kiểm soát
được tùy thuộc vào hai yếu tố cơ bản:
+ Đặc điểm, nguồn gốc phát sinh của chi phí.
+ Sự phân cấp quản lý trong doanh nghiệp.
Xác định chi phí kiểm soát được và không kiểm soát được là vấn đề quan
trọng khi sử dụng thông tin chi phí, giúp nhà quản lý hoạch định được ngân sách
cho từng bộ phận, đánh giá hiệu quả hoạt động và trách nhiệm của từng cá nhân.
1.1.2.4. Phân loại chi phí trong quan hệ với quá trình hoạt động doanh nghiệp
- Chi phí cơ bản là các chi phí liên quan trực tiếp đến quy trình công nghệ
sản xuất sản phẩm.
- Chi phí chung là các chi phí dùng vào tổ chức, quản lý và phục vụ SXKD
có tính chất chung.
Trong kinh doanh dịch vụ vận tải taxi, chi phí cơ bản gồm: chi phí nhiên
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, khấu hao phương tiện vận chuyển.


7

Chi phí chung gồm: tiền lương của nhân viên và cán bộ quản lý, khấu hao
TSCĐ sử dụng chung trong hoạt động kinh doanh, phụ tùng thay thế, điện nước
và các chi phí mua ngoài.

1.1.3. Khái quát về doanh thu trong doanh nghiệp vận tải taxi
1.1.3.1. Khái niệm doanh thu dịch vụ
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá trị lợi ích kinh tế DN
thu được trong năm, phát sinh từ các hoạt động tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm, dịch
vụ của DN, được khách hàng chấp nhận thanh toán.
1.1.3.2. Đo lường và ghi nhận doanh thu dịch vụ vận tải
Doanh thu cung cấp dịch vụ là số tiền mà DN thu được hoặc sẽ thu được từ
khối lượng dịch vụ đã thực hiện, cung cấp cho khách hàng.
- Đo lường doanh thu dịch vụ vận tải thể hiện qua đồng hồ vận doanh.
- Ghi nhận doanh thu dịch vụ vận tải gồm một số nội dung cơ bản sau:
+ Xác định thời điểm ghi nhận doanh thu.
+ Xác định doanh thu được ghi nhận trong kỳ kế toán.
1.2. HỆ THỐNG KIỂM SOÁT TRONG DOANH NGHIỆP NÓI CHUNG
VÀ TRONG DOANH NGHIỆP VẬN TẢI TAXI
1.2.1. Đặc điểm hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp vận tải taxi
Trong doanh nghiệp vận tải taxi, hệ thống kiểm soát về chi phí gồm: chi
phí nhiên liệu trực tiếp được khoán cho lái xe; chi phí nhân công trực tiếp là tiền
lương và các khoản trích theo lương cho lái xe; chi phí sản xuất chung gồm tiền
lương phải trả cho nhân viên sửa chữa, vật tư phụ tùng, điện nước, khấu hao
phương tiện và các chi phí mua ngoài; chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN là
những khoản chi phí về nhân công, vật tư và các khoản chi phí phát sinh trong
quá trình xúc tiến bán hàng, các chi phí về tiền lương của giám đốc, nhân viên các
phòng chức năng, các khoản chi ở bộ phận lãnh đạo, kiểm tra và hành chính sự
vụ, chi phí khấu hao trụ sở và các thiết bị văn phòng.
Về doanh thu, vận tải taxi với đặc thù sản phẩm dịch vụ không có hình
thái vật chất và được đo bằng số km có khách được vận chuyển và số tiền mà


8


hành khách phải trả cho việc vận chuyển được tự động hiển thị trên đồng hồ tính
tiền. Việc kiểm soát vị trí và hoạt động của xe như: số hành khách, nhiệt độ, vận
tốc, kỹ thuật xe, trạng thái tâm lý và tình trạng sức khoẻ lái xe thông qua kíp trực
điều vận của tổng đài, thiết bị định vị vệ tinh GPS (hộp đen kỹ thuật) và cảm biến
quang. Số liệu đồng hồ tính tiền là cơ sở để xử lý thông tin, qua đó biết được kết
quả doanh thu từng lái xe, loại xe theo vùng, tổng doanh thu cũng như sự thay đổi
doanh thu của từng loại hình sản phẩm.
1.2.2. Hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm hệ thống kiểm soát
Hệ thống kiểm soát là một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bảo vệ
tài sản của DN; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm thực hiện các
chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Bản chất của kiểm soát là việc thiết lập các kế hoạch và xây dựng các
mục tiêu có liên quan, từ đó thiết kế nên những hành động cụ thể để đạt được
các mục tiêu đã xây dựng, đồng thời trong quá trình thực hiện các mục tiêu
cần phải đưa ra các biện pháp và hành động phụ trợ để đạt được các chỉ tiêu
tốt hơn.
Như vậy, hệ thống kiểm soát bao gồm cả việc thiết lập các chuẩn mực,
các thước đo (kế hoạch, định mức, mục tiêu) và các thủ tục để nắm lấy và
điều hành quá trình hoạt động nhằm đạt mục tiêu đã xác định.
1.2.2.2. Các yếu tố của hệ thống kiểm soát
Hệ thống kiểm soát là công cụ chủ yếu để thực hiện chức năng kiểm
soát trong mọi quy trình quản lý của DN.
Hệ thống kiểm soát cung cấp thông tin cho cả bên trong và bên ngoài
của một tổ chức. Vì vậy để người sử dụng tin cậy vào tính chính xác và trung
thực của thông tin đòi hỏi tổ chức phải duy trì một hệ thống kiểm soát tiên
tiến, khoa học và hữu hiệu.
Vấn đề đặt ra là cần hiểu rõ bản chất của hệ thống kiểm soát trong DN
thông qua các yếu tố cơ bản là: môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin kế toán
phục vụ kiểm soát và việc thiết lập các bước kiểm soát trong doanh nghiệp.



9

a. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát là toàn bộ những nhân tố bên trong và bên ngoài
DN có tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của các loại hình
kiểm soát. Các nhân tố này chủ yếu liên quan đến thái độ, nhận thức, hành
động của nhà quản lý cấp cao trong DN đối với công tác quản lý nói chung và
kế toán nói riêng, môi trường kiểm soát phụ thuộc:
- Đặc thù quản lý của doanh nghiệp
Nhà quản lý cấp cao là người ra quyết định và điều hành mọi hoạt động
của DN. Vì vậy, nhận thức, thái độ, quan điểm, đường lối, hành vi quản trị và
tư cách của Giám đốc hoặc kế toán trưởng ảnh hưởng rất lớn đến xây dựng
một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu tại DN. Đặc thù quản lý chỉ rõ những
quan điểm khác nhau của nhà quản lý về sự chính xác của thông tin kế toán,
tầm quan trọng của việc hoàn thành kế hoạch, và sự chấp nhận rủi ro. Những
nhà quản lý có phong cách kinh doanh lành mạnh vì sự phát triển lâu dài đòi
hỏi báo cáo tài chính phải chính xác, các thủ tục kiểm soát phải chặt chẽ. Đối
với những nhà quản lý có mục tiêu kinh doanh là lợi nhuận bằng mọi giá thì
báo cáo tài chính không trung thực, vì vậy các thủ tục kiểm soát sẽ lỏng lẻo,
không hiệu quả. Như vậy phong cách điều hành và tư cách của nhà quản trị
ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách, thủ tục kiểm soát cũng như độ chính
xác báo cáo tài chính.
Một vấn đề quan trọng khác của đặc thù quản lý là cơ cấu quyền lực
trong DN, nếu quyền lực chỉ tập trung vào một cá nhân hay một nhóm nhỏ thì
phẩm chất và năng lực của người nắm quyền ảnh hưởng rất lớn đến môi
trường kiểm soát, trong những DN có quy mô lớn nếu xảy ra trường hợp nêu
trên thì môi trường kiểm soát sẽ không mạnh do những người khác không có
cơ hội giám sát người có quyền lực ở cấp cao hơn.

- Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức là sự phân chia quyền hạn, trách nhiệm giữa các thành
viên trong DN. Cơ cấu tổ chức tốt sẽ ngăn ngừa các trường hợp vi phạm về


10

chính sách, loại bỏ những sai phạm, gian lận có thể xảy ra; tạo hiệu quả quản
lý tốt cho các nhà lãnh đạo trong xử lý, truyền đạt và sử dụng thông tin. Cơ
cấu tổ chức là nền tảng cho việc lập kế hoạch và kiểm tra thủ tục kiểm soát
của DN. Để đạt được mục tiêu của DN cần phải có cơ cấu tổ chức hiệu quả và
phù hợp với quy mô hoạt động, tuân thủ các nguyên tắc:
+ Thiết lập, điều hành và giám sát toàn bộ hoạt động của DN, tránh bỏ
sót bất kỳ lĩnh vực nào hoặc chồng chéo giữa các bộ phận.
+ Phải có sự tách biệt giữa ba chức năng : xử lý nghiệp vụ, ghi sổ và bảo
quản tài sản.
- Chính sách nhân sự
Chính sách nhân sự bao gồm các phương pháp quản lý nhân sự và chế độ
của DN về tuyển dụng, đào tạo, đánh giá, trả lương và đề bạt nhân viên. Con
người là yếu tố quan trọng, quyết định mọi hoạt động trong DN. Vì thế một
chính sách nhân sự không khoa học sẽ dẫn đến đội ngũ nhân viên yếu kém về
năng lực và ý thức trách nhiệm. Khi đó dù các thủ tục kiểm soát có được tổ
chức chặt chẽ vẫn không thể phát huy hiệu quả tối ưu.
- Kiểm toán nội bộ
Bộ phận kiểm toán nội bộ là nhân tố quan trọng tác động đến môi trường
kiểm soát, chính bộ phận này chịu trách nhiệm thực hiện việc kiểm tra, giám
sát và đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của DN trong đó có hệ
thống thông tin kế toán. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp đơn vị có
cái nhìn kịp thời và chính xác về các hoạt động của DN cũng như công tác
kiểm soát từ đó phát hiện những sai phạm, gian lận làm thất thoát tài sản, và

đề ra các biện pháp cải tiến hoạt động kinh doanh.
Để có bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu, điều cần thiết là bộ phận kiểm
toán nội bộ phải độc lập với các bộ phận còn lại và chỉ trực thuộc cấp cao
nhất trong DN. Muốn vậy, bộ phận kiểm toán nội bộ phải đáp ứng yêu cầu về
năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp.


11

- Các nhân tố bên ngoài
Các nhân tố khác như: luật pháp, sự kiểm soát của nhà nước, ngân hàng,
cổ đông, chủ nợ… tuy không thuộc tầm kiểm soát của nhà quản lý nhưng ảnh
hưởng rất lớn đến sự thiết kế và vận hành hệ thống kiểm soát.
b. Hệ thống thông tin kế toán phục vụ kiểm soát
Hệ thống thông tin kế toán là một hệ thống có chức năng ghi nhận, tính
toán, phân loại, tổng hợp và truyền đạt thông tin tài chính của DN cho người
sử dụng đánh giá và ra quyết định. Hệ thống này bao gồm các tiến trình xử lý,
chuyển đổi dữ liệu đầu vào thành những thông tin hữu ích ở đầu ra. Các thông
tin đầu vào thường là các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và thông tin đầu ra là
những báo cáo nhanh và báo cáo định kỳ, một hệ thống thông tin kế toán hiệu
quả phải đạt các mục tiêu cụ thể sau:
- Mục tiêu tính có thật: Yêu cầu các nghiệp vụ ghi sổ phải có căn cứ
pháp lý để tránh trường hợp ghi những nghiệp vụ giả không tồn tại. Căn cứ đó
là những chứng từ hợp lý, hợp lệ theo đúng quy định của Nhà nước.
- Mục tiêu sự phê chuẩn: Các nghiệp vụ phải được phê chuẩn đúng đắn
trước khi thực hiện. Sự phê chuẩn này là của những người có thẩm quyền
trong DN nhằm đàm bảo không có sự lừa đảo, tham ô, chiếm đoạt tài sản.
- Mục tiêu tính đầy đủ: Các nghiệp vụ hiện có phải được ghi sổ đầy đủ,
không được loại bỏ, giấu bớt hoặc để ngoài sổ sách.
- Mục tiêu sự đánh giá: Nghiệp vụ phải được đánh giá đúng đắn, không

để xảy ra sai phạm trong tính toán và áp dụng theo chế độ kế toán hiện hành.
- Mục tiêu sự phân loại: Các nghiệp vụ kinh tế phải được phân loại theo
cơ cấu tài khoản của DN và được ghi nhận ở các loại sổ sách có liên quan.
- Mục tiêu về thời hạn: Các nghiệp vụ kinh tế phải được phản ánh đúng
lúc đảm bảo sự chính xác của báo cáo tài chính.
- Mục tiêu về quá trình chuyển sổ và tổng hợp: Các nghiệp vụ kinh tế
phải ghi đúng đắn vào sổ phụ và tổng hợp chính xác để phản ánh trung thực
tình hình tài chính của DN.


12

Hệ thống thông tin kế toán phục vụ kiểm soát bao gồm hai loại chủ yếu
là hệ thống thông tin kế toán tài chính và hệ thống thông tin kế toán quản trị,
được bắt đầu từ việc lập và luân chuyển chứng từ đến khi tập hợp chi phí kế
toán và lập các báo cáo phục vụ cho nhu cầu quản lý và kiểm soát.
c. Thiết lập các bước kiểm soát trong doanh nghiệp
Bước1: Xác định mục tiêu kiểm soát là đích mà quá trình kiểm soát cần
đạt tới, được xem là cơ sở thiết lập tiêu chuẩn kiểm soát cụ thể. Mục tiêu
được xây dựng phải có tính hợp pháp, có khả năng đo lường được. Khi xây
dựng mục tiêu phải quan tâm đến các nguyên tắc chỉ đạo nội bộ DN sẵn có.
Bước 2: Thiết lập các tiêu chuẩn kiểm soát (dự toán) nhằm đưa ra các
tiêu chuẩn để đánh giá quá trình thực hiện hoạt động của doanh nghiệp, các
tiêu chuẩn này phải phù hợp với mục tiêu đề ra và có thể định lượng được.
Bước 3: Đo lường kết quả và so sánh với các tiêu chuẩn, dựa vào các
phương pháp, công cụ để định lượng các kết quả của công việc cần kiểm soát.
Đây chính là cơ sở để so sánh và phân tích kết quả đạt được với các tiêu
chuẩn, mục tiêu đã đề ra để có biện pháp quản lý hợp lý, qua đó xác định
được giá trị chênh lệch giữa tiêu chuẩn đã xây dựng với kết quả thực hiện.
Bước 4: Phân tích các nhân tố, nguyên nhân và điều chỉnh sai lệch

Xác định nhân tố sai lệch để biết được xu hướng và mức độ ảnh hưởng
của chúng cùng những nguyên nhân dẫn đến chênh lệch, phải xác định được
những nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân cơ bản, đồng thời cũng
đánh giá sự ảnh hưởng của những nhân tố cá biệt đến kết quả của hoạt động.
Qua việc phân tích các nhân tố và nguyên nhân gây nên sự sai lệch sẽ giúp
nhà quản lý thấy được công việc cần giải quyết để điều chỉnh sai lệch.
Các thủ tục kiểm soát bao gồm:
- Phân chia trách nhiệm đầy đủ
Không một thành viên nào được giải quyết mọi mặt của nghiệp vụ từ
khi hình thành đến kết thúc. Không thành viên nào được kiêm nhiệm các chức
năng phê chuẩn, thực hiện, ghi chép nghiệp vụ và bảo quản tài sản.


13

Mục đích của phân chia trách nhiệm nhằm để các nhân viên kiểm soát
lẫn nhau, nếu các sai sót xảy ra sẽ được phát hiện nhanh chóng, đồng thời
giảm cơ hội cho bất kỳ thành viên nào trong quá trình thực hiện nhiệm vụ có
thể gây ra và giấu giếm những sai phạm của mình.
- Kiểm soát quá trình xử lý thông tin và các nghiệp vụ
Để thông tin đáng tin cậy cần phải thực hiện nhiều hoạt động kiểm soát
nhằm kiểm tra tính xác thực, đầy đủ và việc phê chuẩn các nghiệp vụ.
Khi kiểm soát quá trình xử lý thông tin, cần đảm bảo: kiểm soát chặt
chẽ hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán và đảm bảo việc phê chuẩn các nghiệp
vụ phải đúng đắn.
- Kiểm soát vật chất
Hoạt động này được thực hiện cho các loại sổ sách và tài sản, kể cả
những ấn chỉ đã được đánh số trước nhưng chưa sử dụng, cũng như cần hạn
chế sự tiếp cận với các chương trình tin học và những hồ sơ dữ liệu.
Thí dụ: Tài sản có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng tủ sắt, khóa,

tường rào, lực lượng bảo vệ,... và chỉ những người được ủy quyền mới được
phép tiếp cận với tài sản của đơn vị.
Việc so sánh, đối chiếu giữa sổ sách kế toán và tài sản hiện có trên thực
tế phải được thực hiện định kỳ. Khi có bất kỳ chênh lệch nào cần phải điều tra
và xem xét nguyên nhân, nhờ đó sẽ phát hiện được những yếu kém về các thủ
tục bảo vệ tài sản và sổ sách có liên quan. Nếu không thực hiện công việc này
thì tài sản có thể bị bỏ phế, mất mát hoặc có thể không phát hiện được những
hành vi đánh cắp.
- Kiểm soát độc lập việc thực hiện
Việc kiểm soát được thực hiện thường xuyên, định kỳ, đột xuất và liên
tục bởi kiểm toán viên có vị trí độc lập với đối tượng bị kiểm tra để xem xét
việc thực hiện các loại thủ tục kiểm soát.


14

Yêu cầu quan trọng đối với những thành viên thực hiện kiểm tra là họ
phải độc lập với đối tượng kiểm tra. Sự hữu hiệu của hoạt động này sẽ mất đi
nếu người thực hiện thẩm tra lại là nhân viên cấp dưới của người đã thực hiện
nghiệp vụ, hoặc không độc lập vì bất kỳ lý do gì.
- Phân tích việc thực hiện
Hoạt động này chính là xem xét lại những việc đã thực hiện bằng cách so
sánh số thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán, kỳ trước, và các dữ liệu khác có
liên quan như những thông tin không có tính chất tài chính và xem xét mối
quan hệ tổng thể để đánh giá quá trình thực hiện. Thường xuyên nghiên cứu
những vấn đề bất thường xảy ra trong quá trình thực hiện, nhà quản lý có thể
thay đổi kịp thời chiến lược, kế hoạch hoặc có những điều chỉnh thích hợp.
Thiết lập các thủ tục kiểm soát trong doanh nghiệp
Nhà quản lý của đơn vị thiết lập các thủ tục kiểm soát nhằm ngăn ngừa
và phát hiện sai sót, gian lận, đảm bảo thực hiện mục tiêu cụ thể của đơn vị.

Các bước kiểm soát được thiết lập rất khác nhau ở mỗi loại nghiệp vụ khác
nhau và trong những đơn vị khác nhau. Thiết lập thủ tục kiểm soát phải đảm
bảo các nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc phân công phân nhiệm: Theo nguyên tắc này, công việc và
trách nhiệm cần được phân chia cho nhiều người trong một bộ phận hoặc
nhiều bộ phận cùng thực hiện. Mục đích của việc làm này là không cho phép
một cá nhân, một bộ phận nào được thực hiện một nghiệp vụ từ khâu đầu đến
khâu cuối. Cơ sở của nguyên tắc này là trong chế độ nhiều người cùng làm
việc, các sai sót dễ dàng phát hiện và hạn chế gian lận xảy ra hơn. Việc phân
công, phân nhiệm còn có tác dụng tạo ra sự chuyên môn hóa, giúp cho việc
kiểm tra, thúc đẩy nhau trong công việc.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Nguyên tắc này nhằm ngăn ngừa các hành vi
lạm dụng quyền hạn. Cụ thể, không được bố trí kiêm nhiệm giữa các nhiệm
vụ như phê chuẩn và thực hiện nghiệp vụ, kế toán và bảo quản tài sản, hay
giữa chức năng thực hiện và chức năng kiểm soát. Nguyên tắc này xuất phát


15

từ mối quan hệ đặc biệt ở các nhiệm vụ mà nếu có sự kiêm nhiệm thì dễ dàng
dẫn đến sự lạm dụng, và các ngăn ngừa hay phát hiện gian lận sẽ rất khó
khăn. Chẳng hạn nếu để kế toán tiền mặt kiêm thủ quỹ thì họ rất dễ điều chỉnh
sổ sách để che giấu hành vi tham ô tiền quỹ.
Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: Uỷ quyền là việc nhà quản lý giao
quyền quyết định và giải quyết một số công việc trong phạm vi nhất định cho
thuộc cấp. Phê chuẩn là biểu hiện cụ thể của việc ra quyết định và giải quyết
một số công việc trong phạm vi quyền hạn được giao.
Trong quá trình hoạt động của DN, các nhà quản lý không nên trực tiếp
giải quyết mọi vấn đề phát sinh mà nên có sự phân chia quyền lực cho các
cấp, đồng thời xác định rõ thẩm quyền phê chuẩn của từng cấp. Việc này

giúp cho hoạt động của DN tiến triển thuận lợi, mặt khác giúp cho nhà quản
lý vẫn có thể kiểm soát và hạn chế được sự tùy tiện khi giải quyết công việc.
1.3. NỘI DUNG KIỂM SOÁT CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP VẬN
TẢI TAXI
1.3.1. Lập dự toán chi phí dịch vụ vận tải taxi
Việc lập dự toán chi phí dịch vụ vận tải taxi sẽ giúp cho nhà quản lý biết
trước và chủ động trong công tác quản trị chi phí. Chi phí kinh doanh vận tải taxi
có nội dung rất phong phú, phát sinh ở nhiều địa điểm khác nhau do tính chất
phân tán của hoạt động kinh doanh vận chuyển. Do vậy, dự toán chi phí được dựa
trên cơ sở tổng hợp các định mức chi phí của toàn bộ quá trình hoạt động kinh
doanh dịch vụ.
Dự toán chi phí theo các khoản mục được quy định bao gồm dự toán chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, dự toán chi phí nhân công trực tiếp, dự toán chi phí
sản xuất chung, dự toán chi phí bán hàng và dự toán chi phí quản lý DN.
Định mức chi phí là khoản chi được định trước bằng cách lập ra những tiêu
chuẩn gắn với từng trường hợp hay từng điều kiện làm việc cụ thể. Định mức chi
phí không những chỉ ra được các khoản chi dự kiến mà còn xác định nên chi trong
trường hợp nào. Thực tế chi phí luôn thay đổi vì vậy các định mức cần phải được


16

xem xét lại thường xuyên để đảm bảo tính hợp lý. Để cung cấp thông tin và kiểm
soát chi phí kịp thời thì các dự toán nên được lập cho từng quý, trong đó chi tiết
theo từng tháng và phải dự toán liên tục.
1.3.1.1. Lập dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được lập để dự toán số nguyên vật
liệu cần cho quá trình sản xuất. Phải có đủ nguyên vật liệu để sẵn sàng thỏa mãn
nhu cầu của sản xuất và đảm bảo cho tồn kho cuối kỳ về nguyên vật liệu hợp lý.
Để lập dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phải dựa vào số lượng sản phẩm,

dịch vụ dự kiến hoàn thành, định mức tiêu hao nguyên vật liệu tại DN và giá cả
nguyên vật liệu. Bên cạnh việc dự toán lượng nhu cầu nguyên vật liệu trực tiếp,
DN còn phải lên lịch thanh toán dự kiến cho nhà cung cấp. Lịch thanh toán phản
ánh các dòng tiền chi tiêu theo thời gian để làm căn cứ lập dự toán tiền mặt.
Đối với DN kinh doanh dịch vụ vận chuyển, dự toán chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp chính là dự toán chi phí nhiên liệu tiêu hao trực tiếp. Để lập được dự
toán này phải dựa vào km dự kiến vận hành của các xe, định mức tiêu hao nhiên
liệu và đơn giá nhiên liệu trong kỳ kế hoạch.
1.3.1.2. Lập dự toán chi phí nhân công trực tiếp
Dự toán chi phí nhân công trực tiếp căn cứ trên dự toán sản xuất và được
tính sao cho đáp ứng đúng và đủ đối với nhu cầu sản xuất, dự toán được lập nhằm
cung cấp thông tin quan trọng liên quan đến quy mô của lực lượng lao động trực
tiếp cho kỳ kế hoạch, giúp DN chủ động về lao động, đồng thời sử dụng lao động
hiệu quả nhất. Nhu cầu lao động trực tiếp được tính căn cứ trên nhu cầu sản xuất
và định mức thời gian hao phí về lao động trực tiếp để hoàn thành một đơn vị sản
phẩm. Sau khi xác định nhu cầu lao động trực tiếp, căn cứ trên định mức giá của
một giờ lao động trực tiếp sẽ dự toán được chi phí nhân công trực tiếp.
Trong DN kinh doanh dịch vụ vận tải, dự toán chi phí nhân công trực tiếp
là dự toán tiền lương và các khoản trích theo lương cho lái xe. Để lập dự toán này
phải dựa vào số km dự kiến vận chuyển khách hoặc doanh thu dự kiến trong kỳ kế
hoạch, đơn giá tiền lương tính cho 1 km vận doanh hoặc 1.000 đồng doanh thu kế
hoạch và các tỷ lệ % khoán trích theo lương.


17

1.3.1.3. Lập dự toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung gồm chi phí vật liệu gián tiếp và chi phí nhân công
gián tiếp. Chi phí vật liệu gián tiếp gồm chi phí của các loại vật liệu, nhiên liệu
cần thiết để hoạt động sản xuất được trôi chảy và chi phí của các loại vật liệu cấu

thành sản phẩm nhưng có giá trị nhỏ và không thể xác định tách biệt cho từng đơn
vị sản phẩm. Chi phí nhân công gián tiếp là tiền lương, phụ cấp lương và các
khoản trích theo lương của bộ phận nhân viên làm việc ở các khâu cần thiết cho
hoạt động sản xuất nhưng không trực tiếp sản xuất sản phẩm như quản đốc, nhân
viên bảo trì, thợ sửa chữa...
Dự toán chi phí sản xuất chung được xây dựng theo hai yếu tố biến phí và
định phí, căn cứ trên đơn giá phân bổ kế hoạch chi phí sản xuất chung và mức
hoạt động kế hoạch. Khi lập dự toán chi phí sản xuất chung cũng tính bằng tiền
mặt và sẽ là căn cứ để lập dự toán tiền mặt, lưu ý phải khấu trừ chi phí khấu hao
vì chi phí khấu hao là một khoản chi phí ghi sổ.
Dự toán chi phí sản xuất chung là một trong những dự toán khó chính xác
vì nó bao gồm nhiều nội dung khác nhau, đồng thời các nội dung chi phí này phải
được phân chia thành biến phí và định phí. Kế toán cần phải xác định tiêu thức
phân bổ biến phí sản xuất chung thích hợp, từ đó tính toán đơn giá phân bổ để lập
dự toán hợp lý biến phí sản xuất chung. Còn định phí sản xuất chung do tính chất
ổn định của chúng nên DN căn cứ vào số liệu thống kê các kỳ trước kết hợp với
tình hình trong kỳ kế hoạch để dự toán.
Để lập dự toán chi phí sản xuất chung cần dựa vào nhiều tài liệu khác nhau
theo từng nội dung của chi phí trong chi phí sản xuất chung, nhất là cần dựa vào
số liệu thực tế qua các kỳ kế toán.
Trong DN kinh doanh dịch vụ vận tải, chi phí sản xuất chung bao gồm:
Tiền lương phải trả theo thời gian và các khoản trích theo lương của nhân viên
sửa chữa, bảo trì; vật tư, phụ tùng thay thế; điện nước phục vụ ở phân xưởng sửa
chữa; khấu hao phương tiện vận chuyển, nhà xưởng và thiết bị sửa chữa và các
chi phí mua ngoài. Phần lớn các nội dung của chi phí sản xuất chung đều có tính
chất là định phí.


18


1.3.1.4. Lập dự toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí bán hàng là những khoản chi vật tư, chi phí nhân công và tất cả các
khoản chi phí phát sinh trong quá trình xúc tiến bán hàng: chi phí in ấn Catalogue
giới thiệu sản phẩm và bảng giá; tiền lương và hoa hồng của bộ phận tiếp thị; chi
phí quảng cáo, nghiên cứu thị trường; bảo hiểm hàng hoá...
Chi phí quản lý DN là những khoản chi vật tư, chi phí nhân công và tất cả
các khoản chi phí phát sinh ở bộ phận lãnh đạo, kiểm tra và hành chính sự vụ: chi
phí khấu hao trụ sở và thiết bị văn phòng; tiền lương, phụ cấp lương và các khoản
trích theo lương của giám đốc, nhân viên các phòng chức năng...
Dự toán chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung
chi phí được ước tính sẽ phát sinh ngoài lĩnh vực sản xuất trong kỳ dự toán và rất
khó lập chính xác vì chúng là một hỗn hợp các nội dung chi phí phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác nhau.
1.3.2. Thủ tục kiểm soát chi phí dịch vụ vận tải taxi
1.3.2.1. Kiểm soát chi phí nhiên liệu trực tiếp
Chi phí nhiên liệu trực tiếp trong DN kinh doanh dịch vụ vận tải taxi là chi
phí nhiên liệu tiêu hao trong quá trình động cơ hoạt động. Để kiểm soát chặt chẽ
chi phí nhiên liệu trong quá trình hoạt động kinh doanh, cần có sự tham gia đầy
đủ của các bộ phận liên quan trong việc kiểm tra, kiểm soát và quản lý thực hiện
nghiệp vụ như: Bộ phận Checker (kiểm tra đồng hồ tính tiền); Bộ phận thu ngân;
Bộ phận xét duyệt; Bộ phận vật tư kỹ thuật; Bộ phận kinh doanh và Kế toán.
Bộ phận thu ngân căn cứ vào phiếu xăng, doanh thu của nhân viên lái xe và
số liệu từ bộ phận Checker cung cấp, tính toán tỷ lệ phân chia giữa lái xe và
doanh nghiệp theo Quyết định ăn chia và nhập kết quả vào phần mềm, cuối tháng
sẽ tính lương sau khi đã trừ tiền nhiên liệu cho ngày xe hoạt động.
1.3.2.2. Kiểm soát chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm chi phí tiền lương và các khoản trích
theo lương như: BHXH, BHYT, KPCĐ. Chi phí tiền lương là chi phí dễ xảy ra
các gian lận làm cho một lượng tiền của đơn vị bị sử dụng kém hiệu quả hoặc



19

bị thất thoát. Kiểm soát chi phí tiền lương liên quan đến các bộ phận như: bộ
phận Checker, bộ phận kế toán và bộ phận xét duyệt.
- Bộ phận Checker: Chịu trách nhiệm theo dõi và tính lương của nhân viên
lái xe mỗi khi họ lên ca (đi làm), dựa vào lịch trình taxi chuyển số liệu cho bộ
phận kế toán. Lịch trình chính là giấy tờ và chứng từ để tính lương và doanh
thu cho từng lái xe. Checker tính lương cho nhân viên lái xe theo tỷ lệ phân
chia doanh thu theo quy định. Sau đó, Checker nhập số liệu vào phần mềm để
tính ra lương thực nhận của lái xe sau khi đã trừ chi phí xăng, quỹ tai nạn,
quỹ hỗ trợ tiếp thị và rửa xe.
- Bộ phận kế toán: Nhân viên kế toán căn cứ vào số liệu thống kê của bộ
phận Checker để tiến hành tính lương cho nhân viên lái xe sau khi trừ các
khoản tạm ứng, ký quỹ đồng thời trích các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ của
lái xe, rồi chuyển cho kế toán trưởng xem xét tính hợp lệ của chứng từ lương
và ký xác nhận, sau đó chuyển cho bộ phận xét duyệt.
- Bộ phận xét duyệt: Kiểm tra lại chứng từ lương và ký duyệt, sau đó
chuyển lại cho bộ phận kế toán để làm thủ tục chi lương và chuyển nộp
BHXH, BHYT, KPCĐ.
Để tránh tình trạng gian lận trong công tác tiền lương, cần thiết phải tách
biệt các chức năng theo dõi lên ca của nhân viên lái xe, tính lương và chi
lương trong DN.
1.3.2.3. Kiểm soát chi phí sản xuất chung
Trong đơn vị kinh doanh dịch vụ vận tải taxi, chi phí sản xuất chung bao
gồm: tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên phân xưởng sửa
chữa, chi phí vật liệu, dụng cụ cho sửa chữa, chi phí khấu hao TSCĐ, các chi phí
dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
- Kiểm soát chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương cho phân
xưởng sửa chữa theo ngày công hoặc mức khoán theo hợp đồng.

- Kiểm soát chi phí vật liệu được thể hiện qua hai giai đoạn: giai đoạn mua
vật tư, phụ tùng thay thế nhập kho và giai đoạn xuất vật tư, phụ tùng thay thế
cho hoạt động sửa chữa xe.


20

- Kiểm soát dụng cụ sửa chữa theo định kỳ và niên hạn sử dụng.
- Kiểm soát chi phí khấu hao TSCĐ: Chi phí khấu hao TSCĐ là một chi
phí ước tính. Nghĩa là, việc xác định chi phí khấu hao hàng kỳ không phải là
chi phí thực tế phát sinh mà là sự ước tính của kế toán về mức độ hao mòn
của TSCĐ. Kiểm soát chi phí khấu hao được xác định căn cứ vào hai yếu tố:
Nguyên giá TSCĐ và thời gian khấu hao. Đối với nguyên giá TSCĐ có giá trị
lớn, việc mua TSCĐ không đúng hay không phù hợp ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động của DN. Do vậy, thủ tục kiểm soát đối với việc mua TSCĐ cần
được thiết kế chặt chẽ. Cần quy định rõ thẩm quyền của từng cấp quản lý đối
với việc phê chuẩn nghiệp vụ mua TSCĐ, tách biệt các chức năng phê chuẩn
với chức năng bảo quản, sử dụng tài sản và chức năng thanh toán; chức năng
quản lý tài sản với chức năng ghi sổ kế toán. Đối với thời gian khấu hao cần
theo đúng quy định hiện hành.
- Kiểm soát chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác: Cần
tách biệt các chức năng mua hàng và thanh toán. Các chứng từ chi phí cần
được ký duyệt theo thẩm quyền, đảm bảo tính hợp lý, hợp lệ.
1.3.2.4. Kiểm soát chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
- Chi phí bán hàng bao gồm: Chi phí hoa hồng khách hàng và chi phí xây
dựng các điểm thiếp thị; Chi phí đăng kiểm, kiểm định; Chi phí công chứng; Chi
phí quảng cáo, tiếp thị và tờ rơi...
- Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: Chi phí tiền lương và các khoản
trích theo lương của cán bộ nhân viên quản lý; Chi phí bảo hiểm; chi phí đồ dùng
văn phòng phẩm; Chi phí kiểm toán; Chi phí sửa chữa văn phòng và thiết bị...

Chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN trong kinh doanh dịch vụ vận tải
taxi là các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm dịch vụ
vận chuyển và quản lý, điều hành chung toàn DN có liên quan trực tiếp đến kết
quả kinh doanh trong kỳ của DN. Nếu DN hạch toán không chính xác chi phí bán
hàng và chi phí quản lý DN hoặc tính toán, phân bổ các chi phí này không hợp lý
sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của DN.


21

1.3.3. Tổ chức thông tin kế toán và phân tích phục vụ kiểm soát chi phí dịch
vụ vận tải taxi
1.3.3.1. Tổ chức thông tin kế toán về chi phí dịch vụ vận tải taxi
Muốn kiểm soát chi phí sản xuất kinh doanh phải tổ chức hệ thống kế toán
phù hợp, cung cấp thông tin kịp thời và linh hoạt theo yêu cầu kiểm soát.
Tổ chức chứng từ về chi phí sản xuất kinh doanh thể hiện đúng nội dung,
phương pháp lập và các quy định của chế độ kế toán hiện hành. Tổ chức hệ thống
sổ kế toán chính thức và duy nhất sử dụng cho một kỳ kế toán năm. Căn cứ vào
tình hình hoạt động và hệ thống tài khoản kế toán áp dụng, DN mở đủ số lượng sổ
kế toán cần thiết phục vụ yêu cầu hệ thống hóa thông tin kiểm tra.
Để có được thông tin về chi phí, phải tổ chức tập hợp các chứng từ gốc về
chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh, kiểm soát thông qua việc đối chiếu với các
định mức, dự toán của DN đã lập; các quy định, quy chế hoạt động của Nhà nước
và DN. Đối với chi phí nhiên liệu và nhân công trực tiếp, kế toán phải cập nhật
hàng ngày và hạch toán vào các tài khoản quy định, đồng thời theo dõi ở các sổ
chi tiết, các bảng tổng hợp. Đối với chi phí sản xuất chung, không những cập nhật
hàng ngày mà đến cuối kỳ kế toán, kế toán còn phải tiến hành phân bổ theo tiêu
thức phù hợp để xác định chi phí cho từng đối tượng cụ thể.
Đối với kế toán quản trị, để có được thông tin về chi phí sản xuất, kế toán
quản trị nhận thông tin được cung cấp từ kế toán tài chính để tiến hành phân loại

chi phí theo yêu cầu của quản trị, tổng hợp, phân tích chi phí thực tế phát sinh,
kiểm soát, đánh giá sự biến động và lập các báo cáo chi phí kinh doanh.
1.3.3.2. Tổ chức phân tích phục vụ kiểm soát chi phí dịch vụ vận tải taxi
Để giúp nhà quản lý có thông tin về tình hình thực hiện chi phí, kế toán
phải phân tích chi phí thực tế phát sinh. Qua kết quả phân tích biết được những
biến động của chi phí thực tế so với dự toán cũng như nguyên nhân của những
biến động này, từ đó đề xuất các biện pháp để nhà quản lý kiểm soát chi phí sản
xuất kinh doanh.
Phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí trong DN thường bao gồm
những nội dung: phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí nguyên vật liệu trực


22

tiếp, dự toán chi phí nhân công trực tiếp, dự toán chi phí sản xuất chung, dự toán
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Tùy vào những đặc điểm của chi phí là biến phí hay định phí mà có phương
pháp phân tích thích hợp.
- Đối với biến phí
Sự biến động được phân tích theo hai nhân tố: biến động về lượng và biến
động về giá. Mô hình tổng quát để phân tích các biến phí là chia các nhân tố ảnh
hưởng thành nhân tố lượng và nhân tố giá; sắp xếp các nhân tố theo hướng giảm
dần của nhân tố lượng và nhân tố giá.
Khi xem xét sự tác động của nhân tố về lượng thì phải cố định nhân tố giá ở
kỳ kế hoạch; xem xét sự tác động của nhân tố giá thì phải cố định nhân tố lượng ở
kỳ thực hiện.
+ Sự biến động do nhân tố lượng:
Q = (Q1 x P0) – (Q0 x P0)
Hay Q = (Q 1 – Q0) x P0
Trong đó:


Q 1: lượng thực tế
Q 0: lượng kế hoạch
P0: giá kế hoạch

+ Sự biến động do nhân tố giá:
P = (Q1 x P1) – (Q1 x P0)
Hay
Trong đó:

P = Q1 x (P1 – P0)

P1: giá thực tế

- Đối với định phí:
+ Với những định phí phát sinh do chịu ảnh hưởng của từ hai nhân tố trở
lên và các nhân tố có liên quan hệ tích số hoặc thương số với nhau thì mô hình
phân tích tương tự như phân tích biến phí.
+ Với những định phí phát sinh do ảnh hưởng của một nhân tố hoặc do
nhiều nhân tố nhưng các nhân tố có quan hệ tổng với nhau thì phải xem xét cụ thể
sự biến động của từng nhân tố này để có đánh giá phù hợp.


23

1.4. NỘI DUNG KIỂM SOÁT DOANH THU TRONG DOANH NGHIỆP
VẬN TẢI TAXI
1.4.1. Lập dự toán doanh thu dịch vụ vận tải taxi
- Trong kinh doanh dịch vụ, doanh nghiệp cần phải xác định dự toán doanh
thu đối với từng hoạt động dịch vụ. Trên cơ sở dự báo khối lượng dịch vụ hoàn

thành, đơn giá của từng loại dịch vụ để lập dự toán doanh thu dịch vụ. Song, tùy
thuộc vào tính chất công việc dịch vụ, giá thành và cả yếu tố môi trường kinh
doanh để xây dựng giá bán, qua đó lập dự toán doanh thu của từng loại dịch vụ
phù hợp. Về xây dựng giá bán, hầu hết các DN căn cứ trên giá thành sản xuất toàn
bộ, tuy nhiên trong quá trình kinh doanh, giá bán thường được điều chỉnh cho phù
hợp với quy luật cung cầu. Trường hợp đặc biệt trong cạnh tranh, DN có thể tạo
sự khác biệt cho sản phẩm nhằm tăng thị phần với giá bán ngắn hạn thấp hơn giá
thành hoặc giá đã thành lập trên thị trường. Do nhu cầu thường xuyên dao động
nên giá bán cũng dao động theo. Nói cách khác, giá của một sản phẩm được xây
dựng dựa trên giá thành sản xuất toàn bộ cộng thêm một mức theo quy định của
DN được sử dụng như giá chuẩn để căn cứ vào đó DN sẽ điều chỉnh tăng hay
giảm tùy theo nhu cầu.
Giá thành sản xuất từng loại dịch vụ taxi trong kỳ được tính:
Tổng giá thành
dịch vụ vận tải taxi đội xe i

Tổng chi phí sản xuất
=

phát sinh của đội xe i

Trong quản lý chi phí, các DN dịch vụ vận tải taxi chỉ thực hiện hạch toán
chi phí và tính giá thành phục vụ cho việc xác định kết quả lãi, lỗ, còn lập dự toán
doanh thu phải sử dụng thông tin chi phí để xác định giá bán dịch vụ.
Định giá bán dịch vụ vận chuyển một chiều
Để định giá, các nhà quản lý dựa vào chi phí dự kiến tính cho 1 km vận
chuyển khách, đồng thời dựa vào số km dự kiến trong kỳ. Các chi phí được sử


24


dụng để định giá gồm: chi phí nhiên liệu trực tiếp, chi phí tiền lương cho lái xe,
chi phí sản xuất chung (khấu hao phương tiện vận chuyển, vật tư phụ tùng thay
thế, các chi phí sửa chữa và bảo trì khác, chi phí dịch vụ mua ngoài), chi phí bán
hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Vận chuyển khách một chiều, trong nội
thành có đặc điểm: cự ly khoảng 30 km và xe hoạt động với vận tốc khá chậm do
mật độ và lưu lượng các phương tiện giao thông cao, nhiều nút giao thông..., mất
nhiều thời gian chờ đợi, công sức lao động và suất tiêu hao nhiên liệu tăng nhiều,
do đó giá bán của dịch vụ taxi khách khi vận chuyển một chiều trong nội thành là
giá bán cao nhất.
Các chi phí dự kiến được sử dụng để định giá bán gồm:
- Chi phí nhiên liệu: Xe phải vận hành từ nơi đậu đỗ đến địa điểm của khách
và về lại vị trí quy định, như vậy, thực tế xe phải lăn bánh không tải khá cao mới
vận chuyển được 1 km có khách. Theo tính toán chi phí xăng tính cho 1 km vận
chuyển khách tương đương với 2 km xe lăn bánh.
- Chi phí tiền lương lái xe: nhằm tăng tính chủ động, khuyến khích lái xe
trong khai thác nguồn khách tiềm năng và tiết kiệm nhiên liệu các doanh nghiệp
taxi khách đều khoán lương và chi phí xăng cho lái xe qua doanh số thu nhập
hàng ngày.
- Chi phí khấu hao phương tiện vận chuyển: khấu hao phương tiện theo km
xe lăn bánh, căn cứ vào nguyên giá của từng xe, thời gian khấu hao và số km dự
kiến xe chạy trong kỳ để xác định chi phí khấu hao dự kiến cho từng km xe lăn
bánh và chi phí khấu hao dự kiến cho từng km vận chuyển khách.
- Chi phí vật tư, phụ tùng thay thế: thông thường trong 2 năm đầu kể từ khi
đưa xe mới vào khai thác thì các chi phí vật tư, phụ tùng thay thế phát sinh không
đáng kể, chủ yếu là chi phí bảo dưỡng. Từ năm thứ ba trở đi các vật tư, phụ tùng
thay thế mới phát sinh do phải sửa chữa, duy tu. Trên các cơ sở đó để ước tính chi
phí vật tư, phụ tùng thay thế cho 1 km vận chuyển khách.
- Chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp: Từ 12% đến 15% doanh số.



25

Định giá bán dịch vụ vận chuyển khứ hồi
- Trong nội thành, giá bán dịch vụ vận chuyển khứ hồi được áp dụng như
giá bán dịch vụ vận chuyển một chiều trong nội thành. Trường hợp vận chuyển
khách ra ngoại thành với quảng đường dài thì DN sẽ tận dụng được thời gian rỗi
phải chờ khách của phương tiện và lái xe, xe không có thời gian vận hành không
khách, chi phí phát sinh cả chiều đi và về đều có doanh thu.
- Các chi phí và lợi nhuận mong muốn tính cho 1 km vận chuyển khứ hồi
chỉ bằng 40% so với giá bán một chiều trong nội thành.
- Lập dự toán doanh thu dịch vụ vận tải taxi trên cơ sở dự toán chi phí toàn
bộ với phần chi phí cộng thêm trong ảnh hưởng của điều kiện thực tế và chiến
lược kinh doanh của mỗi DN.
- Đối với doanh thu vận tải taxi phải căn cứ vào hoạt động vận tải cụ thể và
những biến động về kinh tế xã hội. Từ đó, kế toán quản trị sẽ xác định được khối
lượng vận doanh từng loại xe ở thị trường truyền thống và thị trường tiềm năng,
xác định được doanh thu từng xe hoạt động ở các điểm kinh doanh. Loại xe nào
đang ở giai đoạn phát triển thì tăng số lượng nhằm tăng lợi nhuận, ngược lại nếu
bão hòa hoặc xuống cấp thì giảm số lượng để tránh thua lỗ.
1.4.2. Thủ tục kiểm soát doanh thu dịch vụ vận tải taxi
Để kiểm soát được doanh thu nhà quản lý phải dựa trên dự toán doanh thu,
đối chiếu số liệu doanh thu thực tế với số liệu doanh thu dự toán và doanh thu
trước đó. Với đặc thù kinh doanh dịch vụ vận tải thì việc định giá bán là cơ sở để
kiểm soát doanh thu.
Yêu cầu của kiểm tra: doanh thu ghi sổ là có thật, được phê chuẩn đúng
đắn, đầy đủ, định giá đúng, phân loại đúng, ghi sổ đúng kỳ, các nghiệp vụ phản
ánh đúng, tổng hợp chính xác và thực thi các thủ tục kiểm toán đối với các khoản
giảm trừ doanh thu.



×