Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.53 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRẦN THỊ HƯỞNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VIỆC XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Ở KON TUM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng- Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRẦN THỊ HƯỞNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VIỆC XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Ở KON TUM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Ánh



Đà Nẵng- Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác
Tác giả

Trần Thị Hưởng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 3
5. Bố cục của đề tài ................................................................................... 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu .............................................................. 3

CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC7
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC ................................................................................................. 7
1.1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................... 7
1.1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................. 24

1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC......................................................................................... 39

1.2.1. Khái niệm dân tộc ......................................................................... 39
1.2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ..................... 43

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC Ở KON TUM HIỆN NAY................................................ 61
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA KON TUM .61
2.2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC Ở KON TUM HIỆN NAY .......................................... 66
2.2.1. Những mặt tích cực....................................................................... 66
2.2.2. Những mặt tồn tại ......................................................................... 75
2.2.3. Nguyên nhân của những mặt tích cực và tồn tại........................... 78


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở KON TUM HIỆN NAY.................. 82
3.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH GIẢI PHÁP ............................................... 82
3.1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................. 82
3.1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................. 87

3.2. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................... 91
3.2.1 Giải pháp ........................................................................................ 91
3.2.2. Kiến nghị....................................................................................... 98

KẾT LUẬN.......................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí về vấn đề dân tộc là một tư tưởng khoa học và cách
mạng. Nó được Đảng ta vận dụng trong toàn bộ tiến trình cách mạng giải
phóng dân tộc và tiếp tục theo đuổi lý tưởng xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với 54 dân tộc
cùng sinh sống trên mảnh đất hình chữ S, Việt Nam là một quốc gia đa dân
tộc. Mặc dù mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng trong sự thống nhất và đa
dạng của nền văn hóa Việt Nam, nhưng trong tiến trình lịch sử lâu dài dựng,
giữ và phát triển đất nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh đấu tranh kiên
cường và giành thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược. Do đó, đoàn kết các dân
tộc là một nhu cầu khách quan, cấp thiết và trở thành truyền thống quý báu
của nhân dân ta.
Kon Tum là một vùng đất cộng cư của nhiều dân tộc anh em, quán triệt
những chủ trương, chính sách về củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân
tộc của Đảng, nhận thức đúng vị trí và đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc
thiểu số ở tỉnh Kon Tum, Đảng bộ tỉnh cũng đã ban hành nhiều nghị quyết
chuyên đề về củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trong tỉnh. Nhờ
đó khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh không ngừng được cũng cố và
tăng cường.
Tuy nhiên do vị trí địa lý đặc biệt, Kon Tum là một tỉnh nằm phía bắc
Tây Nguyên, tại ngã ba Đông Dương với vị trí chiến lược như vậy, Tây
Nguyên nói chung, Kon Tum nói riêng, từ lâu các thế lực thù địch thường
xuyên lợi dụng những khó khăn về đời sống và những thiểu sót trong quá
trình thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta để chia rẽ khối đại đoàn kết, các thế lực thù địch thường lợi dụng việc
truyền đạo tin lành trái phép đã kích động xu hướng ly khai dân tộc, âm mưu


2

thành lập nhà nước tự trị của vùng Tây Nguyên, đó là một trong những
nguyên nhân làm cho khối đại đoàn kết dân tộc ở nơi đây chưa thật vững
chắc. Bên cạnh đó một số cấp ủy đảng địa phương chưa nhận thức đúng đắn
về vị trí của công tác xây dựng và cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc, chưa
quán triệt những chủ trương và chính sách mới của Nhà nước ta về công tác
dân tộc. Đội ngũ làm công tác dân vận còn yếu kém về mọi mặt, đặc biệt khả
năng nói tiếng dân tộc bản địa còn yếu.
Do vậy, đoàn kết các dân tộc ở Kon Tum hiện nay đang là vấn đề cấp
bách hơn bao giờ hết, nhằm chống lại âm mưu của các thế lực thù địch. Để
làm được điều đó cần phải có sự kết hợp của các cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương và hơn ai hết việc tạo lòng tin của đồng bào các dân tộc trong tỉnh
vào sự lãnh đạo của Đảng là việc làm hết sức cần thiết.
Hiện nay đứng trước công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong
bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi càng đòi hỏi chúng ta phải
tăng cường đoàn kết các dân tộc hơn bao giờ hết. Vì vậy nghiên cứu quá trình
lãnh đạo và thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc ở Kon Tum trong những năm
đổi mới, trên cơ sở đó rút ra những bài học và kinh nghiệp nhằm góp phần
hoàn thiện những chủ trương, biện pháp nhằm củng cố tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc ở Kon Tum.
Đó là một trong những lý do tôi chọn đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Kon Tum hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, từ thực
trạng khối đại đoàn kết dân tộc ở Kon Tum hiện nay, luận văn xây dựng các
giải pháp nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở Kon Tum trong giai
đoạn hiện nay.


3

- Nhiệm vụ của luận văn
- Thứ nhất: Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và khối đại
đoàn kết dân tộc.
- Thứ hai: Làm rõ thực trạng vấn đề dân tộc và khối đại đoàn kết dân tộc
ở Kon Tum hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc ở Kon Tum.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc ở Kon Tum hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc vào việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Kon Tum hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Bên cạnh phương pháp biện chứng duy vật,
phương pháp duy vật lịch sử; luận văn còn sử dụng các phương pháp phân
tích- tổng hợp, logic- lịch sử, quy nạp- diễn dịch, so sánh đối chiếu; điều tra;
khảo sát…vv.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu; kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
chính của luận văn gồm ba chương và 6 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Do vai trò và ý nghĩa của nó, Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được các nhà
khoa học trong nước chú tâm nghiên cứu, tiếp cận từ nhiều hướng nghiên cứu
khác nhau như: Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh do PGS. TS. Phùng Hữu
Phú chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia (1995), trong đó tác giả làm sáng tỏ chiến
lược đại đoàn kết do Hồ Chí Minh khởi xướng nhằm tập hợp khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Tác giả đã đưa ra những lý luận thực tiễn góp phần hoàn thiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.


4

Năm 2010, sách Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội do PGS.TS. Vũ Đình Hòe và PGS.TS. Bùi Đình Phong (đồng chủ
biên), Nxb. Chính trị quốc gia. Trong đó các tác giả đã tập trung phân tích
làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc ta. Nội dung cuốn sách được coi như là những tổng kết bước đầu về cống
hiến to lớn, quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt
Nam. Trên cơ sở đó các tác giả khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn to lớn
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với độc lập dân tộc và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách: Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc do PTS. Nguyễn Thế Thắng chủ biên, Nxb. Lao động, Hà Nội (1999);
Sự hình thành tư tường Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc của
TS. Nguyễn Đình Thuận, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2002); Chủ tịch
Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam
của Chu Đức Tính, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2001).
Đặc biệt nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh của chủ tịch “Hồ Chí Minh,
Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo
khoa học quốc tế “ Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”. Trong đó
gần 200 bài viết gửi về tham gia Hội thảo là kết quả của sự dày công nghiên
cứu đối với tài năng, đức độ và công lao của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như
những di sản của Người. Cuốn Kỷ yếu “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại
ngày nay” với nội dung làm sáng tỏ hơn nữa những nhận thức mới trong di
sản Hồ Chí Minh đối với thời đại ngày nay.
Cuốn sách gồm ba phần, trong đó phần đầu tiên có rất nhiều tham luận
nói về chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Một số tham luận cũng bàn nhiều về
Những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội (Tô Huy Rứa); Giải phóng dân tộc, giải phóng con người, hạt


5

nhân tư tưởng Hồ Chí Minh ( PGS. TS. Phạm Hồng Chương). Trong cuốn Kỷ
yếu,cũng có rất nhiều tham luận về Di sản Hồ Chí Minh về hòa bình, hữu
nghị và hợp tác giữa các dân tộc. Bao gồm 29 tham luận, những bài viết này
đều cho thấy Hồ Chí Minh là biểu tượng của khát vọng hòa bình Việt Nam,
của tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc.
Bên cạnh đó, có thể kể đến một số bài báo nghiên cứu đề cập đến vấn đề
này như: Nguyễn Bá Linh ( 1993), “Những nhân tố quyết định đến sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc”; Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (1998), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”; Tạp chí Cộng sản, (08), tr 2729;Nguyễn Chí Mỹ, Nguyễn Ngọc Long (1999), Nét đặc sắc trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam, Tạp chí cộng
sản (6), tr20; Phạm Hồng Chương (2003), “Tiếp tục nghiên cứu, vận dụng,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(07), tr.25-27; Đoàn Minh Duệ (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới”, Tạp chí
triết học, (1), tr 22-27; Tạp chí Lịch sử Đảng, ( 02), tr 3-18.
Việc nghiên cứu về vấn đề dân tộc ở Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên
nói chung từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến. Năm 2002,
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia cho ra đời ấn phẩm: Một số
vấn đề phát triển kinh tế- xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên, trong đó
có những bài viết liên quan đến vấn đề môi trường và kinh tế- xã hội thôn Klau
Klá, xã Ya Chim, thị xã Kon Tum và rất nhiều những bài viết khẳng định vị trí,
vai trò quan trọng của buôn làng và đưa ra những kiến nghị, giải pháp ban đầu
liên quan đến buôn làng Tây Nguyên.
Năm 1978, cố Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã viết bài liên quan đến Tây
Nguyên nói chung như: “Tây Nguyên đoàn kết tiến lên” (Tạp chí Cộng Sản1978). Một số công trình chuyên khảo về dân tộc học như: Các dân tộc ít


6
người ở Việt Nam ( các tỉnh phía Nam) của Hoàng Văn Huyền; các dân tộc ở

Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên ( 1981); đặc biệt cuốn sách
Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã
giúp người đọc hiểu rõ hơn nguồn gốc tộc người, đặc điểm kinh tế của các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Không gian sinh tồn tự nhiên và xã hội của Tây Nguyên cũng được các
học giả nước ngoài nghiên cứu, trong đó tập trung vào các nhà dân tộc học
người Pháp, điển hình là G.Godonminas với cuốn sách Không gian xã hội
Đông Nam Á, Anne De Hauteclogue- Howe (2004), với cuốn sách Người Ê
đê, một xã hội mẫu quyền do Nxb văn hóa dân tộc ấn hành, trong đó những
cuốn sách này nói về những khảo sát về không gian kinh tế- xã hội của các
buôn làng ở Tây Nguyên.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc đã được nhiều tổ chức và
nhiều nhà khoa học có uy tín quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Nhưng thực sự
chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề “ Tư Tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Kon Tum
hiện nay” một cách có hệ thống.
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng những công trình nghiên cứu nêu trên, tác
giả luận văn chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu của mình.


7
CHƯƠNG 1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC
1.1.1. Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là do sự kết hợp của nhiều
nhân tố tạo nên như: Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam, quê hương,
gia đình, tinh hoa văn hóa nhân loại và những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về vấn đề dân tộc, thuộc địa. Bên cạnh đó, nhân tố chủ quan cũng quyết

định một phần rất quan trọng hình thành nên tư tưởng của Người. Những yếu
tố này giúp cho chúng ta hiểu được bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc nói riêng.
Truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam
Trước hết đó là, chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình
lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là dòng lưu chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc
Việt. Với vị trí địa lý đặc biệt của mình, Việt Nam là quốc gia thường xuyên
bị hiểm họa xâm lăng từ phong kiến phương Bắc. Sử sách kể lại rằng từ đời
nhà Tần- Hán Trung Hoa đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt...
đưa những người bị dày xuống ở với người Việt.
Để giữ gìn nền độc lập của dân tộc mình Nhà nước cổ ra đời (Văn langÂu Lạc) đứng ra để tổ chức tập hợp lực lượng, chỉ huy dân tộc để đánh giặc
ngoại xâm. Điển hình ngay từ thể kỷ III. Tr.CN chúng ta đã đánh tan 50 vạn
quân Tần sang xâm lược.
Sau khi An Dương Vương mất cảnh giác để mất nước vào tay Triệu Đà
năm 179 TCN. Nước ta chịu sự đô hộ kéo dài hơn nghìn năm (từ năm 179 đến
năm 938), chủ yếu chịu sự đô hộ của nhà Hán và nhà Đường. Trong khoảng
thời gian đen tối ấy, dân tộc Việt Nam phải chịu đựng rất nhiều đau thương,


8
đồng thời có nguy cơ bị đồng hóa bởi nhà Hán, Đường. Nhưng nhân dân Việt
Nam không chịu khuất phục, tinh thần đối kháng thường trực và bất khuất đã
bộc lộ mạnh mẽ qua các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43), Triệu Thị
Trinh (246), Lý Bôn (544-548), Triệu Quang Phục ( 548-571), Mai Thúc
Loan (722), Phùng Hưng (791), cha con họ Khúc ...
Nghìn năm Bắc thuộc chúng ta đã đổ biết bao nhiêu xương máu của con
cháu người Việt, thua keo này ta bày keo khác, dân tộc ta quyết giành lại
được độc lập dân tộc mới thôi.
Khoảng đầu thế kỷ thứ X, triều đại nhà Đường sụp đổ, tiếp theo đó là
thời kỳ độc lập tự chủ của nước ta. Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành

thắng lợi, tự xưng Tiết độ xứ, xây dựng độc lập.
Chiến thắng của Ngô Quyền năm 938 đánh quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng đã đánh bại âm mưu đồng hóa của phong kiến phương Bắc, khẳng
định quyền độc lập tự chủ của nước ta, chấm dứt thời kỳ nghìn năm bắc
thuộc, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta. Trong thời kỳ Bắc thuộc ý thức
về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của người Việt không bao giờ mất đi,
và càng không bao giờ bị đồng hóa mặt khác còn giữ gìn được bản sắc văn
hóa dân tộc. Như vậy, chính chủ nghĩa yêu nước là dòng lưu chảy xuyên suốt
lịch sử dân tộc Việt Nam, đứng đầu bảng giá trị văn hóa của dân tộc Việt.
Thứ hai, khi nói về truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh thường đề cao truyền thống tương thân, tương ái, tinh thần nhân nghĩa,
truyền thống đoàn kết...
Truyền thống này được đúc kết cùng với sự ra đời của dân tộc. Ngay từ
khi lịch sử chưa thành văn, tư tưởng của con người thường được gửi gắm qua
các câu truyện thần thoại của dân tộc ta. Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng kể
rằng vua đầu tiên của họ Hồng Bàng tên là Lộc Tục, cháu bốn đời của Viêm
Đế (vua xứ nóng), họ Thần Nông. Lộc Tục lấy con gái của vua Hồ Động Đình


9
là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc
Long Quân lấy Âu Cơ và sinh ra bọc trăng trứng, trăm trứng nở thành trăm
con trai, nhắc nhở đồng bào ta nhớ về cội nguồn, vì thế trong cuộc sống phải
yêu thương nhau, đoàn kết với nhau vì dân tộc Việt Nam là một giống, một
nòi, một mẹ sinh ra.
Khi đề cao truyền thống nhân ái, ca dao Việt Nam nhắc nhở chúng ta
rằng “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau
cùng” hay “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”; truyền thống tốt đẹp ấy thể
hiện trong phạm vi làng là cơ sở tạo nên tính đồng nhất “ bán anh em xa, mua
láng riềng gần”. Việc chống giặc ngoại xâm đòi hỏi phải có tinh thần đoàn

kết toàn dân và lòng yêu nước cũng là một nguyên nhân làm cho dân tộc ta có
được những truyền thống quý báu đó.
Truyền thống này cũng được thể hiện khi phong kiến phương Bắc đã
nhiều lần đồng hóa dân tộc Việt nhưng cuối cùng cũng thất bại, điển hình là
thời kỳ Bắc thuộc họ đã dùng tiếng nói để đồng hóa, mất tiếng nói dân tộc là
mất hết. Ở thời kỳ này tuy người Việt học tiếng Hán nhưng cứ đọc theo tiếng
Việt, chính vì thế sau này người Việt căn cứ vào chữ Hán để tạo ra chữ Nôm
là chữ quốc ngữ đầu tiên của mình. Người Việt đã gìn giữ những truyền thống
tốt đẹp đó ngay cả những lúc khó khăn, hoạn nạn, họ cũng không đánh mất
chính cội nguồn, tổ tiên của chính mình. Hồ Chí Minh đã kế thừa những
truyền thống tốt đẹp ấy, Người đã phát huy sức mạnh của truyền thống nhân
nghĩa và nhấn mạnh rằng cần phải đồng tình; đồng sức; đồng lòng; đồng minh
thì có thể chiến thắng tất cả mọi kẻ thù nguy hiểm nhất.
Thứ ba, dân tộc Việt Nam là dân tộc trọng đạo lý làm người đề cao trách
nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với gia đình, làng nước, tổ quốc, coi đó là
những chuẩn mực cao nhất của nhân cách con người, văn hóa dạy cho người
dân không quyên được cội nguồn, đất tổ của mình. Người Việt Nam có một


10
tín ngưỡng đặc biệt là thờ tư bất tử (bốn người không chết): Tản Viên, Thánh
Gióng, Chữ Đồng Tử và Liễu Hạnh.
Tản Viên (Truyền thuyết Sơn Tinh- Thủy Tinh) và Thánh Gióng với
truyền thuyết Thánh Gióng là biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của một
cộng đồng cư dân nông nghiệp để, một mặt, ứng phó với môi trường tự nhiên
là chống lũ lụt và, mặt khác ứng phó với môi trường xã hội là chống giặc
ngoại xâm, sự phối hợp thần thánh ấy đã dựng nên Đất Nước.
Có đất nước rồi, được cuộc sống yên ổn rồi, con người Việt Nam không
mơ ước gì hơn là xây dựng một cuộc sống phồn vinh về vật chất và hạnh phúc
về tinh thần. Chử Đồng Tử- người nông dân nghèo với hai bàn tay trắng, đã

cùng vợ xây dựng cơ nghiệp với phố xá xầm uất, mang vàng ra biển buôn bán
với thương lái nước ngoài- chính là biểu tượng cho ước mơ thứ nhất. Liễu
Hạnh người con gái quê ở xã Vân Cát ( huyện Vũ Bản, Nam Định) tương
truyền là công chúa con Trời, ba lần từ bỏ cuộc sống đầy đủ trên thiên đường,
xin vua cha cho xuống trần gian sống cuộc đời của người phụ nữ bình dị với
khát vọng về tự do, hạnh phúc- chính là biểu tượng ước vọng thứ hai. Ước
vọng thiêng liêng ấy đã tạo nên Con người.
Như vậy tục thờ Tứ bất tử là một giá trị tinh thần rất đẹp của dân tộc ta.
Đó là tinh hoa được chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử biểu tượng cho sức
mạnh liên kết của cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây
dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc.
Thứ 4, dân tộc Việt Nam có truyền thống lạc quan yêu đời. Điều đó được
thể hiện trong mọi mặt của đời sống xã hội. Từ những câu truyện dân gian
như: “Cái ông mất ngựa”, đến những câu ca dao như “ chớ thấy sóng cả mà
ngã tay chèo”; điều đó cho thấy trong mọi hoàn cảnh, dù là hoàn cảnh khó
khăn nhất, nhưng nếu có tinh thần lạc quan, tin tưởng vào bản thân của chính
mình thì nhất định sẽ chiến thắng. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống


11
lạc quan đó, luôn tin tưởng vào chính mình, vào tương lai nhất định cái tốt
đẹp sẽ đến với đất nước và dân tộc của mình.
Thứ 5, với vị trí đặc biệt của mình, Việt Nam là giao điểm của các luồng
văn hóa, chúng ta tiếp giáp với những nước có nền văn minh lâu đời như:
Trung Quốc; Ấn Độ; dân tộc ta biết học hỏi và không ngừng mở rộng đón
nhận tinh hoa của các nền văn hóa lớn trên thế giới. Việc giao lưu với Trung
Hoa dẫn đến người Việt dùng chữ Hán làm văn tự, nhưng cải biến chữ Hán
thành chữ Nôm là một sản phẩm của cuộc giao lưu đó. Chữ Nôm được dùng
trong sáng tác văn chương và được đề cao dưới triều đại nhà Hồ và triều đại
Tây Sơn. Vua Quang Trung đã sử dụng chữ Nôm là văn tự chính để đề ra các

chiếu chỉ của mình và nhà vua cũng có ý định tổ chức dịch các sách vở kinh
điển từ Hán sang Nôm.
Như vậy, mặc dù giao lưu văn hóa, nhưng người Việt biết cách cải biến
nó cho phù hợp với hoàn cảnh của chính mình. Trong cuộc sống đời thường
ngay cả những khái niệm vay mượn đơn độc, nhưng khi du nhập vào Việt
Nam cũng được cải biến như: ở Trung Quốc thần mai mối là ông Tơ Hồng thì
khi vào Việt Nam biến thành Ông Tơ- Bà Nguyệt. Người Ấn Độ chỉ có Phật
ông thì vào Việt Nam xuất hiện thêm Phật Ông – Phật Bà.
Ở mỗi thời kỳ phát triển, văn hóa Việt Nam đều đón nhận những luồng
văn hóa mới, người Việt Nam biết tiếp nhận và cải biến cho phù hợp với hoàn
cảnh của mình, tuy thế vẫn giữ được những truyền thống, bản sắc của văn hóa
Việt. Chính vì thế, dù bị phong kiến phương Bắc nghìn năm đô hộ, nhưng họ
vẫn không thể đồng hóa được dân tộc Việt Nam.
Tất cả những đặc trưng làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam được đề cập
trên đã thấm vào tâm hồn, nhân cách của Hồ Chí Minh. Người đã viết ở nước
ngoài từ đầu những năm 20 của thể kỷ trước về văn hóa và con người Việt
Nam trong nước An Nam dưới con mắt người Pháp: “ Chúng ta thấy ở đây cả


12
một nền văn minh, mọi thứ đều xây dựng từ lâu. Nghệ thuật, khoa học, kể cả
khoa học quản lý nhà nước đều đã phát triển mạnh mẽ. Luật pháp cổ phong,
tôn giáo, văn học, tất cả đều hoàn chỉnh và hòa hợp với nhau, trãi qua bao
nhiêu thế kỷ, đã được điều hòa và ngày càng hoàn hảo thêm. Những vết tích
man rợ đã mất đi từ lâu, dân tộc này đã sống trong một xã hội thuần tục có tổ
chức trong khi những người phương Tây còn ở tình trạng bán khai”. [38, tr.
425-426]
Nguyễn Ái Quốc nói về những thuần phong mỹ tục trong bản tính con
người Việt Nam: “ Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, tôn kính tổ tiên,
yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, coi trọng lời

nói thánh hiền, yêu thương giống nòi, tôn kính lẻ phải, ghét xa hoa, không
hám tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ, hy sinh; đó là những đặc
điểm về bản tính của người An Nam hình thành từ bao thế hệ, những thế hệ
luôn luôn cố gắng thực hiện đạo đức ấy một cách thành kính, người An Nam
bình thường mà người ta gặp bấy cứ nơi đâu cũng đều như vậy cản...Trong
đám người bình dân, người ta cũng thấy những thuần phong mỹ tục ấy, kể cả
người mà xưa nay chúng ta thường quen gọi là bọn côn đồ, quân ăn cướp”
[38,tr. 425-426]
Chính chủ nghĩa yêu nước- nhân văn Việt Nam là cội nguồn, là giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp, là điểm xuất phát, là động lực lên đường cứu
nước để Hồ Chí Minh lựa chọn và tiếp nhận.
Chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh là sự kế thừa những giá trị của chủ
nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc nhưng được phát triển với tinh thần nhân
văn, đổi mới, phù hợp với thực tiễn thời đại.
Truyền thống quê hương và gia đình
Truyền thống quê hương và gia đình là một nhân tố quan trọng hình
thành nên tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà


13
nho, cụ Nguyễn Sinh Sắc là người yêu nước và sống gần gũi với nhân dân lao
động, mặc dù đỗ khoa bảng nhưng cụ không ra làm quan, sống một cuộc đời
thanh bạch, vào Nam Bộ làm ghề thầy thuốc giúp nhân dân lao động. Cuộc
đời của cụ là một tấm gương sáng về lối sống giản dị, yêu nước, thương dân.
Từ tấm gương sáng ấy đã tác động đến nhân cách, đến hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh sau này.
Hồ Chí Minh cũng sinh ra ở vùng quê đất địa linh nhân kiệt. Nơi đây là
vùng đất giàu truyền thống cách mạng, đó là quê hương của nhiều vị anh
hùng nổi tiếng trong lịch sư như: Mai Thúc Loan, Đặng Dung, Nguyễn Biểu,
hay các lãnh tụ yêu nước như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu.

Chính điều đó đã nuôi dưỡng tâm hồn của người, là nhân tố ảnh hưởng
quan trọng đến quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Việc kết hợp truyền thống văn hóa phương Đông với các thành tựu hiện
đại của văn minh phương Tây là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân
cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Nho giáo và Phật giáo ở phương Đông đã ảnh hưởng tới Hồ
Chí Minh ngày từ thưở thiếu thời. Hồ Chí Minh mang dấu ấn của cả NhoPhật- Đạo. Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, Nguyễn Ái Quốc đã học
hỏi được rất nhiều ở Nho gia; trong những bài nói và viết của người có hàng
nghìn câu trích dẫn hoặc vận dụng những cách nói của Khổng Tử. Ngay từ
khi còn nhỏ Người đã được đọc các tác phẩm “ tứ thư, ngũ kinh”, những tác
phẩm kinh điển của Nho giáo. Người tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho
giáo như: triết lý hành động, nhập thế, hành đạo, giúp người, ước mơ về xã
hội hòa mục, hòa đồng, triết lý nhân sinh; tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa
lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học...vv. Nho giáo đề cao tư tưởng “ trung
quân”, còn tư tưởng yêu nước thì không được đề cập tới. Hồ Chí Minh tiếp


14
thu tư tưởng này của Nho gia và cải biến nó cho phù hợp với đất nước mình
đó là trung với nước, nhưng hiếu nhân dân. Như vậy, tư tưởng trung quân của
Nho giáo đã được Người cải biến thành tinh thần yêu nước và tinh thần dân
tộc.
Tuy nhiên, hệ thống triết lý của nhà Nho cũng gặp rất nhiều điểm hạn
chế như: chứa đựng yếu tố duy tâm, bảo thủ, lạc hậu, phân biệt đẳng cấp, coi
thường phụ nữ.Nhận xét về học thuyết của Khổng Tử, Người nói: “Tuy
Khổng Tử phong kiến và tuy học thuyết của Khổng Tử có nhiều điểm không
đúng song những điều hay đó thì chúng ta nên học” [60 ,tr 46].
Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng vị tha,
từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn của đạo Phật. Phật giáo được truyền vào Việt

nam rất sớm, có nhiều ý kiến cho rằng nơi ra đời ở Luy Lâu (Bắc Ninh), khi
vào Việt Nam, giáo lý của nhà Phật truyền tải được tư tưởng bình đẳng, bác
ái, cứu khổ, cứu nạn....đặc biệt lối sống tích cực của nhà Phật gần gũi với tín
ngưỡng văn hóa Việt Nam nên được người Việt dễ dàng chấp nhận.
Phật giáo ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết trong cộng đồng dân tộc,
khi tổ quốc lâm nguy sẵn sàng tham gia đấu tranh chống kẻ thù, bảo vệ độc
lập dân tộc. Giáo lý của Phật giáo đi tìm căn nguyên của nổi khổ con người,
Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp báo của bộ kinh Veda và của
đạo Balamon. Theo đạo Phật đời sống con người là bể khổ, cái khổ ấy không
ngoài 8 nổi khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (yêu mà phải ở xa), oán tăng
hội (ghét mà phải ở gần), sở cầu bất đắc (muốn mà không được), thủ ngũ uẩn
(khổ vì có sự tồn tại của thân xác).
Mọi nổi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo chỉ ra rằng do con người ta
“vô minh” do đó, con đường để diệt khổ phải thực hiện “ bát chính đạo” con
người có thể giải thoát được vô minh, nhập vào cõi niết bàn. Những tư tưởng
của Phật giáo được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển lên tầm cao mới, những


15
phương pháp của nhà Phật được người vận dụng một cách sáng tạo. Người
cũng hướng đến những nổi khổ của con người và đưa ra con đường diệt khổ
là đấu tranh để giành độc lập dân tộc, muốn có được sức mạnh đó phải là đại
đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế sẽ tạo ra một nguồn sức mạnh to lớn
giúp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Người Việt vốn có đầu óc thiết thực, coi trọng việc tạo phúc cho con
cháu, trong dân gian thường nói: Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba
tu chùa; Dù xây chín bậc phù- đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người.
Mặc dù tiếp nhận những yếu tố tích cực của Phật giáo, nhưng người Việt vẫn
giữ truyền thống thờ ông bà tổ tiên: Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ
mới là chân tu (ca dao).

Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật giáo Việt Nam đã đi
vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia
đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và
để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đạo giáo nhâm nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ thức II ( tr.CN). Đạo
của Lão Tử là học thuyết đã chuyển hóa được những tư tưởng triết lý của
truyền thống văn hóa nông nghiệp phương Nam, đạo của ông là một khái
niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên. Như vậy, Đạo
chẳng phải cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lý tôn trọng tự nhiên. Hầu
như các nhà Nho Việt Nam đều mang khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc
và lối sống coi nhẹ hình thức của Lão giáo cũng thể hiện rất rõ ở các nhà Nho
của Việt Nam. Sinh ra không gặp thời, gặp nhiều chuyện bất bình trong triều
đình, hoặc khi về già, họ thường về quê ở ẩn, tìm thú vui với thiên nhiên, sống
cuộc đời bình dị bên ao cá, gốc rau, như một cách để dưỡng an tinh thần. Rất
nhiều nhà nho nổi tiếng như: Thầy giáo Chu Văn An; Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đều là những ví dụ điển hình. Hồ Chí Minh cũng không


16
nằm ngoài thông lệ đó, nói chuyện với các nhà báo tháng 1- 1946, Người bộc
lộ ước mơ rất Việt Nam và rất Lão Trang của mình: “ Riêng phần tôi thì làm
một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm
chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì tới
danh lợi”. Cuộc sống thanh đạm của Người ở ngôi nhà sàn trong vườn cây,
bên ao cá là sự hiện thực một phần ước muốn đó.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chịu nhiều ảnh hưởng của học thuyết Tam
dân của Tôn Trung Sơn, với nội dung: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do,
dân sinh hạnh phúc”. Người đã vận dụng tư tưởng này phù hợp với thực tiễn
nước ta và mang nhiều màu sắc nhân văn.
Lĩnh hội tư tưởng văn hóa phương Tây: Trong ba mươi năm hoạt động

cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên cũng
chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của
phương Tây.
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh
được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te,
Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789,
như Tinh thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô,
v.v…tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng
của Người. Ngoài ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành
được phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở
Pháp, Người đã có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối
tự do, thuận lợi hơn ở trên đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao lòng nhân ái, đức hy sinh, những giá trị
cơ bản của Thiên chúa giáo. Người đã tiếp thu những hạt nhân hợp lý của
thiên chúa để xây dựng những nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc một cách đúng
đắn, khoa học.


17
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của nhà yêu nước tiêu biểu
của Ấn Độ là Mahatma Gandhi. Ông là lãnh tụ của Đảng Quốc đại Ấn Độ, là
anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân
của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ. Tư tưởng đoàn kết dân tộc của
ông đã có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước châu Á bị đô hộ áp bức đấu
tranh cho nền độc lập của Ấn Độ. Những giá trị đó được Người thâu hái, chọn
lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà vận dụng có chọn lọc, kế
thừa và đổi mới phù hợp với hoàn cảnh đất nước mình.
Khi lăn lội ở các nước phương tây, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp lối tư
duy tổng hợp dựa trên cảm tính của truyền thống văn hóa phương Đông với
phương pháp tư duy phân tích dựa trên lý tính của truyền thống văn hóa

phương Tây, tạo nên một phong cách điều tra tỉ mỉ và cách trình bày chặt chẽ
đầy sức thuyết phục trong hàng loạt những bài phóng sự, tiểu phẩm, truyện ký
...của Người. Không chỉ tổng hợp lối sống tư duy, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí
Minh đã phối hợp cả lối sống cộng đồng coi trọng tập thể của truyền thống
Việt Nam với lối sống phương Tây coi trọng cá nhân.
Có thể nói Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh còn là người Việt Nam đầu
tiên tích hợp các giá trị văn hóa Đông- Tây với tinh hoa của chủ nghĩa Mác.
Hồ Chí Minh từng nói với một nhà báo:
“ Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là tu dưỡng đạo đức cá
nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích
hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao?
Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội.


18
Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ
nhất định chung sống với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết
Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vị ấy” [60, tr 91].
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách
có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ
thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc
khác trên thế giới.
Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề dân tộc
Đây là nhân tố quan trọng nhất hình thành thế giới quan và phương pháp
luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin được

tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn đấu tranh vì độc lập dân tộc và giải
phóng dân tộc.Khi nghiên cứu những quan điểm của C.Mác và Ănghen về
vấn đề dân tộc, Hồ Chí Minh đã đọc rất nhiều tác phẩm của C.Mác và Ănghen
được thể hiện trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước” của Ph. Ănghen và tác phẩm của hai người viết chung “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản” viết năm 1848.
C. Mác và Ph. Ănghen quan niệm dân tộc là sản phẩm của quá trình phát
triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người, các hình thức cộng đồng người đã
từng tồn tại trong lịch sử trước khi có dân tộc là: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Do sự phát triển kinh tế, văn hóa dẫn đến sự ra đời của một hình thức
cộng đồng người mới thay thế bộ tộc đó là dân tộc. Dân tộc được hình thành
trong quá trình lịch sử với những đặc điểm chung là: Cùng chung sống trên
một lãnh thổ, có chung một nền kinh tế và chung một ngôn ngữ và có chung
một văn hóa, tâm lý, tích cách. Những đặc trưng này có quan hệ chặt chẽ với
nhau trong đó đặc trưng “ có chung một nền văn hóa, tâm lý, tích cách” là đặc
trung cơ bản tạo nên bản sắc dân tộc.


19
Quá trình hình thành dân tộc
Ph. Ănghen cho rằng, ở châu Âu dân tộc ra đời với sự thống nhất thị
trường diễn ra mạnh mẽ ở thế kỷ IX. Ở Châu Á dân tộc ra đời sớm hơn do
nhu cầu thống nhất cộng đồng để tiến hành đấu tranh chống lại thiên tai khắc
nghiệt đối với nền nông nghiệp lúa nước. Ở châu Phi quá trình thường gắn
liền với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc chống ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Kế thừa những quan điểm của C. Mác và Ph. Ănghen về vấn đề dân tộc
Lênin đã phát triển thành hệ thống lý luận sâu sắc, làm tiền đề cho việc vận
dụng vào đường lối, chính sách của các chính Đảng của giai cấp vô sản.
Quan niệm của Lênin về vấn đề dân tộc được trình bày ở rất nhiều tác

phẩm nhưng đặc biệt hơn cả là tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, tác phẩm gồm 12 chương, trong đó
Lênin đề cập đến một số vấn đề như: Giai cấp tư sản đã giải quyết một cách
trừu tượng và hình thức vấn đề dân tộc và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Đó là một sự dối trá, thủ tiêu đấu tranh giai cấp nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp tư sản. Thực chất chủ nghĩa dân tộc của giai cấp tư sản là vị kỷ, hẹp hòi,
cá lớn nuốt cá bé. Nó tạo ra những quốc gia độc lập về phương diện chính
trị, nhưng hoàn toàn phụ thuộc và chủ nghĩa tư bản về phương diện kinh tế,
tài chính và quân sự.
Bên cạnh đó, Lênin đã đặt ra một loạt các vấn đề có tính nguyên lý và
những phương hướng giải quyết các vấn đề dân tộc của chủ nghĩa quốc tế vô
sản trong sáng. Ở đó các dân tộc có quyền bình đẳng và quyền tự quyết về
vận mệnh của dân tộc mình trên tinh thần hợp tác và xích lại gần nhau giữa
các dân tộc. Đây là sự phát triển, hoàn thiện lý luận chủ nghĩa Mác về vấn đề
dân tộc của Lênin.
Nếu trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do Ănghen viết


20
cho lần tái bản 1892 và 1893 khẳng định: giải phóng dân tộc là điều kiện để
đoàn kết quốc tế chống chủ nghĩa tư bản, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Thì “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và dân
tộc thuộc địa” của Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc liên quan trực tiếp đến
cách mạng Việt Nam và ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa Mác- Lênin. Những nguyên tắc đó là:
Nguyên tắc thứ nhất là: Phải phân biệt rõ lợi ích của các giai cấp bị áp
bức, bóc lột với lợi ích của giai cấp thống trị. Phân biệt rõ quyền lợi của dân
tộc bị áp bức với quyền lợi của các lực lượng đi áp bức. Hồ Chí Minh tiếp thu
nguyên tắc này một cách sâu sắc. Người phân tích mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam và đã tìm ra phương pháp đúng để giải quyết mâu

thuẫn đó nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là một nguyên
tắc tư duy chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh nhằm thêm nhiều bạn và bớt đi
những kẻ thù không cần thiết, nó có giá trị to lớn đối với sự nghiệp đại đoàn
kết toàn dân tộc của cách mạng Việt Nam.
Nguyên tắc thứ hai là: gắn kết phong trào công nhân với phong trào giai
phóng dân tộc là vấn đề sống còn, là điều kiện tiên quyết trong sự nghiệp đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản. Nhận thức được nguyên tắc này, Hồ Chí Minh
đã nhận xét rằng: Lênin là người đầu tiên hiểu và đánh giá tầm quan trọng lớn
lao của việc lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa vào phong trào cách mạng.
Chính Lênin là người đầu tiên chỉ rõ nếu không có sự tham gia của các dân
tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội không thể có được.
Do hạn chế về lịch sử, mặc dù thấy được tầm quan trọng của cách mạng
giải phóng dân tộc, nhưng Lênin vẫn khẳng định sự thắng lợi của cách mạng
thuộc địa phụ thuộc bị phụ thuộc vào sự thắng lợi của cách mạng vô sản ở
chính quốc.
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc Lênin cũng đã phát hiện ra hai xu hướng


×