Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

QUAN NIỆM CON NGƯỜI ANH HÙNG TRONG TAM QUỐC DIỄN NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.26 KB, 17 trang )

CHƯƠNG I
1.1. Lời nói đầu – Lịch sử nghiên cứu:
Trung Quốc là một quốc gia có lịch sử văn hóa lâu đời, nơi đây được xem là một
trong bảy nền văn minh kiến tạo của thế giới. Nền văn học sử của Trung Quốc
hình thành từ khá sớm, với một khối lượng tác phẩm đồ sộ xuyên suốt qua các
thời kì. Đặc biệt với sự xuất hiện của bộ tiểu thuyết “Tam quốc chí thông tục diễn
nghĩa” đã đánh dấu một đỉnh cao mới trong quá trình phát triển của tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết này đã mở ra một thời đại vàng son cho lịch sử
văn học Trung Quốc.
“Tam quốc diễn nghĩa” là bộ tiểu thuyết chương hồi nhận được sự quan tâm, đón
nhận từ phía bạn đọc và đặc biệt là các học giả nghiên cứu về lịch sử, văn hóa,
chính trị. Hình tượng nhân vật trong “Tam quốc diễn nghĩa” được nhà văn La Quán
Trung khắc họa rõ nét về nhiều phương diện. Các mẫu mực, quy chuẩn về anh
hùng thời trung đại được tác giả ấn định vào các nhân vật anh hùng trong tác phẩm
như: Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, Gia Cát Lượng,… Các mẫu hình ấy là sự kết
tinh hoàn thiện về cả tài lẫn trí. Chính vì vậy, các hình tượng trong “Tam quốc diễn
nghĩa” là những nhà quân sự tài ba, những con người “trên thông thiên văn, dưới
tường địa lý”,… Từ những hình tượng anh hùng như vậy đã trở thành nguồn cảm
hứng để các thế hệ hậu sinh, chuyên sâu, tìm tòi nghiên cứu nhằm giải mã những
ẩn khuất trong con người và cả trong mưu lược về binh pháp, chính trị. Điều đó,
khiến cho bộ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc có một chỗ đứng trong lòng bạn
đọc trên khắp thế giới và đặc biệt là những nhà chính trị gia lỗi lạc.
1.2.

Phương pháp nghiên cứu:

Trên thực tế, có rất nhiều những nhà nghiên cứu, phê bình văn học khai thác tác
phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” từ góc nhìn lịch sử, chính trị,… Để làm rõ quan niệm
anh hùng Tam quốc, chúng tôi sẽ tập trung đi sâu vào hình tượng nhân vật. Thông
qua tính cách, ngoại hình, dáng dấp và bản lĩnh chiến trận của nhân vật sẽ làm toát
lên “cái hùng” trong bản thể của họ. Vấn đề này sẽ được triển khai thành từng luận


điểm cụ thể trong chương III.
CHƯƠNG II
2. Khái quát chung
2.1. Đặc điểm tiểu thuyết chương hồi:


Tiểu thuyết chương hồi là một dạng thức tiểu thuyết trường thiên trong văn học
Trung Quốc, phát triển từ thoại bản “giảng sử” thời Tống, được hoàn thiện và đạt
đến đỉnh cao vào thời Minh, tiếp tục phát triển ở thời Thanh. Bắt nguồn từ thể loại
“giảng sử” trong thuyết thoại dân gian, tiểu thuyết chương hồi tiếp tục kế thừa
những đặc điểm nổi bật của thể loại này. Khác với tiểu thuyết cổ điển thường thể
hiện hết các nội dung thông qua những bài đoản thiên, “giảng sử” tái hiện những
câu chuyện lịch sử với dung lượng dài nên phải nói nhiều lần và thông qua mỗi
hồi khác nhau.
Cũng vì thế mà đặc điểm cơ bản đầu tiên của tiểu thuyết chương hồi là sự phân
chia tác phẩm thành các hồi tiếp nối nhau. Với dung lượng lớn nên mỗi hồi đều
được phân tách và đặt một tiêu đề tóm lược nội dung để dễ nhớ và dễ nắm bắt câu
chuyện. Các hồi phải đảm bảo sự liên kết liền mạch và chặt chẽ với nhau bởi nội
dung và hình thức dẫn chuyện. Mở đầu các hồi thường là những câu như : “Trước
đó…”, “Lại nói về…”, “Hãy nói về…”. Trong mỗi hồi thường có những câu thơ
mang tính chất bình luận được dẫn dắt bằng các câu như “Vậy nên đời sau có thơ
rằng:…” hay “Thực là…”. Kết thúc tác phẩm thường là câu gợi dẫn “Muốn biết
sự thể thế nào, xem hồi sau sẽ rõ”… Cách kết thúc này vừa tạo nên sự gắn bó chặt
chẽ, mạch lạc giữa các hồi vừa có tác dụng kích thích sự quan tâm chú ý của
người đọc.
Tiểu thuyết chương hồi có bối cảnh rộng về không gian, dài về thời gian, bao gồm
nhiều sự kiện, nhiều nhân vật. Tuy nhiên trong sự đa dạng, phức tạp ấy vẫn có
những sự kiện trung tâm, những nhân vật chính thể hiện rõ nét quan điểm tư tưởng
của tác giả.
2.2. Đặc trưng tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc:

Dựa vào đề tài và chủ đề tư tưởng, có thể chia tiểu thuyết Trung Quốc thành 5 loại
chính, bao gồm: Tiểu thuyết giảng sử (Tam quốc diễn nghĩa), Tiểu thuyết nghĩa
hiệp (Thủy Hử), Tiểu thuyết thần ma (Tây du kí), Tiểu thuyết nhân tình thế thái
(Hồng Lâu Mộng) và Đoản thiên tiểu thuyết (Liêu trai chí dị). Tiêu biểu cho thể
loại Tiểu thuyết giảng sử là tác phẩm “Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa”, lấy đề
tài trong lịch sử rồi “diễn nghĩa”. “Tam quốc chí” đã thể hiện một cách đầy đủ và
rõ nét đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa. Cùng với tài năng
nghệ thuật của nhà văn La Quán Trung đã đem đến cho độc giả một bối cảnh hiện
thực lịch sử xã hội cát cứ phân tranh .
2.3. Vài nét về tác giả La Quán Trung:


Cuộc đời La Quán Trung không được sử sách ghi chép. Theo một số tư liệu thu
thập được, thì La Quán Trung có tên là La Bản, người Tiền Đường, Thái Nguyên,
hiệu Hồ Hải Tản Nhân. Ông sinh thời vốn là người có trình độ học vấn cao nhưng
tính khí cô độc, có mưu đồ chí lớn.
Với tài năng tổ chức nghệ thuật, La Quán Trung đã gia công những tài liệu sẵn có
để hoàn chỉnh bộ tiểu thuyết rực rỡ nhất trong văn học trung quốc. Ngoài “Tam
Quốc chí”, La Quán Trung còn được xem là một trong những tác giả của bộ Thủy
Hử Truyện. Bên cạnh đó, người đời còn biết đến ông với tư cách một tác gia tạp
kịch. Những kịch tác được kí tên ông đến nay vẫn còn lưu truyền như: Triệu Thái
Tổ Long Hỗ Phong Vân Hội, Tùy Đường Chí Truyên, Tàn Đường Ngũ Đại Sử
Diễn Nghĩa Truyện và Tam Toại Bình Yêu Truyện.
2.4 Khái quát về tiểu thuyết Tam quốc chí của La Quán Trung:
“Tam Quốc diễn nghĩa” tên gọi đầy đủ là “Tam Quốc Chí thông tục diễn nghĩa”.
Tác phẩm ra đời vào khoảng cuối thời Nguyên đầu thời Minh (thế kỷ XIV). Bộ
tiểu thuyết nổi tiếng có độ dài 75 vạn chữ lấy bối cảnh lịch sử 97 năm hình thành,
phát triển và đi đến diệt vong của ba tập đoàn phong kiến Ngụy, Thục, Ngô. Với
thời gian gần một trăm năm đó, từ khi nổ ra khởi nghĩa Hoàng Cân (Khăn Vàng)
đến năm 280 họ Tư Mã thống nhất Trung Quốc lập nên nhà Tấn, tác phẩm đã

phóng chiếu toàn bộ bức tranh sinh động về đời sống chính trị trải khắp đất nước
Trung Hoa.
Tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” gồm 120 hồi.
Bản tóm lược các sự kiện chính:
Hồi thứ 1 và hồi thứ 2 là mở đầu cho thiên tiểu thuyết này dựng lên bối cảnh về sự
sụp đổ thối nát của chính quyền chuyên chế nhà Hán. Từ đó, dẫn đến các cuộc nổi
loạn tiêu biểu là khởi nghĩa giặc Khăn Vàng. Chính vì thế mà lần lượt xuất hiện
những gương mặt anh hùng với mưu đồ và chí hướng riêng.
Hồi thứ 3 đến hồi 14: Đổng Trác được triệu hồi vào cung, phế vua rồi lên làm
tướng quốc, nắm giữ mọi quyền binh. Từ đó là cả một thời kì tàn bạo, lộng quyền
kéo dài của các thuộc hạ, các dư đảng của Đổng Trác cho đến khi bị tiêu diệt. Cùng
lúc đó, Tôn Kiên có được ngọc tỷ.
Hồi thứ 14 đến hồi thứ 33 viết về tình hình chính trị, xã hội,… trong giai đoạn Tào
Tháo đánh họ Viên và thống nhất phương Bắc.


Hồi thứ 34 đến hồi thứ 40 viết về sự kiện Lưu Bị ba lần sang Kinh Châu và ba lần
đến lều tranh tìm gặp Gia Cát Lượng.
Hồi thứ 41 đến hồi thứ 50 viết về Tào Tháo mở cuộc chinh phạt xuống phía Nam.
Và cảnh tượng hùng tráng trận Xích Bích với tài trí, mưu lược của các vị anh hùng
trong quân sự.
Hồi thứ 51 đến hồi thứ 57 chủ yếu viết về sự diễn biến và mối quan hệ phức tạp
giữa hai bên Lưu Bị và Tôn Quyền. Tuy liên kết nhưng vãn xảy ra mâu thuẫn vì ai
cũng ôm mộng thống nhất đất nước và xưng đế.
Từ hồi 57 đến hồi thứ 74 kể về sự việc Tào Tháo ra sức tinh luyện quân đội để tiến
đánh lấy Hán Trung. Còn Lưu Bị thì lấy Ích Châu cướp Hán Trung.
Từ hồi 75 đến hồi thứ 85 kể về việc Quan vũ bị giết chết. Ngô và Thục giao tranh
với nhau. Vì quá đau buồn trước cái chết của Quan Công và sau đó là Trương Phi
nên Lưu Bị cũng ốm và chết. Theo đó, là chuyện kể về việc dựng nước Nguỵ và
nước Thục.

Từ hồi 85 đến hồi 104 viết về việc Gia Cát Lượng cất quân đi dẹp giặc Man với
tình tiết “ bảy lần bắt Mạnh Hoạch” và “sáu lần ra Kỳ Sơn” cho đến khi Gia Cát
Lượng ốm chết trong quân hàng.
Từ hồi 105 đến hồi 115 là kể về cuộc Bắc phạt của Khương Duy là tướng đại diện
cho nhà Thục và được Gia Cát Lượng trao truyền binh pháp trước khi chết.
Đến hồi 116 viết về sự kiện quân Tấn đánh Thục cho đến khi Thục diệt vong.
Đến hai hồi cuối nói về sự việc quân Tấn diệt Ngô cho đến khi thống nhất đất nước
và chuyển giao quyền lực về nhà Đại Tấn.
CHƯƠNG III
1. Quan niệm anh hùng trong Tam quốc chí
3.1. “Cái hùng” trong mỹ học
3.1.1. Khái niệm
Cái hùng trong mỹ học hay còn gọi là cái trác tuyệt trong nghệ thuật. Với quan
niệm cái hùng trong mỹ học, ta dễ dàng hiểu được, cái hùng trong mỹ học là hình
tượng các nhân vật anh hùng được nhà văn gia công cho những đặc điểm, những
tính chất nổi bật hơn người. Từ đó, làm nổi bật lên cái chất chân chính, cái khí


phách, vẻ đẹp của người anh hùng. Bên cạnh việc khắc họa tính cách của người
anh hùng, nhà văn không quên khắc họa ngoại hình hình tượng anh hùng với sức
lực mạnh mẽ, một thân thể to lớn khác thường, … Thông qua việc khắc họa rõ nét
về tư tưởng lẫn ngoại hình của người anh hùng thể hiện hình tượng nhân vật mang
chất lý tưởng của thời đại và sáng lên như một thực thể cuốn hút và cao cả.
3.1.2. Biểu hiện
Ngược về dòng chảy thời gian của lịch sử văn học thế giới, ta bắt gặp hình tượng
nhân vật anh hùng được hiện ra với tần số dày đặc trong các tác phẩm văn học.
Đặc biệt, hình tượng anh hùng được hiện rõ nét nhất trong thể loại sử thi, vì thể
loại sử thi mang tính anh hùng ca. Nên việc áp dụng cái trác tuyệt, cái cao cả vào
hình tượng người anh hùng là điều hiển nhiên. Qua hàng loạt các sử thi nổi tiếng,
ta bắt gặp rất nhiều hình tượng anh hùng như nhân vật Rama trong sử thi Ấn Độ

Ramayana, người hùng Yudihititra trong sử thi Mahabharata, anh hùng Đămsan
trong sử thi Đămsan,…
3.2. Quan niệm về anh hùng trong “Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa”
Giai đoạn Tam quốc được xem là giai đoạn lịch sử với nhiều vấn đề khó phân và
cũng là thời đại xuất hiện rất nhiều các bậc anh hùng mãnh tướng. Diện mạo của
các anh hùng Tam Quốc được lược thảo qua các luận điểm sau:
3.2.1 Anh hùng cứu thế:
3.2.1.1 Ba anh em (Lưu Quan Trương)
Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi là những vị anh hùng tuấn kiệt thời loạn. Đất
nước trong lúc hoạn nạn, ly tán đã sinh ra những vị anh hùng có tài năng xuất thế
với mong muốn dẹp loạn, bình thiên hạ và yên dân. Chính vì lí do đó, việc kết
nghĩa vườn đào đã thể hiện sự đồng chí hướng, sự kết giao tình huynh đệ để dựa
vào đó mà thực hiện mong muốn “cứu thế” của mình.
Ba anh em gặp nhau trong hoàn cảnh giặc Khăn Vàng nổi dậy, cướp bóc dân chúng
rơi vào thảm cảnh lầm than. Trước tình hình đất nước như vậy, ba anh em cùng
nhau hợp lực, dẹp giặc cứu nguy đất nước. Chính lời thề ở vườn đào đã thể hiện
được khí tiết của vị anh hùng với mong muốn cứu thế “Chúng tôi là Lưu Bị, Quan
Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ song đã kết làm anh em thì phải cùng lòng, hợp
sức cứu khốn phù nguy trên báo đền nợ nước dưới yên định nhân dân”. Lời thề
vườn đào năm xưa đã trở thành tuyên chỉ cho hành động của ba anh em Lưu Quan
Trương. Đến sau này, Quan Công, Trương Phi đã trở thành những tay trợ thủ đắc
lực giúp Lưu Bị dẹp giặc Đổng Trác, phá giặc Tào với mong muốn bình định


Trung Nguyên. Khi đất nước rơi vào thế chân vạc Ngụy Thục Ngô, Lưu Bị xưng
đế nước Thục nhưng việc bình định Trung Nguyên, thống nhất lãnh thổ mang lại
sự bình yên cho nhân dân vẫn luôn sục sôi trong ông. Với chí hướng đó, cộng với
sự trợ giúp đắc lực của Quan Công, Trương Phi và tài mưu lược của Gia Cát
Khổng Minh, Lưu Bị đã nhiều lần tiến công thống nhất thiên hạ. Lưu Bị là con
dòng dõi đế vương nhà Hán, Lưu Bị luôn mong muốn phục dựng lại vương triều

nhà Hán là vì vậy. Khi đất nước bị phân chia, Lưu Bị liên kết với Đông Ngô để
đánh Ngụy. Vì Lưu Bị cho rằng quân Ngụy là những kẻ phản vua, nghịch tặc nổi
loạn. Chính vì vậy, Lưu Bị Quan Công Trương Phi liên tiếp mở các cuộc chiến tập
trung vào nước Ngụy và đỉnh cao là trận Xích Bích, phải khiến cho quân Tào
hoảng sợ và thiệt hại rất nhiều.
Từ đây, ta có thể nhận ra rằng ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi với
mong muốn cứu thế cốt lõi trong đó là muốn yên dân đất nước hòa bình thống
nhất. Cái nền tảng tư tưởng của ba anh em Lưu Quan Trương là tư tưởng nhân
nghĩa. Vì vậy tập đoàn của Lưu Bị rất được lòng dân. Từ sự lược thuật khái quát
như vậy ta có thể thấy được khí phách của bậc đại trượng phu, vị anh hùng dũng
mãnh với khát vọng cứu thế và yên dân. Đời sau có thơ khen rằng:
Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu
Người thử siêu đao kẻ thử mâu
Mới bước chân ra uy đã dữ
Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.
3.2.1.2 Tào Tháo
Nhân vật Tào Tháo được xem là đứa con đẻ của thời loạn. Tác giả đã để cho Hứa
Thiệu nói trước về tính cách của Tào Tháo : “ là năng thần của thời trị, gian thần
của thời loạn”. Nhà văn La Quán Trung đã xây dựng nhân vật Tào Tháo với dáng
dấp của người anh hùng, thể hiện ở chỗ mưu cao, trí lớn có tài điều binh khiển
tướng, bao bọc khắp vũ trụ. Cái hùng trong Tào Tháo được miêu tả ở diện mạo bên
ngoài cùng những hành động đầy mưu tính. Trong tâm thức đế vương, Tào Tháo
luôn hoạch định một thiên hạ thống nhất và và bình định dưới tay ông.
Vẻ ngoài của Tào Tháo được xây dựng như một anh hùng thời thế. Từ việc Tào
Tháo cười nhạo các vị quan trong triều nhận cầm dao ngọc thất bảo của Vương
Doãn tìm thời cơ để đâm Đổng Trác cho đến khi tập hợp được quần thần khắp nơi
để tạo dựng thế lực, chuẩn bị cho âm mưu xây dựng cơ đồ của chính mình. Việc
làm của Tào Tháo không chỉ đơn giản là hành động của một đấng anh kiệt nhân lúc
loạn lạc mà tranh hùng các phương. Ngược lại, ẩn chứa đằng sâu sự oanh liệt trước



mắt là của một âm mưu to lớn là làm bá chủ thống nhất thiên hạ. Chí hướng của
Tào Tháo cộng với tài năng quân sự thật sự hiếm có trong thiên hạ.
Có thể nói cái hùng trong tính cách của Tào Tháo trước hết là ở đạo dùng người.
Tào Tháo rất trọng người tài và cũng rất biết cách để cầu thị nhân tài. Nhìn lại
những vị tướng và các mưu sĩ hàng đầu như: Tuân Úc, Giả Hủ, Quách Gia, Trình
Dục…. đã khẳng định cho bản lĩnh “thống soái cái tài” của Tào Tháo. Chính sự
“biết dùng người, có tài là dùng” của Tào Tháo đã giúp ông thu thập được một một
số lượng lớn nhân tài về trận doanh của mình. Cùng với đó, nguyên tắc dùng người
một cách “thành tâm giữ tín, dùng người tin tưởng” đã làm nên mối gắn bền chặt
giữa vị quân chủ và các tướng lĩnh.
Tính khí của Tào Tháo vốn là xảo trá, nhưng thực sự chính cái quỷ quyệt của ông
ta đã vận hành trong âm mưu, chiến lược tranh đấu một cách xuất sắc. Cái hay của
Tào Tháo nằm ở chỗ ông biết khi nào nên nói dối và khi nào nên thành thật. Để
chiêu dụ được trí sĩ mưu thần, sự khôn vặt càng không làm đối phương tín nhiệm
mà ngược lại còn gây nên sự nghi ngờ. Chính sự thành tâm và thông minh mà Tào
Tháo đã có được những người phò tá đầy tài năng.
Lí giải cho cái hùng của Tào Tháo không nằm ở bản chất thật của kẻ mưu lược mà
nằm ở hình tượng, dáng dấp bên ngoài. Xây dựng nhân vật Tào Tháo là một nét
đặc sắc trong ngòi bút của La Quán Trung khi tạo nên nét mâu thuẫn nhưng lại hài
hòa giữa cái bề ngoài và cái bên trong của nhân vật. Cái hùng của Tào Tháo cộng
với cái gian trá, xảo quyệt trong bản chất nhân vật đã tạo nên tính cách gian hùng.
Nói về Tào Tháo không phải là nói đến một người anh hùng chân chính mà là một
kẻ hùng mưu nhưng tâm sâu chỉ hướng đến mục đích riêng của cá nhân.
Tiểu kết:
So sánh giữa hình tượng ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi và Tào Tháo,
ta nhận thấy những nét riêng biệt và thống nhất. Sự thống nhất ở đây là nằm ở chỗ
cả hai thế lực đều hành động vì mục đích lớn, chí hướng riêng của mình. Hai thế
lực đều được sinh ra là những “anh hùng cứu thế” vì chí lớn, vùng vẫy bốn
phương, thống nhất thiên hạ. Nhưng ở đây điểm khác biệt dễ dàng nhìn thấy đó

chính là ở triết lí vị kỉ, làm tất cả vì mục đích riêng của bản thân (Tào Tháo) và cáo
tâm lớn lao vì an dân, vì vương triều nhà Hán (ba anh em Lưu Quan Trương).
Hành động cứu thế của ba anh em Lưu, Quan, Trương dựa trên nền tảng “ trung
quân, ái quốc ” với cốt lõi là yên dân.
3.2.2. Anh hùng trác tuyệt
3.2.2.1 Tuyệt trí - Gia Cát Lượng


Gia Cát Lượng có tên chữ là Khổng Minh, ông sinh ra vào năm thứ 4 đời Ninh đế
nhà Hán( năm 181sau CN) ở huyện Dương Đô, quận Lang Nha. Với việc khắc họa
diện mạo của Gia Cát Lượng tay cầm quạt lông, mình mặc áo hạc, ta thấy được
hình tượng Gia Cát Lượng khác so với các vị anh hùng khác về tài trí và cũng như
về dáng dấp của mình. Gia Cát Lượng được biết đến như là một nhà ngoại giao ăn
nói hùng hồn, nhà trị nhìn xa trông rộng, nhà binh pháp xuất quỷ nhập thần, hơn
nữa còn là một đạo sĩ có tài hô phong hoán vũ, giẫm đạp thất tinh và có một siêu
năng khác người.
Chính vì tài năng vượt trội này mà Lưu Bị phải ba lần đến tận lều tranh mời Gia
Cát Lượng. Theo Thủy Kính tiên sinh thì : “ tài của Gia Cát Lượng phải được ví
với Lã Vọng làm nên cơ nghiệp 800 năm của nhà Chu và Trương Lương làm nên
cơ nghiệp 400 năm của nhà Hán”. Khi Lưu Bị đến lần thứ ba thì mới gặp được Gia
Cát Lượng với thái độ kính cẩn, nói rõ kế sách định quốc, an bang. Chính vì cảm
kích trước lòng nhân nghĩa của vị anh hào tuấn kiệt hiếm có này, nên Gia Cát
Lượng đã cùng Lưu Bị hạ sơn. Cuộc đời mưu sự chính trị của Gia Cát Lượng bắt
đầu từ đó, vào lúc ông 27 tuổi.
Mở đầu cho sự nghiệp mưu lược chính trị của Khổng Minh là ở gò Bác Vọng. Từ
đây, ta thấy tài trí dụng binh của Gia Cát lượng giỏi giang như thế nào. Chính cái
tài năng xuất chúng của Gia Cát Lượng nên Lưu Bị đã giao quyền binh cho Gia
Cát Lượng. Khi chống quân Tào ở gò Bác Vọng, Gia Cát Lượng đã tự tay cho quân
mai phục, chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào. Với mưu lược và tài lực của
Khổng Minh đã khiến cho toàn bị quân Tào bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy

thoát . Từ đó, uy danh của Khổng Minh đã vang dội khắp trong giới anh hùng hào
kiệt.
Tiếp đó, với mưu trí xuất thần của Khổng Minh được thể hiện qua sự việc hỏa
thiêu Tân Dã. Ở trận này, Khổng Minh đã dụng kế hỏa, thủy để thắng được quân
Tào. Ở đây, Khổng Minh dung hỏa để thiêu rụi Tân Dã, dung thủy để tiêu diệt quân
Tào. Và đỉnh cao là trận Xích Bích khiến tên tuổi của Khổng Minh lưu danh ngàn
đời, vì đó là một trận chiến ác liệt, là sự đấu trí của các nhà cầm binh và cách dụng
binh xuất quỷ nhập thần của họ. Tới trận này, Khổng Minh đã thể hiện được cái tài
“ hô phong, hoán vũ” trong việc Khổng Minh mượn gió Đông giúp Chu Du đốt trại
Tào. Việc lập đàn cầu gió Đông Nam, đã thể hiện được sự tinh thông thiên văn, địa
lí của Khổng Minh.
Với tấm lòng nhân nghĩa của ông từ việc sau bảy lần bắt Mạnh Hoạch, Khổng
Minh đã không giết mà tha cho Mạnh Hoạch con đường sống. Đó là Khổng Minh
đang dùng nhân tâm để thu phục lòng người. Sau đó, Khổng Minh bắt đầu hành
trình“ lục xuất Kỳ Sơn” tức là ra Kỳ Sơn sáu lần, với mong muốn lấy đất Ngụy,


bình định và thống nhất Trung Nguyên theo lời thác của Tiên đế Lưu Bị ,nhưng
ước muốn đó không thành. Với mưu kế “ không thành kế”, Khổng Minh đã để
trống thành , quân Tư Mã Ý tiến vào đánh chiếm nhưng khi đến nơi thấy thành bỏ
trống, còn Khổng Minh ngồi trên thành đánh đàn. Chính vì vậy, quân Tư Mã Ý
sinh nghi , sợ có quân mai phục nên không dám tiến vào mà rút quân về. Sau này,
khi biết được trong thành lúc ấy chỉ có vài trăm binh sĩ già yếu, mà một mình
Khổng Minh có thể đẩy lùi được đạo quân của mình. Tư Mã Ý rất khâm phục và
cho rằng mình còn kém tài so với Khổng Minh.
Và hàng loạt các chiến công lẫy lừng khác đã thể hiện được tài trí trác tuyệt của
Khổng Minh như việc Khổng Minh vào Kiếm Cáp, khiến Trương Cáp mắc phải
mẹo và chết. Đến khi Khổng Minh ra Kỳ Sơn nhiều lần, quân binh thiếu lương, với
trí tuệ thông minh Khổng Minh đã chế ra trâu gỗ, ngựa máy để tải lương. Nhờ đó,
mà quân Ngụy mắc mưu Khổng Minh, bắt chước chế tạo y như vậy và Khổng

Minh đoạt được lương thực của quân Ngụy về tay mình. Cho đến khi đến tận hang
Thượng Phương, Khổng Minh vây khốn cha con Tư Mã Ý, cho quân phóng hỏa
thiêu cháy cha con Tư Mã Ý. Bỗng dưng, lúc ấy trời đổ cơn mưa và Khổng Minh
nhận ra rằng “ hành sự tại người mà thành sự tại trời”, biết là khí vận nhà Hán đến
đây đã tận. Vì không muốn phụ lòng Tiên đế đã ba lần đến lều tranh tìm gặp mình
cộng với lời thác của tiên đế trước khi mất, Khổng Minh không dám nguôi ngoai ý
chí bình định Trung Nguyên và Khổng Minh tiếp tục ra Kỳ Sơn lần thứ sáu với
mong muốn đó. Khi ra Kỳ Sơn lần thứ sáu, Khổng Minh đã cho quân đóng ở gò
Ngũ Trượng để tránh giao chiến với quân Ngụy. Trước khi mất trong trại, Khổng
Minh không quên dặn dò thuộc hạ, củng cố tinh thần binh sĩ và trao truyền binh
thư cho Khương Duy. Với tài phép biến hóa khôn lường của mình, Khổng Minh đã
không để lộ việc mình đã chết cho Tư Mã Ý biêt bằng cách không phát tang, làm
một cái khám to bỏ thây ông vào trong đó, lấy bảy hạt gạo đặt vào miệng, dưới
chân đặt một ngọn đèn sáng và trong quân luôn giữ yên lặng. Điều này khiến cho
tướng tinh của Khổng Minh không rơi xuống và quân giặc sẽ không biết là Khổng
Minh đã chết.
Từ sự khái quát về các chiến công với sự mưu trí hơn người của Gia Cát Lượng
cho thấy ông là người có học vấn uyên bác, có tài nhìn xa trông rộng, giỏi dự đoán,
biết địch biết ta nhiều mưu mẹo linh hoạt trong chiến thuật, nhờ vậy mới có thể đạt
được nhiều thắng lợi trong trận chiến. Hình tượng Gia Cát Lượng trong thiên tiểu
thuyết này vừa có nét “ uyên bác của nhà nho, vừa có cái thông minh hồn hậu dân
dã” thể hiện được một trí tuệ thông minh, cao siêu. La Quán Trung “ gửi gắm lý
tưởng về một nhà nho, một hiền sĩ có tài kinh bang, tế thế, về một nhân vật trí tuệ
hơn người trong việc chinh phục thiên nhiên và chiến thắng kẻ thù”. Từ đây, ta có
thể thấy nhân vật Gia Cát lượng trong tiểu thuyết này hóa thân là một nhân vật có


tài trí trác tuyệt, là một chuẩn mực về hình tượng lý tưởng người anh hùng thời đại
lúc bấy giờ.
3.2.2.2 Tuyệt nhân – Lưu Bị

Xã hội Trung Hoa cổ đại đề cao giá trị đạo đức nhân nghĩa hơn cả. Chính vì lẽ đó
mà phẩm hạnh của bậc quân chủ lại được đặt lên hàng đầu. Lưu Bị với triết lí nhân
sinh trung nghĩa “Ta thà chết chứ không làm điều phụ nghĩa” đã khẳng định cho
khí chất và tấm lòng của mình. Dũng khí bất kể thành bại, thấy nghĩa là làm ấy là
lý do khiến Lưu Bị danh vang bốn biển, khiến nhân dân hướng tới, kẻ sĩ muốn theo
quần hùng cát cứ ai cũng muốn kết minh với ông. Ở phương diện đạo đức, khó ai
có thể sánh bằng Lưu Bị.
Xuất thân từ hoàng tộc, với chí hướng chấn hưng cơ đồ nhà Hán, Lưu Bị hóa thân
của chữ “nhân” trong “nhân hòa” – yếu tố quyết định thành bại của một triều đại.
Sức mạnh tinh thần của Lưu Bị là ở chỗ rất được lòng người. Sỡ dĩ ông rất được
lòng người, một là tín nghĩa với bằng hữu, hai là nhân từ với nhân dân. Chính tấm
lòng nhân từ và nghĩa hiệp đó, mà Lưu Bị đã khiến cho Đào Khiêm sẵn sàng hiến
ấn quan giao hết cơ đồ ở Từ Châu cho ông. Khi bị quân Tào Tháo bao vây, ông đã
không bỏ dân Tân Dã mà can đảm đối lũy với Tào Tháo ở Viêm Thành “Ta mưu
việc lớn, chẳng qua cũng lấy dân làm gốc. Nay người ta theo mình, sao nỡ bỏ”.
Với tấm lòng của vị hiền đức đã khiến cho dân chúng trên dưới một lòng, hướng
tới một xa hội hòa hợp.
Bản lĩnh của Lưu Bị còn thể hiện ở chỗ ông rất trọng hiền tài. Với tác phong “biết
co biết duỗi” trong các mối quan hệ, như khi ông ba lần đích thân đến lều tranh để
mời Gia Cát Khổng Minh hay khi Lưu Bị bị Lữ Bố chiếm mất Từ Châu nhưng vẫn
chịu hàng Lữ Bố mà bàn chuyện lớn… Chính thái độ hòa nhã và khí khái kiên định
đã giúp cho tiếng tốt được đồn xa tạo nên tiếng tâm trọng tình trọng nghĩa trong
thiên hạ.
Việc Gia Cát Lượng đồng ý hạ sơn để phò tá Lưu Bị đã mở ra một thời kì mới
trong cuộc đời Lưu Bị. Chính hành động của Lưu Bị đã đồng điệu và gặp gỡ với lí
tưởng “trung – hiếu” của Gia Cát Lượng đã tạo nên một cặp “vua sáng tôi hiền”
trong lịch sử. Bởi bản chất hiền đức của mình, mà Lưu Bị thể hiện một hình ảnh vị
vua tuyệt đích lúc nào cũng một lòng hướng tới nhân dân, hướng tới sự nghiệp
phục hưng cơ đồ nhà Hán.
3.2.2.3 Tuyệt nghĩa – Quan Công

Quan Vũ ( 162-219) tự Vân Trường còn được gọi là Quan Công. Ông là một người
đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu


tiên. Ông là người anh thứ hai trong ba anh em kết nghĩa vườn đào. Ông cũng là
người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng nhà Thục Hán, bao gồm Quan Vũ, Trương
Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu. Ông hiện lên với tinh thần là một vị anh
hùng tuyệt nghĩa trong thiên tiểu thuyết này.
Tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa của Quan Công khởi đầu là việc kết nghĩa vườn
đào với Lưu Bị và Trương Phi cùng lời thề: “ Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ,
Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm, hiệp lực, cứu
khốn, phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tính. Chúng tôi không
mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày
cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ, chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị
trời tru đất diệt”. Chính cái lời thề tại vườn đào năm ấy, nên trong quãng đời chinh
chiến của Quan Công, lời thề ấy như là quan niệm, là nền tảng đạo đức cho lối
sống của chính mình. Vì cái nghĩa vườn đào năm xưa, nên khi Quan Công được
Tào Tháo đối đãi rất hậu, vì Tào Tháo muốn thu phục người anh hùng hiếm có như
Quan Công. Khi ở trại Tào Tháo, cái nghĩa của Quan Công hiện lên với việc ra ba
điều kiện với Tào Tháo : “ Một là, đầu Hán chứ chẳng đầu Tào. Hai là, xin lấy
bổng lộc của Hoàng thúc cấp cho nhị tẩu của ta, lại không một ai được bén mảng
đến chỗ ở của nhị tẩu ta. Ba là, khi nào hay được tin anh ta ở đâu, ta lập tức đến đó,
dù đường xa ngàn dặm”. Khi Tào Tháo chấp nhận ba điều đó, Quan Công đã bằng
lòng ở trại Tào Tháo và Tào Tháo hậu đãi rất trọng, với mong muốn Quan Công
quên đi Lưu Bị mà quy phục theo mình. Tuy nhiên, trong lòng Quan Công luôn
nhớ tưởng đến Lưu Bị, thân thì ở trại Tào mà tâm thì ở bên Lưu Bị. Cái nghĩa
Quan Công là ở chỗ không để giàu sang làm lung lay ý chí, làm mất đi cái nghĩa
vườn đào năm xưa. Đến khi, Quan Công nghe tin Huyền Đức, Quan Công đã rời
trại Tào mà không mang theo bất cứ thứ gì. Trên đường đi, với quyết tâm đoàn tụ,
Quan Công đã vượt qua 5 ải và chém chết 6 tướng giặc của Tào Tháo. Đến lúc gặp

Trương Phi ở Cổ Thành, Quan Công bị Trương Phi hiểu nhầm mình theo hàng Tào
Tháo mà quên mất cái nghĩa vườn đào năm xưa. Quan Công đã một mực giải thích
cho Trương Phi, nhưng với bản tính nóng nảy của mình, Trương Phi đã không nghe
những lời giải thích của Quan Công nên đã đòi giao chiến với Quan Công. Để tỏ
được cái trung nghĩa của mình, Quan Công đã chém đầu Sái Dương sau ba hồi
trống, cùng với lời can gián từ hai phu nhân và Công Tôn Toản nên Trương Phi đã
nhận ra lỗi của mình vì quá nóng nảy. Hồi trống Cổ Thành cất lên đã thể hiện được
cái nghĩa khí của Quan Công và đó cũng là báo hiệu sự đoàn tụ của anh em Quan
Công, Trương Phi sau năm tháng lưu lạc.
Ngay cả khi bị rơi vào tay bọn Đông Ngô, trước lời dụ quy hàng nhưng Quan Công
vẫn không theo hàng. Điều đó, đã tỏ được cái tuyệt nghĩa trong Quan Công và khí
phách của kẻ trượng phu. Cái nghĩa của Quan Công là nghĩa anh em và nghĩa vua


tôi. Vì Quan Công trước sau luôn trung thành với nhà Hán, không vì giàu sang,
phú quý mà bỏ theo hàng Tào, đó là thể hiện cái trung nghĩa của Quan Công ơn
quan hệ vua tôi. Việc kết nghĩa vườn đào, Quan Công đã thể hiện mình luôn là trợ
thủ đắc lực cho Lưu Bị trong việc gây dựng nhà Thục Hán. Ngoài ra, còn là một
trong những mãnh tướng đương thời với những chiến công vang dội, hiển hách.
Cái nghĩa của Quan Vũ tuy vậy nhưng vẫn có mặt tiêu cực như Quan Vũ vì trả ơn
xưa mà tha cho Tào Tháo ở Hoa Dung, bất chấp cả quân lệnh.
Qua khái quát trên, ta có thể thấy được hình tượng người anh hùng Quan Công
hiện lên trong tâm thức quần chúng ngàn đời là vị anh hùng trung nghĩa, có ý chí
kiên cường, võ công thâm hậu, thể hiện được khí tiết của kẻ trượng phu tuyệt
nghĩa: “ Ngọc dẫu nát không đổi sắc trắng, trúc dẫu cháy gióng vẫn thẳng”. Quan
Công tuy đã mất, thân người nằm dưới ba tấc đất nhưng tiếng thơm còn lưu danh
thiên cổ và cả hậu thế sau này.
3.2.2.4 Mối quan hệ giữa tam tuyệt và quan niệm anh hùng
Xuyên suốt tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa, tác giả La Quán Trung đã dùng ngòi
bút sắc sảo để miêu tả nhân vật. Trong quan niệm anh hùng nổi bật lên những cái

tên tuyệt đích. Có thể nói sự xuất hiện của các nhân vật như Tuyệt nhân Lưu Bị,
Tuyệt trí Gia Cát Lượng, Tuyệt nghĩa Quan Công đã thể hiện rõ cho khí khái và
bản lĩnh của người anh hùng. Mượn hình ảnh Tam tuyệt nhân, nhà văn La Quán
Trung diễn tả quan niệm anh hùng riêng biệt trong thời Tam quốc. Hình ảnh người
anh hùng tài trí song toàn, coi trọng lễ nghĩa mà Nho học đề cao đã được vận dụng
một cách xuất sắc. Đối với tác giả nói riêng và xã hội đương thời nói chung, hình
tượng nhân vật anh hùng luôn gắn liền với những đỉnh cao, trác tuyệt về nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Chính vì lẽ đó, mà khi xây dựng Tam tuyệt nhân La Quán Trung
đã xuất sắc thể hiện tính chất anh hùng thời đại.
3.2.3 Anh hùng mãnh tướng (Ngũ Hổ Tướng)
3.2.3.1 TRIỆU VÂN:
Triệu Tử Long hiện lên với vai trò là một vị dũng tướng tài ba, uy dũng. Lần đầu
thì Triệu Vân theo Công Tôn Toản để liên minh chống Đổng Trác. Khi lực lượng
Lưu Bị còn mỏng, ông sang cầu giúp Công Tôn Toản và gặp Triệu Tử Long. Từ
đấy, Lưu Bị đem lòng mến mộ Triêu Tử Long và kết giao làm anh em. Sau khi
Công Tôn Toản bị Viên Thiệu tiêu diệt, Triệu Vân bắt đầu gia nhập vào hàng Lưu
Bị. Mở đầu cho chiến tích trong cuộc đời chinh chiến của Triệu Vân ở trận Bác
Vọng, Triệu Vân tham gia đánh bại Hạ Hầu Đôn và Vu Cấm, bắt sống bộ tướng
của Hạ Hầu Đôn và Hạ Hầu Lan. Đến khi, Tào Tháo mang quân đánh chiếm Kinh


Châu, quân Lưu Bị thua lớn và trong lúc loạn lạc Triệu Vân đã cứu được A đẩu, là
con trai Lưu Bị. Khi vào Tây Xuyên, Triệu Vân cùng Gia Cát Lượng và Trương
Phi đánh về phía Tây, bình định các huyện. Và đỉnh cao là khi Lưu Bị, mang quân
sang đánh Hán Trung, gặp quân Tào đông nhưng ông không sợ hãi, Triệu Vân cố
đánh và đẩy lui được quân Tào, cứu được Trương Tứ cùng thoát ra và trở về trại.
Đến khi Lưu Bị mất nhưng ông vẫn tiếp tục phục vụ Lưu Thiện.
Qua khái quát sơ lược về các chiến công của Triệu Vân, phần nào cho ta thấy được
ông là một vị mãnh tướng lập rất nhiều chiến công trong cuộc đời chinh chiến của
mình. Triệu Vân được biết đến như là một chiến binh vĩ đại, hội đủ các bản chất,

tài năng của một vị anh hùng tuấn kiệt. Với tài mưu lược khôn khéo, lòng trung
thành tận tụy cùng với sự trung nghĩa của mình. Triệu Vân xứng đáng là một bậc
trượng phu hảo hán thời bấy giờ hiện lên như một vị mãnh tướng tài ba, có tài võ
song toàn.
3.2.3.2. QUAN CÔNG
Hình tượng người anh hùng Quan Công hiện lên hàng loạt với những chiến công
lẫy lừng. Quan Công hay còn gọi là Quan Vũ tự Vân Trường. Ông là người có
công lớn trong việc hình thành nhà Thục Hán. Quan Công là anh em kết nghĩa với
Lưu Bị và Trương Phi. Diện mạo của Quan Công hiện với sự miêu tả của Là Quán
Trung : “ mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mài ngài,
tướng mạo đường đường oai phong, lẫm liệt”. Với vóc dáng mãnh tướng và tài trí,
Quan Công đã lập nhiều chiến công trong cuộc đời chinh chiến của mình. Điều đó
thể hiện qua các hành động như giết Hoa Hùng, chém Nhan Lương, Văn Sú là
tướng của Viên Thiệu, vượt năm ải, chém 6 tướng của Tào Tháo, chiếm quận
Trường Sa, thu phục được Hoàng Trung, bắt Vu Cấm, chém Bàng Đức,… Hình
tượng người anh hùng, mãnh tướng Quan Công khi ra trận hiện lên với khuôn
dạng: “ mặt đỏ, râu dài, tay cầm thanh long đao, cưỡi ngựa xích thố”. Quan Công
được đánh giá là một con người dũng cảm, phi thường, đứng đầu toàn quân. Tác
giả La Quán Trung đã lấy nhà Hán làm trụ cột và ủng hộ cho Lưu Bị xuyên suốt
thiên tiểu thuyết này. Quan Công hiện ra như là nhân vật chính diện, dũng mãnh
hào hiệp, có khí phách anh hùng. Trần Thọ, tác giả sách Tam quốc chí có đánh giá
về ông: “Quan Vũ sức địch vạn người, hổ thần một thời”. Từ nhận định này,ta nhận
thấy được hình tượng một vị anh hùng hào kiệt, một mãnh tướng, một trợ thủ đắc
lực cho Lưu Bị và cho cả việc thành lập Thục Hán.
3.2.3.3. TRƯƠNG PHI
“ Mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng
vang như sấm” hình tượng vị mãnh tướng Trương Phi hiện ra với dung mạo, dáng


dấp khác người. Đó là điều báo hiệu cho sự xuất hiện của một vị anh hùng xuất

thế. Quả nhiên là như vậy, Trương Phi nổi lên như một vị tướng tài ba của nước
Hán Thục, là trợ thủ đắc lực cho Lưu Bị. Cái oai phong, mãnh tướng của Trương
Phi khắc học rõ nét nhất là khi vị tuấn kiệt này ra giao chiến giữa chiến trường đầy
nguy hiểm, gian khổ. Điều được xây dựng qua các cuộc chiến lưu danh muôn thuở
tên tuổi vị anh bùng như trận ở Trường Bản dẹp quân Tào, Trương Phi đã đẩy lùi
quân Tào bằng tiếng thét vang như sấm của mình. La Quán Trung đã khắc họa diện
mạo của Trương Phi khi ra chiến trận là một vị tướng “ tay cầm xà mâu” với tướng
mạo hung dữ,rất nóng tính, tiếng thét rất lớn. Vì vậy, Trương Phi đã lập được rất
nhiều chiến công hiển hách bằng sức lực mạnh khỏe của mình, tiêu biểu như truy
kích quân Tào Tháo ở Xích Bích, đánh lấy Tây Xuyên, thu phục Nghiêm Nhan,
giao tranh với Trương Cáp ở Ba Tây, đánh nhau với Mã Siêu, đánh chiếm quận Võ
Lăng ở Kinh Châu,…
Chính các chiến công ông đã lập nên, làm cho tên tuổi của ông vang dội khắp bốn
phương anh hùng hào kiệt về cái tài năng, cái dũng mãnh của một vị tướng tài ba
đất Hán Thục. Đến tận hậu thế sau này, tên tuổi của Trương Phi còn còn lưu danh
hậu thế về cái dũng mãnh, tài năng của bậc trương phu thời loạn.
3.2.3.4. HOÀNG TRUNG
Lão tướng Hoàng Trung là một trong ngũ hổ tướng. Ban đầu thì ông theo Lưu
Biểu, về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ
đánh Trường Sa. Tuy chiếm được Trường Sa nhưng Lưu Bị tha không giết Hoàng
Trung. Lão tướng cảm kích trước lòng nhân nghĩa của Lưu Bị nên Hoàng Trung đã
thuận và quy hàng theo Lưu Bị. Năm 214, tướng Nguỵ là Trương Cáp đem quân
đánh, lão tướng Hoàng Trung với hành động “ tế ngựa đi trước, quân sĩ đều hăng
hái tiến lên” hay “ Hoàng Trung múa đao xông vào, mới một hợp đã chém chết
Hàn Hạo”. Về sau, lão tướng này xin đi lấy đầu Hạ Hầu Uyên để tỏ cái khí phách
của một vị lão tướng không vì già mà yếu hèn, mất hết nhuệ khí. Để chứng minh
được cái dũng mãnh của một vị lão tướng trong cuộc giao chiến với Hạ Hầu Uyên.
Ngòi bút Là Quán Trung đã miêu tả sắc nét với hành động” Hoàng Trung tế ngựa
xuống trước, đại quân kéo ùa theo sau, như trời long đất lở. Hạ Hầu Uyên chưa kịp
trở tay, Hoàng Trung đã sấn đến trước mặt, quát to một tiếng như sét đánh. Uyên

toan đỡ thì lưỡi đao của Trung đã phập xuống từ đầu đến vai, xả Uyên ra làm hai
mảnh”. Qua hành động chém chết Hạ Hầu Uyên thì ta cũng đủ thấy cái uy dũng
của một vị lão tướng như thế nào. Với những chiến công hiển hách, vang dội như
cướp chỗ chứa lương của quân Tào, núi Thiên Đăng, chém chết Hạ Hầu Uyên,…
thì người đời sau có thơ khen vị lão tướng này rằng:
“ Đầu hoa lâm đất trận


Tóc bạc sính vai thần
Cung bắn, tên bay vút,
Đao khoa, tuyết trắng ngần.
Hổ gầm, người thét tiếng,
Rồng vọt, ngựa bốn chân.
Mở cõi dâng đầu giặc
Công to đại tướng quân”
3.2.3.5. MÃ SIÊU
Mã Siêu là một trong ngũ hổ tướng. Ông là con trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây
Lương. Diện mạo của Mã Siêu được hiện ra trong việc Mã Siêu đâm chết Vương
Phương, lúc ấy Mã Siêu mới 17 tuổi. Với tinh thần của một người anh hùng hào
kiệt, nên ông thấy bất bình trước việc gian mà Tào Tháo đã làm. Sau khi Tào Tháo
giết chết cha mình, thù hận trong Mã Siêu càng bốc lên ngùn ngụt. Sau khi Mã
Siêu đánh nhau với Trương Phi, theo kế Khổng Minh, Lưu Bị nhờ Lý Khôi đến
hàng Mã Siêu và Mã Siêu quy thuận theo hàng Lưu Bị. Từ sau Lưu Bị chiếm được
Ích Châu, đã phong cho Mã Siêu làm Bình Tây tướng quân, thống lĩnh toàn bộ kị
binh. Năm 219, Lưu Bị chiếm Hán Trung của Tào Tháo, sai Mã Siêu và Ngụy Diên
truy kích Tào Tháo. Khi quân Tào rút lui thì Lưu Bị sai Mã Siêu trấn giữ Hán
Trung. Trong Tam quốc chí, La Quán Trung đã miêu tả ngoại hình của Mã Siêu “là
một viên tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn,
bụng beo lung sói, tay cầm một ngọn giáo dài, cưỡi ngựa đứng trước của trận”. Và
trong hồi thứ 65, La Quán Trung đã miêu tả hình ảnh của Mã Siêu khi ra trận “ đầu

đội mũ chỏm sư tử, mình mặc áo giáp bạc, bào trắng, thắt đai Hổ Phù, mặt mũi
khôi ngô, sức lực hơn người”. Với các chiến công như truy kích Tào ở Hán Trung,
đánh nhau với Hứa Chử, đại chiến với Trương Phi, trận chiến tại Hà Manh Quan.
Từ những chiến công lẫy lừng ấy, đã khắc họa rõ nét hình tượng người anh hùng
Mã Siêu với sức mạnh và sự uy dũng như là một “ hổ tướng sức địch muôn người”.
Đến Tào Tháo đã ví Mã Siêu như Lữ Bố tái thế, được Khổng Minh so sánh với
Kình Bố, Bành Việt.
3.3 Nghệ thuật:
3.3.1 Cốt truyện, Kết cấu:
Cốt truyện được La Quán Trung xây dựng dựa trên quy luật mang tính kịch sử:
“Thế lớn trong thiên hạ hợp lâu tất phân , phân lâu tất hợp”.


Với kết cấu đồ sộ nhưng tác phẩm vẫn giữ được tính mạch lạc, thể hiện đầy đủ tư
tưởng quan điểm của tác giả “ủng Lưu phản Tào”.
Nội dung lịch sử được vận dụng trong lối “giảng sử” truyền thống, dàn dựng các sự
kiện phát triển theo mạch thời gian.
Kết cấu Tam Quốc đặc sắc ở chỗ với số lượng nhân vật lớn (hơn 400 nhân vật),
cùng với nội dung ghi chép muôn việc, hàng trăm trận đánh lớn nhỏ nhưng vẫn
thống nhất và logic nối tiếp theo từng hồi.
Các sự kiện tình tiết khéo léo đan cài, phát triển theo dòng mạch thúc đẩy các mâu
thuẫn, giúp nhân vật bộc lộ hết tính cách, phẩm chất riêng.
3.3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Số lượng nhân vật khổng lồ: hơn 400 nhân vật, mỗi nhân vật một tính cách, một
nét độc đáo riêng không hề trùng lặp.
Tác giả miêu tả ngoại hình nhân vật một cách có chủ ý. Ngoại hình nhân vật mang
tính đặc trưng, đại diện cho tính cách nhân vật như Trương Phi “ mình cao tám
thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang như sấm”
hay Tào Tháo thì được miêu tả là “ một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao bảy
thước”.

Về việc xây dựng nhân vật, đặt nhân vật trong tư thế tuyệt đích đại diện là Tào
Tháo gian tuyệt, Quan Vũ nghĩa tuyệt, khổng Minh Trí tuyệt.
Khi khắc họa tính cách nhân vật, La Quán Trung thường xuất phát từ tính phức
tạp của cuộc sống mà suy ra tính cách nhân vật.Ông miêu tả con người ở nhiều
mặt tính cách, nhưng song song với đó ông lại tô điểm cho một mặt nào đó thật sự
nổi bật, làm hình tượng trở nên rõ nét,đồng thời thêm thắt, dùng phương pháp so
sánh làm cho nhân vật xuất hiện trước mặt mọi người với tính cách rõ nét, sinh
động.
3.3.3 Lời nói, giọng điệu
Tam quốc chí diễn nghĩa là tiểu thuyết sử thi, giọng điệu chủ yếu là ngợi ca, châm
biếm, hài hước để phê phán.Thủ pháp nghệ thuật khoa trương phóng đại được sử
dụng có hiệu quả. Các cá nhân luôn có vóc dáng khác người, hành động phi
thường…được thể hiện rõ trong các trận đánh giữa những người anh hùng hào kiệt.


Ngôn ngữ Tam quốc chí là sự kết hợp giữa văn ngôn và sách thoại, ngôn ngữ kể
lấn át ngôn ngữ ngôn ngữ miêu tả. Miêu tả theo lối bạch miêu, lời kể khéo léo , đối
thoại sinh động, tạo cho tác phẩm vừa bác học, vừa đẹp dân dã.

4. Kết luận
Như vậy , Tam quốc diễn nghĩa chủ yếu dựng lại một thời kì lịch sử loạn lạc,
tranh quyền , đoạt vị của Trung Quốc . Bên cạnh câu chuyện kể về sự tranh giành
quyền lực của ba tập đoàn Ngô- Thục-Ngụy thì tác phẩm còn ẩn chứa ước mơ ,
khát vọng của tác giả về một đất nước Trung Hoa hòa bình, thống nhất . Ở thời kì
đó, quan niệm anh hùng luôn được đặt lên hàng đầu, đó chính là hình ảnh những
người anh hùng xuất chúng, phi thường từ ngoại hình, hành động , lời nói và đạt
chiều sâu trong tâm hồn, biểu tượng bất tử của lòng trung hiếu , tiết nghĩa, trong
thời kì loạn lạc vẫn không ngừng hướng về một “hảo hoàng đế”, mục đích “trị vì
thiên hạ” đem cuộc sống bình yên đến cho muôn dân trăm họ.Quan niệm anh hùng
giúp tác phẩm đạt giá trị nhân văn sâu sắc, phản ánh thực trạng lịch sử Trung Hoa

một cách khách quan, bộc lộ những quan niệm triết lí nhân sinh vô cùng cao cả.



×