Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.06 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ THU HẰNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI ĐƢỢC NHẬN
LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quyền con người
Mã số:……………………………

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN LINH GIANG

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút ngày 08 tháng
08 năm 2

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học


xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội phổ biến ở các quốc
gia và được pháp luật các nước điều chỉnh. Ở Việt Nam, nuôi con
nuôi là vấn đề mang tính nhân đạo sâu sắc, được Đảng và Nhà nước
Việt Nam chú trọng, quan tâm. Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong nước về nuôi con nuôi, Việt Nam cũng đã tham gia, ký kết
nhiều Công ước quốc tế quan trọng liên quan đến quyền con người,
quyền trẻ em nói chung và quyền của người được cho làm con nuôi
nói riêng. Luật Nuôi con nuôi được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7
thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011, đã
thống nhất và cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các việc nuôi con
nuôi trong nước và nuôi con nuôi nước ngoài trong một đạo luật, tạo
ra một cơ chế liên thông trong việc giải quyết nuôi con nuôi, bảo đảm
quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình, đặc biệt là
môi trường gia đình gốc theo tinh thần của Công ước Quốc tế về
Quyền trẻ em (CRC) và Công ước La Hay số 33 ngày 29/5/1993 về
Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công
ước La Hay) mà Việt Nam là thành viên, có hiệu lực thi hành tại Việt
Nam từ ngày 01/02/2012.
Trong suốt thời gian thực hiện Luật nuôi con nuôi cùng các
văn bản hướng dẫn thi hành CRC và Công ước Lay Hay, công tác
nuôi con nuôi đã đạt được những kết quả nhất định. Việc bảo đảm
các quyền và lợi ích của trẻ em được cho làm con nuôi cũng được
thực hiện có hiệu quả; thể chế pháp luật về nuôi con nuôi cơ bản đã
hoàn thiện và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, nhiều trẻ em có
1



hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã tìm được gia đình thay thế ở trong
nước và nước ngoài nhận nuôi; quyết định cho nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi nước ngoài đương nhiên được công nhận tại 98 nước
thành viên Công ước La Hay. Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì quan hệ
hợp tác quốc tế với những nước nhận con nuôi nước ngoài như: Pháp,
Italia, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Đức,
Canada, Thụy Sỹ, Ai Len, Na Uy, Luxembourg…
Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi cũng
chính là bảo đảm các quyền con người được ghi nhận trong các bản
Hiến pháp của Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Hiến
pháp năm 2013 đã dành riêng Chương II để quy định Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cụ thể, tại Khoản 1
Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật.” và Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định “1.
Mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật.2. Không ai bị
phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội”.
Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi được đặt
ra như một vấn đề thiết yếu, cần được xem xét một cách thấu đáo về
mặt lý luận và thực tiễn để đưa ra nhữngđánh giá toàn diện về việc
bảo đảm quyền này ở Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu đó,
học viên lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền của người được nhận làm
con nuôi ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên
ngành quyền con người, với mong muốn góp phần tăng cường bảo
2



đảm một trong những quyền cơ bản của con người ở Việt Nam hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là một vấn đề quan trọng trong đời sống con người, tác
động không nhỏ đến nhiều mặt của xã hội. Có nhiều đề tài nghiên
cứu về lĩnh vực này nhưng chưa đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền
của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay từ góc độ
quyền con người. Do đó, việc lựa chọn đề tài này để nghiên cứu từ
góc độ quyền con người có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực
tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu tổng quát của đề tài là xây dựng luận
cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp tăng cường việc bảo đảm
quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền của người được
nhận làm con nuôi.
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm
quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay, chỉ
rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và phương
hướng hoàn thiện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các văn bản bản pháp lý về quyền con người và
quyền của người được nhận làm con nuôi.
3



Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt
Nam về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi.
Phân tích, đánh giá các điều kiện (điều kiện về chính trị,
pháp lý, kinh tế, xã hội…) bảo đảm quyền của người được nhận làm
con nuôi ở Việt Nam.
Nghiên cứu các mối quan hệ có liên quan đến bảo đảm quyền
của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở
Việt Nam.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu việc bảo đảm quyền của
người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam từ năm 2011 đến 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lựa chọn cách tiếp dựa trên quyền, sử dụng phương
pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, lấy khoa học
pháp lý là lát cắt chủ đạo.
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn là quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về quyền con
người nói chung và quyền được nhận làm con nuôi nói riêng.
Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong nghiên cứu luận
văn bao gồm: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê, so sánh, phương pháp xã hội học pháp luật…

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Làm sáng tỏ khái niệm, nội dung quyền được nhận làm con

nuôi, xác định các yếu tố hợp thành cơ chế bảo đảm quyền được nhận
làm con nuôi và các điều kiện bảo đảm quyền được nhận làm con
nuôi ở Việt Nam hiện nay.
Luận chứng về một số giải pháp có tính khả thi nhằm tăng
cường việc bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện
nay.
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nhận thức rõ hơn về
quyền được nhận làm con nuôi và nhu cầu bảo đảm quyền được nhận
làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu luận văn có giá trị tham khảo trong việc
xây dựng các phương án lập pháp áp dụng vào thực tiễn công tác
quản lý của các cơ quan hữu quan, và các đơn vị trong ngành Tư
pháp ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận bảo đảm quyền của người được
nhận làm con nuôi ở Việt Nam.
Chương II. Thực trạng bảo đảm quyền của người được nhận
làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
Chương III. Quan điểm và giải pháp tăng cường việc bảo
đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI ĐƢỢC
NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, nội dung quyền của ngƣời đƣợc nhận làm con

nuôi
1.1.1. Khái niệm quyền của người được nhận làm con nuôi
1.1.1.1. Khái niệm con nuôi và nuôi con nuôi
Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi
con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa
người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
1.1.1.2. Khái niệm quyền của người được nhận làm con nuôi
Về mặt lý luận, từ cách tiếp cận dựa trên quyền thì quyền của
người được nhận làm con nuôi chính là quyền của trẻ em được nhận
làm con nuôi. Các quyền này được quy định trực tiếp và gián tiếp
trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Cụ thể, trong CRC có
nói đến việc bảo vệ quyền và đảm bảo phúc lợi trẻ em trong đó có
việc bảo trợ và nuôi con nuôi. Trong Công ước này đã có những
nguyên tắc nền tảng bảo vệ quyền trẻ em nói chung và cũng để áp
dụng bảo vệ quyền của trẻ em làm con nuôi như các nguyên tắc:
Không phân biệt đối xử (đảm bảo quyền trẻ em được nhận làm con
nuôi không bị phân biệt đối xử trong môi trường gia đình, nhà trường
và xã hội); đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em (bao gồm cả lợi ích
của trẻ em làm con nuôi); tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em...
Đồng thời, Công ước này cũng có những quy định đặc biệt liên quan
đến đối tượng trẻ em là con nuôi. Điều 11 Công ước quy định về
6


nghĩa vụ quốc gia phải có các biện pháp chống lại việc mang trẻ em
ra nước ngoài bất hợp pháp và các quốc gia phải ký kết hiệp định
song phương hoặc đa phương về vấn đề này. Điều 20, 21 Công ước
quy định trực tiếp liên quan đến quyền trẻ em được nhận làm con
nuôi. Theo đó, các quốc gia thành viên của CRC thừa nhận hoặc cho

phép việc nhận làm con nuôi phải đảm bảo rằng những lợi ích tốt
nhất của trẻ em phải là mối quan tâm cao nhất trong vấn đề này.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013, đã kế thừa và thể hiện một
bước chuyển mới rất quan trọng khi ghi nhận các quyền con người tại
Chương 2, bổ sung thêm nhiều quyền mới, chuẩn hóa các hình thức
ghi nhận và nội dung các quyền cụ thể được quy định từ Điều 14 đến
Điều 49 nhằm tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm
các quyền con người ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“…mọi công dân đều có quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; được nhà
nước bảo hộ…”. Khoản 1, Điều 37 Hiến pháp cũng ghi nhận: "Trẻ
em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục;
được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em". Các quy định này là cơ sở quan
trọng để hình thành các quy định pháp luật bảo vệ quyền trẻ em nói
chung và quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi nói riêng.
Theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì quyền của người
được nhận làm con nuôi được hiểu là quyền của trẻ em dưới 16 tuổi,
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được nhận làm con nuôi của cha
dượng, mẹ kế hoặc làm con nuôi của cô, cậu, dì, chú, bác ruột. Tuy
7


nhiên, việc nuôi con nuôi sẽ được ưu tiên thực hiện đối với trẻ em vì
lý do nào đó không có mái ấm gia đình, ví dụ như: trẻ em bị bỏ rơi,
trẻ em mồ côi... Việc nuôi con nuôi cũng được thực hiện với trẻ em
tuy có gia đình gốc, nhưng việc tiếp tục để trẻ em tại gia đình gốc sẽ
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của trẻ em. Ví dụ: trẻ em bị cha mẹ lạm
dụng, ngược đãi, đánh đập… vấn đề này cũng phù hợp với quy định

tại Điều 9 của CRC “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng trẻ
em không bị cách ly cha mẹ trái với mong muốn của họ, trừ khi nhà
chức trách có thẩm quyền chịu sự xem xét của tòa án quyết định theo
luật pháp và các thủ tục áp dụng thì việc cách ly như thế là cần thiết
vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Quyết định như thế có thể là cần thiết
trong trường hợp đặc biệt như trẻ em bị cha mẹ lạm dụng hay xao
nhãng, hoặc khi cha mẹ sống cách ly và cần phải có một quyết định
mới về nơi cư trú của trẻ...”.
Quyền của người được nhận làm con nuôi là quyền con
người, được nhà nước công nhận và được pháp luật bảo vệ. Nhà nước
có trách nhiệm bảo đảm và bảo vệ quyền được nhận làm con nuôi
cho tất cả công dân của nước mình được thụ hưởng quyền này.
1.1.1.3. Đặc điểm quyền của người được nhận làm con nuôi
- Quyền được nhận làm con nuôi là một quyền con người.
- Quyền được nhận làm con nuôi liên quan mật thiết với việc
hiện thực hóa các quyền con người khác.
- Quyền được nhận làm con nuôi là một quyền quan trọng
liên quan trực tiếp và thiết thực tới đối tượng thụ hưởng quyền.
1.1.2. Nội dung quyền của người được nhận làm con nuôi
- Quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc.
8


- Quyền được tìm gia đình thay thế.
- Quyền được bày tỏ ý kiến đồng ý làm con nuôi.
- Quyền được đối xử như con đẻ.
- Quyền được thay đổi họ, tên, quốc tịch .
- Quyền được yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi .
- Quyền được biết về nguồn gốc.
- Quyền được Nhà nước bảo vệ.

1.2. Các điều kiện bảo đảm quyền của ngƣời đƣợc nhận làm con
nuôi
- Điều kiện chính trị.
- Điều kiện pháp lý.
- Điều kiện kinh tế.
- Điều kiện văn hóa – xã hội.
1.3. Cơ chế bảo đảm thực thi quyền của ngƣời đƣợc nhận làm
con nuôi
1.3.1. Khái niệm bảo đảm quyền của người được nhận làm con
nuôi
Từ khái niệm chung về bảo đảm quyền con người, quyền
công dân có thể đưa ra khái niệm bảo đảm quyền của người được
nhận làm con nuôi nhu sau: Bảo đảm quyền của người được nhận
làm con nuôi là tạo ra các tiền đề, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội,
pháp lý và các tổ chức để người được nhận làm con nuôi được hưởng
đầy đủ các quyền, lợi ích chính đáng của mình trong lĩnh vực con
nuôi.
1.3.2. Các yếu tố của cơ chế bảo đảm quyền của người được nhận
làm con nuôi
9


- Về chính sách và thể chế.
- Về thiết chế.
1.4. Các biện pháp bảo đảm thực thi quyền của ngƣời đƣợc nhận
làm con nuôi
- Theo dõi tình hình phát triển của người được nhận làm con
nuôi.
- Bảo vệ trẻ em trong trường hợp cần thiết.
- Hợp tác quốc tế về bảo đảm quyền của người được nhận

làm con nuôi.

10


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI ĐƢỢC
NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Một số yếu tố tác động tới tình hình bảo đảm quyền của
ngƣời đƣợc nhận làm nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay
- Chính sách địa phương.
- Quan niệm của người dân giữ bí mật về việc nuôi con nuôi.
- Mức độ thực hiện trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền theo dõi
việc nuôi con nuôi.
- Hệ thống dịch vụ tư vấn về vấn đề nuôi con nuôi.
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của ngƣời đƣợc nhận làm con
nuôi ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trên toàn quốc có 80 cơ sở trợ giúp xã hội tham gia
giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài, trong đó có 64 cơ sở trợ
giúp xã hội được chỉ định theo quy định của Luật nuôi con nuôi và 16
cơ sở trợ giúp xã hội được chỉ định trước khi có Luật nuôi con nuôi.
Các trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi trong nước chủ yếu
sống tại gia đình gốc, còn trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi
nước ngoài chủ yếu sống tại cơ sở trợ giúp xã hội.
2.2.1. Thực trạng bảo đảm quyền của người được nhận làm con
nuôi trong nước
Qua tổng kết, đánh giá tình hình đăng ký nuôi con nuôi trong
nước giai đoạn 2011-2015, có 12.768 trẻ em được giải quyết cho làm
con nuôi trong nước. Với con số thống kê này cho thấy số lượng trẻ
em được tìm gia đình thay thế trong nước giữ mức ổn định, số lượng

11


trẻ em được tìm gia đình thay thế ở nước ngoài chiếm tỷ lệ rất nhỏ so
với số lượng trẻ em được tìm gia đình thay thế trong nước. Riêng
năm 2016, có 2607 trẻ em được đăng ký nuôi con nuôi trong nước.
Ngoài ra, thực hiện kế hoạch đăng ký việc nuôi con nuôi thực
tế, trên toàn quốc có 3.567 trường hợp nuôi con nuôi thực tế trong
nước đã được đăng ký chiếm tỷ lệ 51% tổng số các trường hợp đủ
điều kiện đăng ký.
Đối với trường hợp nuôi con nuôi ở khu vực biên giới, có 18
trường hợp trẻ em được giải quyết tại tỉnh Hà Giang, chiếm tỷ lệ
39,1%; 10 trường hợp trẻ em tại tỉnh Đồng Tháp, chiếm tỷ lệ 21,7%.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội, nhu
cầu nhận con nuôi ngày càng nhiều, rất nhiều gia đình trong nước có
nhu cầu nhận con nuôi vì bị vô sinh và ngoài ra cũng còn có những lý
do khác, nên tỷ lệ người trong nước nhận con nuôi ngày càng nhiều
và có chiều hướng gia tăng. Trẻ em được nhận làm con nuôi về cơ
bản được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt trong môi trường gia đình.
2.2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của người được nhận làm con
nuôi nước ngoài
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, số lượng trẻ em
được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài sống tại các cơ sở trợ
giúp xã hội là chủ yếu, trong số 1.771 trẻ em có 1.323 trẻ em, chiếm
74,6%; 448 trẻ em sống tại gia đình (chủ yếu thuộc diện con riêng,
cháu ruột của người nhận con nuôi) chiếm 25,4%. Riêng năm 2016,
có 551 trường hợp con nuôi nước ngoài, trong đó có 410 trẻ em sống
tại cơ sở trợ giúp xã hội, chiếm 74% và 141 trẻ em sống ở gia đình thuộc diện con riêng, cháu ruột của người nhận con nuôi, chiếm 26%.
12



Đối với trường hợp trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo
và trẻ em từ 5 tuổi trở lên hoặc có hai trẻ em trở lên là anh chị em
ruột (sau đây gọi là trẻ em Danh sách 2), chiếm tỷ lệ 61,49%; số trẻ
em Danh sách 1 được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài rất hạn
chế chỉ chiếm 13,50% còn lại là các trường hợp con nuôi là con riêng
hoặc cháu ruột.
Công tác giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài chủ yếu
được thực hiện tại các nước có quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi với
Việt Nam trong khuôn khổ Công ước La Hay và Hiệp định hợp tác
song phương, cụ thể như Pháp, Italia, Canada, Tây Ban Nha, Thụy
Điển, Thụy Sỹ, Ai Len, Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, Na Uy, Đan Mạch,
Luxembourg. Số lượng trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi
nước ngoài giảm mạnh so với trước khi có Luật nuôi con nuôi, nhưng
việc nuôi con nuôi lại chuyển hướng tích cực về chất lượng và mang
tính chuyên nghiệp hơn, bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật trong nước
và pháp luật quốc tế.
2.2.3. Đối với công tác theo dõi tình hình phát triển của trẻ em
được cho làm con nuôi
Đối với nuôi con nuôi trong nước:
Công tác theo dõi tình hình phát triển của trẻ em được thực
hiện tốt, trẻ em được cho làm con nuôi trong nước phát triển tốt,
được yêu thương, chăm sóc và nuôi dưỡng trong môi trường gia đình
thuận lợi. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp cha mẹ nuôi không
tự giác, chủ động thực hiện việc báo cáo trong khi pháp luật chưa có
chế tài.
Đối với nuôi con nuôi nước ngoài:
13



Từ năm 2011 đến năm 2016, Bộ Tư pháp đã tổng hợp được
hơn 3000 báo cáo theo dõi tình hình phát triển của trẻ em được giải
quyết cho làm con nuôi nước ngoài và một số lượng lớn báo cáo tình
hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài trước
khi có Luật Nuôi con nuôi.
Về cơ bản, hầu hết trẻ em được nhận làm con nuôi nước
ngoài đều hòa nhập tốt với gia đình, gắn bó với cha mẹ nuôi, hòa
nhập tốt ở trường học và cộng đồng, trẻ em phát triển tốt về thể chất,
tinh thần và ngôn ngữ.
2.3. Đánh giá tình hình thực hiện các quy định pháp luật về bảo
đảm quyền của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi ở Việt Nam
2.3.1. Một số kết quả chủ yếu
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực nuôi con
nuôi.
- Bảo đảm trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi nước ngoài.
- Tăng cường công tác phối hợp liên ngành.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết nuôi con nuôi
nước ngoài.
- Tăng cường công tác theo dõi, thi hành pháp luật về nuôi
con nuôi.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.
2.3.2. Một số bất cập, hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Bất cập, hạn chế
a- Về nuôi con nuôi trong nước
Thứ nhất, về thay đổi hộ tịch, dân tộc cho con nuôi được quy
định tại Khoản 2, Điều 24 Luật Nuôi con nuôi, tuy nhiên quá trình
14


thực hiện gặp nhiều khó khăn với việc thay đổi phần khai về cha mẹ

trong giấy khai sinh khi khoản 3 Điều 10 Nghị định số 19/NĐ-CP và
Điều 7 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, quy định phải thỏa thuận giữa
cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi.
Thứ hai, còn một số lượng lớn trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
chưa tìm được gia đình thay thế. Nguyên nhân là do nguồn gốc trẻ
em được tiếp nhận vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở tôn
giáo/nhà chùa đều là trẻ em bị bỏ rơi, không xác định rõ nguồn gốc,
không có giấy tờ tùy thân.
Thứ ba, hạn chế của đội ngũ cán bộ Tư pháp hộ tịch còn
thiếu về số lượng và thường xuyên luân chuyển dẫn đến việc cán bộ
hộ tịch không nắm rõ được tình hình thực tế của địa phương, nhận
thức các quy định còn hạn chế, thiếu chuyên nghiệp trong việc giải
quyết nuôi con nuôi do đó vẫn còn hiện tượng đăng ký sai thẩm
quyền, hồ sơ con nuôi thiếu giấy tờ, bỏ qua một số thủ tục theo quy
định pháp luật.
b- Về nuôi con nuôi nước ngoài
Thứ nhất, việc triển khai công tác thi hành Luật nuôi con
nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ở một số địa phương còn chậm
trễ, chưa đồng đều, hạn chế về số lượng và chưa có sự quan tâm đầy
đủ của các cấp có thẩm quyền.
Thứ hai, cơ chế phối hợp liên ngành ở địa phương còn chưa
kịp thời, chưa chủ động, còn yếu và thiếu. Quy trình thủ tục giải
quyết nuôi con nuôi quốc tế chưa có sự liên kết với quy trình công

15


tác xã hội trong việc thực hiện các biện pháp chăm sóc thay thế cho
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

2.3.2.2. Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan: (1) Luật nuôi con nuôi và Nghị
định số 19/2011/NĐ-CP đưa ra các quy định nhằm tiếp cận chuẩn
mực quốc tế trong việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước cũng như
nước ngoài. (2) Một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn, gây ách
tắc cho việc giải quyết nuôi con nuôi như quy định chỉ định cơ sở trợ
giúp xã hội được giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài.
- Nguyên nhân chủ quan: (1) việc triển khai thi hành pháp
luật trên toàn quốc còn chậm, chưa đồng bộ. (2) Công tác tuyên
truyền để nâng cao nhận thức pháp luật về nuôi con nuôi mới chỉ tập
trung vào cơ sở trợ giúp xã hội công lập chứ chưa tập trung vào cơ sở
nuôi dưỡng ngoài công lập. (3) Một số quy định trong Luật nuôi con
nuôi chưa hướng dẫn cụ thể dẫn đến khó áp dụng trong thực tiễn.

16


Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm tăng cƣờng bảo đảm quyền của ngƣời đƣợc nhận
làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay
- Xuất phát từ lợi ích tốt nhất của trẻ em.
- Xuất phát từ quyền được chăm sóc tốt nhất trong môi trường gia
đình, được chăm sóc tốt về sức khỏe, và được phát triển toàn diện.
- Tạo cơ hội cho nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em
bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị bệnh tật hiểm nghèo tìm được gia đình thay
thế.
- Nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con

nuôi.
3.2. Một số giải pháp tăng cƣờng bảo đảm quyền của ngƣời đƣợc
nhận làm con nuôi ở Việt Nam
3.2.1. Về hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm
quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định đang tạo ra
những điểm nghẽn cơ bản trong việc triển khai thực hiện Luật nuôi
con nuôi, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP và Công ước La Hay.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về thay đổi hộ tịch
của con nuôi:

17


- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về việc ghi vào Sổ
hộ tịch việc nuôi con nuôi đã được giải quyết ở cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài.
- Nghiên cứu đơn giản hóa một số thủ tục hành chính về nuôi
con nuôi trong nước (theo kế hoạch và phương án đơn giản hóa thủ
tục hành chính trong lĩnh vực tư pháp).
- Nghiên cứu sửa đổi quy định bảo đảm thủ tục tìm gia đình
thế cho trẻ em làm con nuôi trong nước.
- Nghiên cứu thiết lập một hệ thống giám sát độc lập nhằm
bảo vệ trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước và nước ngoài.
3.2.2. Về nhận thức bảo đảm quyền của người được nhận làm con
nuôi
- Xây dựng tài liệu, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ
biến các quy định pháp luật về nuôi con nuôi ở cấp cơ sở, tập trung
vào các đối tượng là người dân có nhu cầu nhận con nuôi, cán bộ Tư
pháp hộ tịch cấp xã có thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi, cơ sở trợ

giúp xã hội;
- Tăng cường hoạt động truyền thông về con nuôi quốc tế
nhằm thay đổi nhận thức của cơ quan có thẩm quyền về việc giải quyết
nuôi con nuôi quốc tế đối với trẻ em bị bệnh tật hiểm nghèo, trẻ em
khuyết tật thông qua những trường hợp điển hình, tình hình phát triển
và hòa nhập của trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài.
- Tăng cường cơ chế hợp tác đa phương về bảo vệ trẻ em
trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
- Tích cực chia sẻ thông tin về tình hình phát triển của trẻ em
Việt Nam được cho làm con nuôi nước ngoài cho các địa phương và
18


cơ sở trợ giúp xã hội theo Thông tư Liên tịch số 03/2016/TTLT-BTPBNG-BCA-BLĐTBXH.
- Tăng cường các hình thức trao đổi, đối thoại chính sách với
người dân và các cơ quan ban ngành ở địa phương về nuôi con nuôi
quốc tế.
- Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo thi hành pháp
luật về nuôi con nuôi, đặc biệt ở địa phương chưa triển khai thực hiện
luật, nghị định và điều ước quốc tế về nuôi con nuôi.
- Tăng cường công tác phối hợp trong chỉ đạo, điều hành và
giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong công tác quản
lý nhà nước về nuôi con nuôi.
- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm tâm lý, xã
hội cho đội ngũ những người làm công tác giải quyết nuôi con nuôi
nước ngoài từ trung ương đến địa phương.
3.2.3. Về tạo lập nguồn lực bảo đảm quyền của người được nhận
làm con nuôi ở Việt Nam
- Cần nâng cao nhận thức và hiểu biết về các nguyên tắc tách
bạch hoạt động nuôi con nuôi quốc tế và hỗ trợ nhân đạo trong Luật

nuôi con nuôi để khuyến khích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ nhân đạo
cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
- Cần tăng số lượng cơ sở trợ giúp xã hội được chỉ định giới
thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài để đảm bảo quyền của người
được nhận con nuôi được tìm gia đình thay thế ở nước ngoài khi cơ
hội tìm gia đình thay thế trong nước không còn hoặc ít cơ hội.
- Cần tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn về
kiến thức tâm lý, xã hội trong lĩnh vực nuôi con nuôi để hỗ trợ, tư
19


vấn bảo đảm thực hiện tốt quyền được nhận làm con nuôi của những
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
- Kêu gọi các nguồn lực trong nước và nước ngoài thực hiện
việc hỗ trợ nhân đạo để nâng cấp cơ sở vật chất cho các cơ sở bảo trợ
xã hội, hỗ trợ về y tế, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em tại các cơ sở trợ
giúp xã hội trong phạm vi cả nước.

20


KẾT LUẬN
Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt
Nam hiện nay là một đòi hỏi khách quan và là một việc làm cần thiết
góp phần đáng kể vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng và tìm
gia đình thay thế trong nước và nước ngoài cho trẻ em.
Qua nghiên cứu luận văn chỉ ra rằng bảo đảm quyền của
người được nhận làm con nuôi là một hoạt động tất yếu trong công
tác nuôi con nuôi. Trên cơ sở đó, luận văn đi sâu vào tìm hiểu nội
dung quyền của người được nhận làm con nuôi và những quy định

pháp luật về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi. Nhìn
chung, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ
sở pháp lý về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi.
Tuy nhiên, cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền của người được nhận làm
con nuôi còn một số bất cập, hạn chế. Để khắc phục những tồn tại,
hạn chế, Nhà nước cần nhanh chóng đưa ra các giải pháp phù hợp và
tổ chức thực hiện tốt các giải pháp đó.
Việc bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi cần
phải được thực hiện trên cơ sở đồng bộ các giải pháp. Chỉ khi tập
trung giải quyết các vấn đề trên một cách đồng bộ, thì mới giải quyết
triệt để việc bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi. Đó
chính là vì mục đích đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em làm con
nuôi.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng Luận văn này vẫn không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết, những hạn chế trong quá trình
nghiên cứu, tôi rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các
21


thầy, cô giáo để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung vấn đề sâu sắc hơn nữa
trên con đường nghiên cứu khoa học sau này để áp dụng vào công
việc thực tế.

22


23



×