Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

phan tich cai toi doc dao cua tan da trong bai hau troi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.84 KB, 8 trang )

Phân tích cái tôi độc đáo của Tản Đà trong bài Hầu Trời
Bài văn mẫu 1
Như Hoài Thanh đã nói “Tiên sinh là người của hai thế kỉ”, Tản Đà là người đã đặt
được dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, là người “dạo bản
đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đương sắp sửa”(Hoài Thanh). Tản Đà tên
thật là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống khoáng đạt và đã đeo “túi thơ” đi khắp cuộc đời
mình. Là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để lại
khá nhiều tác phẩm cho đời. Trong đó đáng kể là “Hầu Trời” được trích trong tập Còn
chơi (1921). Bài thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên
thiên đình đọc thơ.
Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên
trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi
người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp
tích cực cho nền văn học chung.
Tản Đà-nhắc đến thi nhân là nhắc đến “xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để
làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của
nhà thơ đã thể hiện trong “Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ. “Ngông” không phải
chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là
ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài
của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận.
Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những
ấn tượng sâu đậm.
Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái
tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để “đóng
dấu” hình ảnh của mình với thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh
diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con
người họ đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người
nào khác. Và cái ngông ấy trong “Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ “vang cả sông
Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.
“Đêm qua chẳng biết có hay không




Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những
phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc dáo
của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài
năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật
lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu
Trời. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ “quảng cáo” tài năng của
bản thân:
“Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơi.”
Tác giả đọc thơ rất tự tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác
phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông.
Sẵn tiện nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:
“Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”

Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã
cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các
nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội


hàm khá rộng. Họ không dám nói đến cái hay, cái “tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại
nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì
vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng:
“Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay.”
“Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hung mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng
tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất.
Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này
quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không
biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác
trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm
sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng
hết sức phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương như nhà thơ đã ý thức được sự
cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:
“Nhờ Trời văn con còn bán được”

“Vốn liếng còn một bụng văn đó”
Thật ngang tang khi thi sĩ muốn “gánh văn” lên Trời để bán.
“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
- “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!””
Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn
muốn văn của ông được lan rộng cung đình để mọi người biết đến ông- một tài năng


thực thụ của trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.
Qua bài thơ “Hầu Trời” không dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ
phàng: tài năng không thống nhất với số phận. Ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ
và bất hòa với cuộc đời:
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”
Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và
chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ ông. Và lời Trời khen hắn là sự thẩm định
có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông
ngạo của nhà thơ.
Để Trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt, Tản Đà liền đó “tâu trình” rõ ràng thân thế
của mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:
“Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.
Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện
đại, lại còn nói rõ bản quán, châu lục, tên hành tinh. Qua đó ông thể hiện niềm yêu
nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái
tên- tên thật chứ không phải tự hay hiệu- mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà

thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác
giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất
ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của
mình.
Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà
lại khẳng định rất “ngông”, của kẻ vốn đã “ngông” khi nhận mình là “trích tiên” bị đày
xuống hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận “khác thường
của mình”.
Sự khác thường đặc biệt này còn nằm ở việc thi sĩ được thừa nhận là một người


nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả”việc thiên lương của
nhân loại”, “Trời rằng không phải Trời đày, Trời định sai con một việc này, Là việc
“thiên lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái
ngông ấy lại được thổi vào trong ý thơ. Nhưng cái ngông ấy chẳng qua là vì nó đối lập
lại với cả xã hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương vốn đang
bị mai một của con người:
“Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ Trời trông mong”
Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về
danh lợi. Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời
bấy giờ.
Cuối cùng nhà thơ vẫn muốn khẳng định, tự khen thơ mình. Thơ thi nhân chẳng
những đẹp mà còn ẩn chứa những ý niệm cao siêu về cuộc đời, về thiên lương, nhân
sinh thế giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chânthiện- mỹ. Thoát ra khỏi quan niệm “thi dĩ ngôn chí” , Tản Đà thực sự thăng hoa trong
thế giới nghệ thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.
Kế thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà, người ta
không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một
cách để đối lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong
việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như

Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong
mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với
người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu
nó thì sẽ không thể “ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của
chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng
đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà
thơ nào khác.
Bài thơ “Hầu Trời” đã kết tinh cái tôi của Tàn Đà. Nhưng không chỉ trên phương
diện nội dung, những nét độc đáo và mới mẻ còn làm nên cái tôi trong nghệ thuật. Có
lẽ “Hầu Trời” có vẻ quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố tự sự.
Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá


thể của thơ cho phép nhà thơ thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để
tự do vẫy vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường thiên
được viết một cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ.
Bên cạnh đó, “Hầu Trời” còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ, các khổ có độ
dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản
Đà đã vượt ra khỏi quy pham nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái
tôi của ông.
Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố khác nhau. Tất
cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ
và mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở
thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.
Bài văn mẫu 2
Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới
và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí
quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện
tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những
bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ

có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ
được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho
bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống
rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên
đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ
cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một
cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.
Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản
thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của
cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng
một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:
Đêm qua chẳng biết có hay không,

Thật được lên tiên sướng lạ lùng.


Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun
nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm
Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.
Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên
như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện
hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ,
chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình.
Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe,
qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây !…
Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi.

Đây là một kiểu ngông đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan
điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch)
thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”
(đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài
năng của bản thân:
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít !…
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !”
Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của
mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của
mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn
là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả
phong cách ngông của mình:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và


trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên
lương” của nhân loại:
Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý
nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.
Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là
người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của
thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu

tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi
bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản
Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.
Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một
không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ, câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào
hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin
khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để
phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho
người nghệ sĩ.
Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường
nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã
có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào
vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức
bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ
tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình.
Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một
chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà
nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.



×